Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn các trung tâm bảo...

Tài liệu Quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn các trung tâm bảo trợ xã hội, thành phố hà nội

.PDF
88
492
53

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHÙNG THỊ HỒNG OANH QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN CÁC TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN HẢI HỮU HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Hải Hữu. Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Học viên Phùng Thị Hồng Oanh MỤC LỤC MỞ ĐẦU. 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật 10 1.1. Cách tiếp cận trong nghiên cứu và lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu 10 1.2. Trẻ em khuyết tật: khái niệm, đặc điểm và nhu cầu 12 1.3. Trung tâm bảo trợ xã hội 15 1.4. Quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật 16 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật 23 1.6. Quan điểm quốc tế và của Việt Nam về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong đó có trẻ em khuyết tật 25 Chương 2: Thực trạng quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật tại các trung tâm bảo trợ xã hội thành phố Hà Nội 29 2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 29 2.2. Thực trạng quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật tại các trung tâm bảo trợ xã hội 36 2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật 54 Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật tại các trung tâm bảo trợ xã hội 59 3.1. Định hướng chung về quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật tại các trung tâm bảo trợ xã hội 59 3.2. Các giải pháp. 60 3.3. Khuyến nghị 65 KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTXH Bảo trợ xã hội CTXH Công tác xã hội CBQL Cán bộ quản lý CRC Công ước quốc tế về quyền trẻ em LĐTBXH Lao động-Thương binh và Xã hội TECHCĐB Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt TEKT Trẻ em khuyết tật UBND Ủy ban nhân dân ĐTB Điểm trung bình MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay trên thế giới có khoảng 93 triệu trẻ em dưới 14 tuổi bị khuyết tật, riêng Việt Nam là 1,2 triệu trẻ. Trong đó có nhiều trẻ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hậu quả chiến tranh với các di chứng chất độc da cam, vật liệu nổ...[57]. Trẻ em khuyết tật (TEKT) thường ít có cơ hội và không được bảo đảm về các dịch vụ về y tế, học tập cũng như vui chơi giải trí… Số lượng TEKT có xu hướng gia tăng nhưng công tác quản lý, trợ giúp xã hội cho nhóm đối tượng này còn hạn chế, nhiều trẻ chưa được đánh giá đúng dạng khuyết tật để có thể đưa ra các biện pháp phục hồi đúng và kịp thời. TEKT rất cần được can thiệp một cách chuyên nghiệp và có kế hoạch cụ thể, đòi hỏi sự tham gia của nhân viên xã hội, của bác sỹ chuyên khoa, của giáo dục đặc biệt, sự tham gia của gia đình, nhà trường và cộng đồng. Công tác trợ giúp cho TEKT, đặc biệt là phục hồi chức năng đã được tiến hành từ rất lâu và có nhiều nghiên cứu hỗ trợ cho việc phục hồi chức năng các dạng khuyết tật khác nhau; các hoạt động phục hồi chức năng cho TEKT cũng đã được tiến hành bởi các trung tâm phục hồi chức năng, các bệnh viện chuyên khoa. Tuy nhiên, để quá trình trợ giúp mang tính chuyên nghiệp hơn, giúp cho TEKT không chỉ được phục hồi về thể chất mà còn được tiếp cận với các dịch vụ công tác xã hội (CTXH), dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục…thiết nghĩ cần những chính sách, quản lý CTXH đối với nhóm trẻ này. Trên thế giới, ở các nước như Anh, Mỹ, Canada... có các Luật riêng dành cho TEKT, điều này cho thấy, đây là nhóm đối tượng với các đặc tính riêng, cần nhận được sự quan tâm từ nhà nước và xã hội. Nhờ có hành lang pháp lý mà công tác phục hồi chức năng, trợ giúp xã hội cũng như các nghiên cứu liên quan đến TEKT cũng được tiến hành chuyên nghiệp và thuận lợi hơn tại các quốc gia này. Ở Việt Nam, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách, đề án trợ giúp cho TEKT. Tuy nhiên thực tiễn triển khai các chính sách và chương trình còn nhiều vướng mắc, có những điểm chưa thực sự đáp ứng nhu cầu của trẻ khuyết tật và gia đình trẻ. Đòi hỏi cần có những nghiên cứu sâu hơn về quản lý 1 CTXH đối với TEKT để đánh giá thực trang, đề xuất các giải pháp phù hợp, nâng cao hiệu quả quản lý và trợ giúp TEKT. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn các trung tâm bảo trợ xã hội, thành phố Hà Nội” cho luận văn cao học chuyên ngành CTXH của mình. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu ngoài nước Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến TEKT, các nghiên cứu thường tập trung chủ yếu đến biểu hiện, nhận thức, các dạng tật, phương pháp can thiệp đối với TEKT. Những công trình nghiên cứu của thế giới là nguồn tài liệu tham khảo quý để Học viên tiếp thu và vận dụng có hiệu quả, phù hợp với thực tiễn công tác trợ giúp TEKT tại Việt Nam. Nichcy trong tài liệu "Chăm sóc giảm nhẹ: Một món quà thời gian” năm 1989 đã giải thích về khái niệm chăm sóc giảm nhẹ như một khoảng thời gian nghỉ ngơi và giải phóng tạm thời khỏi trách nhiệm chăm sóc thường xuyên và được coi là một “món quà thời gian” cho những gia đình có trẻ em dễ bị tổn thương, đặc biệt là TEKT, hỗ trợ mối quan hệ của các thành viên trong gia đình qua việc giảm bớt áp lực căng thẳng trong quá trình chăm sóc trẻ liên tục [31]. “Hướng dẫn Chăm sóc Giảm nhẹ Quốc gia – Các dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ cho gia đình của trẻ khuyết tật phát triển, bị bệnh mãn tính và hiểm nghèo, và/hoặc có nguy cơ bị lạm dụng/sao nhãng” của Cernoch. J năm 1994 đưa ra hướng dẫn về “dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ” như một phần trọng yếu của các dịch vụ bảo vệ ngăn ngừa thứ cấp cho trẻ em. Hình thức chăm sóc này giúp giảm bớt những căng thẳng cả ở khía cạnh cá nhân và xã hội cho các bậc cha mẹ khi phải dành phần lớn thời gian và sức lực chăm sóc con em bị tổn thương/khuyết tật, vốn là những nguyên nhân gây đổ vỡ gia đình và buộc đưa trẻ vào sống trong các trung tâm BTXH [20]. “Thay đổi quan điểm, chính sách và cuộc sống, Tăng cường bảo vệ trẻ em ở Đông Âu và Trung Á: Các dịch vụ bảo vệ sớm cho trẻ em dễ bị tổn thương và gia đình” do Trung tâm Nghiên cứu Innocenti của UNICEF nghiên cứu năm 2003 đã giới thiệu về các dịch vụ bảo vệ sớm cho trẻ em dễ bị tổn thương. Nghiên cứu chỉ ra vai trò và chức năng của các dịch chăm sóc trong hệ thống ngăn ngừa thứ cấp của quốc gia 2 cho đối tượng trẻ em dễ bị tổn thương, đặc biệt là TEKT và gia đình nhằm tránh cho những trẻ em này bị tách khỏi gia đình của mình một cách không cần thiết [55] 2.2. Nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về TEKT dưới góc độ CTXH. Song những nghiên cứu mà học viên tiếp cận được, mới chỉ tập trung nghiên cứu về CTXH đối với TECHCĐB nói chung, hoặc CTXH cá nhân với từng dạng trẻ khuyết tật cụ thể. Có thể thấy, những công trình nghiên cứu sâu về quản lý CTXH, vai trò và quy trình của nhân viên CTXH hỗ trợ TEKT, đặc biệt là trẻ đang được nuôi dưỡng tại các trung tâm BTXH còn rất ít. Dường như đây vẫn còn là một khoảng trống cho những người quan tâm lĩnh vực này. Đề tài “Đánh giá nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội và đề xuất kế hoạch phát triển mô hình và hệ thống cung cấp dịch vụ công tác xã hội từ trung ương đến địa phương” của Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội năm 2012. Kết quả nghiên cứu chỉ ra nhóm các đối tượng yếu thế, trong đó có trẻ em khuyết tật có nhu cầu rất lớn với dịch vụ CTXH. Tuy nhiên, chất lượng các dịch vụ hiện chưa đáp ứng được nhu cầu của trẻ [8]. Luận văn thạc sỹ “Công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn các trung tâm bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Định” của tác giả Võ Thị Diệu Quế năm 2014. Đề tài đã đánh giá được thực trạng CTXH đối với TECHCĐB tại các trung tâm BTXH trên địa bàn tỉnh Bình Định. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần đảm bảo hoạt động CTXH đối với TECHCĐB tại các trung tâm tại Bình Định trong giai đoạn hiện nay [34]. Luận văn thạc sỹ“Hoạt động công tác xã hội với trẻ khuyết tật tại Trung tâm phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật tại Thụy An-Ba Vì-Hà Nội” của tác giả Dương Thị Thanh Nga năm 2014 đã đánh giá thực trạng hoạt động trợ giúp TEKT, chỉ ra yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới mô hình CTXH đối với TEKT tại trung tâm. Nghiên cứu nhận định khi cán bộ quản lý nhận thức được tầm quan trọng của CTXH trong hoạt đông của trung tâm sẽ mang lại cơ hội việc làm cho nhiều sinh viên ngành CTXH khi ra trường [30]. Nghiên cứu “An sinh xã hội và công tác xã hội cá nhân đối với trẻ khuyết tật tại Trung tâm bảo trợ trẻ em tàn tật-mồ côi Thị Nghè” của tác giả Tống Thị Lan 3 năm 2013 đã đưa ra những đánh giá cụ thể thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội, dịch vụ xã hội đối với TEKT tại trung tâm Thị Nghè. Nghiên cứu chỉ ra những thuận lợi, khó khăn của trung tâm khi triển khai các chính sách xã hội; điều kiện cơ sở vật chất, nguồn lực thực hiện (ngân sách, nguồn vận động tài trợ); đội ngũ cán bộ nhân viên, các dịch vụ hỗ trợ thân chủ (giáo dục, y tế, phục hồi chức năng, sinh hoạt)… Từ đó đưa ra một số mô hình và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý về CTXH [28]. Ở góc độ nghiên cứu về quản lý công tác xã hội có một số công trình như: Luận văn thạc sỹ “Quản lý công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” của tác giả Nguyễn Thị Oanh (năm 2016) đã đưa ra khái niệm Quản lý CTXH với TECHCĐB [32, tr.21]. Tác giả cũng phân tích nội dung về quản lý CTXH bao gồm quản lý về chính sách, pháp luật liên quan; quản lý đội ngũ nhân lực; quản lý đối tượng TECHCĐB; kiểm tra giám sát hoạt động và phân tích các yếu tố ảnh hưởng khác. Đồng thời chỉ ra nhu cầu lớn nhất đối với TEKT là cần được trợ giúp để điều trị phục hồi, nâng cao thể trạng sức khoẻ với các tang thiết bị chuyên dụng; được giáo dục hoà nhập với các lớp học hòa nhập [32]. Nghiên cứu “Quản lý công tác xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” của tác giả Đàm Hữu Hiệp (năm 2014) đã đánh giá công tác quản lý trợ giúp về CTXH đối với TECHCĐB và các dịch vụ xã hội hiện nay góp phần mang lại cái nhìn tổng quát; giúp cộng đồng xã hội hiểu rõ hơn về hoàn cảnh cũng như việc thực hiện các chính sách trợ giúp TECHCĐB trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Từ đó đề xuất giải pháp, khuyến nghị nâng cao hiệu quả quản lý CTXH [22]. Nguyễn Thị Thu Thủy với luận văn thạc sỹ “Quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” (năm 2014) tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý CTXH đối với NKT. Đó là nội dung quản lý về chính sách đối với NKT; nhân lực và dịch vụ CTXH cho NKT; quản lý về đối tượng NKT; quản lý về cơ sở vật chất. Qua nghiên cứu, tác giả hướng đến đề xuất các biện pháp đẩy mạnh hoạt động quản lý CTXH đối với NKT từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ [45]. Ngoài ra, còn có rất nhiều các chương trình, chính sách của Nhà nước, các báo cáo và tài liệu kỹ thuật về chăm sóc, bảo vệ TECHCĐB, trong đó có TEKT như: 4 - Báo cáo Phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam năm 2010 do tổ chức UNICEF và Chính phủ Việt Nam biên soạn với sự tham vấn từ nhiều chuyên gia, tổ chức trong nước và quốc tế. Báo cáo đưa ra phân tích cụ thể về tình hình trẻ em dựa trên cách tiếp cận quyền con người; ghi nhận những thành tựu đã đạt và chỉ ra vấn đề mới nảy sinh từ quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam. Báo cáo đưa ra nhận định rằng nhận thức của các gia đình về nhu cầu chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng đối với TEKT còn hạn chế, ít hoặc không có khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe/PHCN. Việt Nam có một mạng lưới PHCN dựa vào cộng đồng khá tốt trên 46 tỉnh thành nhưng hệ thống này thường không thân thiện với trẻ [56]. - Báo cáo kết quả thực hiện Luật người khuyết tật và đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2010 - 2015 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tháng 9 năm 2015 đã đánh giá những mặt đạt được, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Luật NKT trên cả nước. Báo cáo cho thấy những biến chuyển tích cực trong quan niệm xã hội khi nhìn nhận về vấn đề NKT và TEKT cho đến những thay đổi về phương thức, trợ giúp. Đồng thời chỉ ra vướng mắc, khó khăn xuất phát từ quy định của luật chưa phù hợp điều kiện thực tế tại một số địa phương. Từ đó kiến nghị các giải pháp sửa đổi và hoàn thiện chính sách, nâng cao hiệu quả triển khai Luật và đề án trợ giúp NKT [10] - Tài liệu “Công tác xã hội trong lĩnh vực phục hồi chức năng cho trẻ bại não” do Cục Bảo trợ xã hội - Bộ LĐTBXH phối hợp biên soạn cùng tác giả Trần Văn lý và cộng sự năm 2011 đã phân tích thực trạng công tác quản lý xã hội về chăm sóc, giáo dục, PHCN cho TEKT ở Việt Nam hiện nay, tập trung nghiên cứu sâu nhóm trẻ bại não. Từ đó đánh giá các hạn chế và đề xuất giải pháp, nguồn lực hỗ trợ từ cộng đồng, xã hội phù hợp với quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước [29]. - Nghiên cứu “Đánh giá ban đầu về đội ngũ nhân viên công tác xã hội trong lĩnh vực công tác xã hội với trẻ khuyết tật tại cơ sở xã hội” của Thạc sỹ Nguyễn Thị Bùi Thành năm 2013, đã đưa ra một số đánh giá ban đầu (điểm mạnh, hạn chế ) về năng lực của người làm CTXH với TEKT tại cơ sở xã hội từ đó đề xuất giải pháp nhằm tăng cường kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ nhân viên CTXH [46]. - “Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển các dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em” của tác giả Đỗ Thị Ngọc 5 Phương (năm 2012) nhận định tại Anh, Mĩ, c, Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, việc cung cấp dịch vụ xã hội chủ yếu là trách nhiệm của các bộ và cơ quan nhà nước. Tại các quốc gia này, cán bộ xã hội vẫn thực hiện chức năng tham vấn tâm lý xã hội, nhưng lồng gh p với đánh giá các nhu cầu phúc lợi xã hội và quản lý việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội đa dạng khác nhau. Dịch vụ xã hội cũng có thể bao gồm việc xem x t các nhu cầu phát triển của trẻ em, gia đình, cộng đồng và lồng gh p với sự tham gia của cộng đồng [33]. - “Khung kỹ thuật phát triển nghề công tác xã hội (Chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt” là bộ sách chuyên khảo do TS.Nguyễn Hải Hữu (chủ biên) năm 2009 nhằm cung cấp những kiến thức chuyên sâu và khung chiến lược chuyên nghiệp hóa nghề CTXH ở Việt Nam. Tài liệu cũng đề cập đến những tiêu chuẩn chăm sóc và tiêu chuẩn nhân viên CTXH trong trung tâm bảo trợ chăm sóc trẻ em [23]. - Tài liệu “Giới thiệu tổng quan về dịch vụ chăm sóc ban ngày cho TEKT (loại hình dịch vụ chăm sóc hỗ trợ dành cho TEKT và TECHCĐB khó khăn) năm 2016 do Cục Bảo trợ xã hội phối hợp với Unicef nghiên cứu. Tài liệu bám sát các tiêu chí, quy trình thủ tục và chính sách đã được quốc tế công nhận và ứng dụng trong triển khai loại hình dịch vụ chăm sóc hỗ trợ cho trẻ em, hướng đến mục tiêu đưa loại hình chăm sóc hỗ trợ vào hệ thống chăm sóc thay thế cho trẻ em Việt Nam, đáp ứng lợi ích tốt nhất cho trẻ [7]. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng quản lý CTXH đối với TEKT từ thực tiễn các trung tâm BTXH, thành phố Hà Nội và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác này; - Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý CTXH đối với TEKT ở các trung tâm BTXH, thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý CTXH đối với TEKT tại các trung tâm BTXH, thành phố Hà Nội. - Phân tích và đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý CTXH đối với TEKT tại các trung tâm BTXH, thành phố Hà Nội. 6 - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý CTXH đối với TEKT tại các trung tâm BTXH thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quản lý CTXH đối với TEKT từ thực tiễn các trung tâm BTXH, thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu quản lý CTXH đối với TEKT. Phạm vi về không gian: Tại 03 trung tâm BTXH có nuôi dưỡng TEKT trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Phạm vi về thời gian: Năm 2016 – 2017. 4.3. Khách thể nghiên cứu - Cán bộ quản lý tại các trung tâm BTXH và CBQL mạng lưới cơ sở BTXH ở Hà nội và trung ương: 47 người. Trong đó, 22 cán bộ quản lý gián tiếp ở Sở LĐTBXH TP.Hà Nội, Bộ LĐTBXH (Cục Bảo trợ xã hội, Cục Bảo vệ và chăm sóc trẻ em) và 25 cán bộ quản lý trực tiếp tại các trung tâm bảo trợ xã hội - Trẻ em khuyết tật sống tại các trung tâm BTXH độ tuổi 12-16. - Nhân viên CTXH/cán bộ chăm sóc. 5. Phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận - Đề tài dựa trên quan điểm của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nhìn nhận, đánh giá hoạt động quản lý CTXH với TEKT từ thực tiễn các Trung tâm BTXH và trong mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố tác động khách quan, chủ quan. Cách tiếp cận theo nhu cầu của A.Maslow được sử dụng trong nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhu cầu và sự đáp ứng nhu cầu TEKT qua các dịch vụ CTXH đang được cung cấp tại các trung tâm BTXH trên địa bàn thành phố Hà Nội. TEKT trong lập kế hoạch; quản lý việc thực hiện chính sách, cung cấp dịch vụ; quản lý đội ngũ nhân lực CTXH; quản lý đối tượng TEKT. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích tài liệu 7 Phân tích thông tin, số liệu từ các báo cáo, ấn phẩm, tài liệu liên quan đến lĩnh vực công tác xã hội, bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Mục đích của phương pháp: Thu thập thông tin từ các công trình khoa học nghiên cứu như luận văn, luận án, sách, báo có liên quan đến CTXH và quản lý nhà nước về chăm sóc, bảo vệ TECHCĐB nói chung và TEKT nói riêng để xây dựng cơ sở lý luận về CTXH với TEKT: các khái niệm cơ bản, vấn đề lý luận liên quan quản lý CTXH với TEKT. - Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động quản lý CTXH đối với TEKT, các điều kiện việc làm và cơ sở vật chất, môi trường, trang thiết bị cho TEKT tại ba trung tâm BTXH, thành phố Hà Nội. Mục đích của phương pháp: Thông qua quan sát hoạt động thực tiễn của cán bộ quản lý CTXH đối với TEKT ở thành phố Hà Nội làm phong phú thêm cho các kết quả nghiên cứu phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. - Phương pháp ph ng vấn sâu: Tiến hành 05 cuộc phỏng vấn sâu các cán bộ quản lý CTXH của Cục Bảo trợ xã hội, Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và Sở LĐTBXH Hà Nội; 05 cuộc phỏng vấn sâu các cán bộ quản lý CTXH/nhân viên CTXH làm việc với TEKT tại các Trung tâm BTXH thành phố Hà Nội. Và 01 nhân viên cung cấp dịch vụ cho trẻ em: mục đích thu thập thêm thông tin về công tác quản lý CTXH với TEKT dưới góc nhìn của nhân viên, 03 trẻ em để tìm hiểu công tác quản lý đã đáp ứng được nhu cầu và quyền của trẻ em như thế nào dưới góc nhìn của các em. Mục đích của phương pháp: Đề tài cũng tiến hành các cuộc phỏng vấn sâu đối với cán bộ quản lý CTXH làm việc với TEKT nhằm bổ khuyết thông tin cho các nội dung thu được từ phương pháp điều tra định lượng. - Phương pháp điều tra b ng bảng h i Điều tra 47 cán bộ từ cấp phó trường phòng ở các trung tâm BTXH đến cán bộ quản lý thuộc cơ quan ban hành chính sách như Sở LĐTBXH Hà Nội và Bộ LĐTBXH (Cục BTXH, Cục BVCSTE). Mục đích của phương pháp: Đây là phương pháp thu thập thông tin chủ yếu trong cuộc điều tra này, bao gồm những câu hỏi được xây dựng khảo sát thu thập 8 thông tin về: khách thể nghiên cứu; nhận thức về hoạt động quản lý CTXH với TEKT; thực trạng quản lý CTXH đối với TEKT về xây dựng, ban hành và thực thi văn bản chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực CTXH với TEKT; quản lý phát triển đội ngũ nhân lực làm việc trong lĩnh vực CTXH đối với TEKT và quản lý về đối tượng TEKT cũng như quản lý hoạt động kiểm tra, giám sát tại các trung tâm BTXH Hà Nội; các yếu tố ảnh hưởng hoạt động quản lý CTXH đối với TEKT. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài góp phần bổ sung cho hệ thống lý luận CTXH dưới góc độ quản lý, quản trị CTXH đối với TEKT. Trong đó có tiêu chí/nội dung quản lý nhà nước về CTXH đối với trẻ khuyết tật, giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý,chính sách nâng cao hiệu quả quản lý CTXH đối với trẻ khuyết tật dựa trên các kết quả khảo sát. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Các kết quả của nghiên cứu góp phần đánh giá thực trạng quản lý CTXH đối với TEKT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ, đề tài cũng mong muốn sẽ phần nào đưa ra những giải pháp hữu ích nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách, quản lý CTXH đối với TEKT. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu, danh mục từ viết tắt, mục lục. Nội dung luận văn bao gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật Chương 2: Thực trạng quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật tại các trung tâm bảo trợ xã hội thành phố Hà Nội Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật tại trung tâm bảo trợ xã hội. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT 1.1. Cách tiếp cận trong nghiên cứu và lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu 1.1.1. Tiếp cận dựa trên quyền và đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật Tiếp cận dựa trên quyền con người là khung lý thuyết chứa đựng các nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ thống quyền con người trong quá trình lập kế hoạch và tiến trình hoạt động quản lý CTXH với sự bảo hộ của luật pháp. Cách tiếp cận dựa trên quyền con người nhìn nhận khuyết tật không chỉ là vấn đề của y học, mà bao gồm cả các rào cản xã hội và sự tách biệt khỏi cuộc sống thường ngày bằng sự phân biệt đối xử và những chuẩn mực không phù hợp tạo nên tính dễ bị tổn thương cho TEKT. Cách tiếp cận đảm bảo quyền con người trong CTXH đối với TEKT nhấn mạnh đến quyền được tồn tại, quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe và được phát triển toàn diện, bình đẳng. Để thực hiện được cách tiếp cận này, Nhà nước cần có chương trình, chính sách toàn diện, tập trung vào các chính sách công khai chống nạn kỳ thị và phân biệt đối xử với TEKT. Việc lồng gh p vấn đề khuyết tật trong chương trình phát triển CTXH cũng như cải cách hệ thống an sinh xã hội, phát hiện và can thiệp sớm, giáo dục toàn diện là các hành động nên ưu tiên thực hiện. Đây là cách tiếp cận mang tính nhân văn, phù hợp chung với nhân loại. Cán bộ quản lý CTXH bảo vệ quyền cho TEKT thông qua chức năng biện hộ của nghề nghiệp; định hướng và tuyên truyền cho gia đình và TEKT hiểu đầy đủ các quyền, trách nhiệm để giúp TEKT kịp thời tiếp cận và thụ hưởng các chính sách đầy đủ, hiệu quả hơn. 1.1.2. Thuyết nhu cầu Theo thuyết nhu cầu của Abraham Maslow, con người là một thực thể sinh học – tâm lý xã hội cần cả nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội. Nhu cầu của con người rất đa dạng, phản ánh mong muốn chủ quan và khách quan tùy theo hoàn cảnh sống, văn hóa, nhận thức và địa vị xã hội của họ trong mỗi giai đoạn cuộc đời. 10 Ông chia nhu cầu con người thành 5 bậc thang từ thấp đến cao gồm: (i) Nhu cầu sống như thức ăn, quần áo, nhà ở, nghỉ ngơi, không khí… (ii) Nhu cầu an toàn: được bảo vệ, sống trong môi trường hòa bình, không chiến tranh, trường hợp bị mất kế sinh nhai được Nhà nước bảo vệ và trợ giúp. (iii) Nhu cầu thuộc về một nhóm bạn bè, gia đình hay cộng đồng; không bị tách biệt khỏi đời sống xã hội. (iv) Nhu cầu được tôn trọng và thừa nhận giá trị bản thân. (v) Nhu cầu hoàn thiện: tự khẳng định bản thân, được xã hội tạo điều kiện để hoàn thiện và phát triển cá nhân. Cách tiếp cận đáp ứng nhu cầu cho TEKT trong CTXH nhấn mạnh việc đảm bảo điều kiện phát triển toàn diện cho trẻ. Trước hết cần đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cơ bản để tồn tại như ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế... Sau đó là các nhu cầu cao hơn như nhu cầu được che chở, yêu thương, giáo dục và phát triển các kỹ năng sống, được tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng. Cần xác định rằng TEKT gặp rất nhiều vấn đề, cùng gặp một vấn đề giống nhau nhưng mỗi trẻ khác nhau lại nảy sinh nhu cầu khác nhau. Khi tiếp cận để can thiệp trợ giúp cần phải xác định đúng nhu cầu của từng TEKT và gia đình. Trong hoạt động CTXH với TEKT đòi hỏi cán bộ quản lý và nhân viên CTXH phải có kỹ năng thấu hiểu và kỹ năng quan sát để xác định rõ và đúng nhu cầu, từ đó lập kế hoạch can thiệp tìm ra phương pháp hỗ trợ thích hợp. Việc đáp ứng nhu cầu của TEKT cũng chính là động cơ để TEKT và gia đình tham gia vào các hoạt động của kế hoạch trợ giúp, mang lại hiệu quả thiết thực và tránh lãng phí. 1.1.3. Thuyết vai trò Vai trò là những khuôn mẫu ứng xử khác nhau do xã hội áp đặt cho mỗi chức vị của con người trong xã hội đó. Một cá nhân có thể đảm nhận nhiều vai trò khác nhau, do vậy những khuôn mẫu ứng xử xã hội đặt ra có thể mâu thuẫn với nhau, tạo ra khó khăn khi thực hiện các vai trò (ví dụ: một người ở xã hội là lãnh đạo nắm quyền điều hành chỉ đạo, nhưng khi về nhà lại đảm nhận vai trò làm chồng, làm cha, làm con phải tuân theo những quy tắc ứng xử, nề nếp kính trên nhường dưới). Cán bộ quản lý CTXH cũng có thể đóng nhiều vai trò khác nhau khi triển khai các hoạt động trợ giúp TEKT hay gia đình trẻ. Có lúc cán bộ quản lý CTXH đóng vai trò chỉ đạo, điều hành, cũng có khi lại nhà tham vấn, định hướng hoặc là 11 người kết nối, hòa giải xung đột. Ở mỗi vai trò, cán bộ quản lý CTXH phải vận dụng những kiến thức, kỹ năng khác nhau để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ riêng biệt. Đôi khi, họ phải đảm nhận nhiều vai trò cùng lúc, nên cần xác định đâu là vai trò chính, hoạt động chính để ưu tiên thực thi. Trong hoạt động quản lý CTXH với TEKT, cán bộ quản lý cần giúp nhân viên CTXH nhận thức vai trò khác nhau, có thể thông qua đóng vai để thấu hiểu được hoàn cảnh của TEKT để có được sự thấu hiểu, có trách nhiệm và suy nghĩ hành động tích cực trong chăm sóc, trợ giúp TEKT tốt hơn. 1.1.4. Thuyết quản trị công tác xã hội Quản trị CTXH là một phần nằm trong quản trị chung. Do đó, cán bộ, nhân viên công tác xã hội có thể áp dụng những thuyết này vào các hoạt động quản trị trong các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ xã hội. Bản chất của quản trị CTXH là sử dụng những kiến thức, kỹ năng của quản trị để vận hành cơ quan một cách tốt nhất từ đó mang lại những lợi ích hiệu quả nhất cho thân chủ. Lý thuyết xyz cung cấp cho nhà quản trị trong lĩnh vực CTXH những kiến thức cơ bản để tạo ra môi trường làm việc năng động và hiệu quả. Thuyết nhấn mạnh để quản lý và điều hành nhân viên cũng như giúp họ cam kết với công việc, nhà quản trị cần phải lưu tâm đến nhu cầu và mong muốn của nhân viên [9]. Điều này là rất quan trọng vì một trong những vấn đề hiện nay là nhân viên làm việc trong lĩnh vực CTXH thường không ổn định, nhất là những nhân viên trẻ. Vận dụng lý thuyết quản trị CTXH trong nghiên cứu, Học viên muốn tìm hiểu vai trò của nhà quản lý trong điều hành kế hoạch hành động, tổ chức nhân sự, cung cấp các dịch vụ trợ giúp TEKT tại các trung tâm BTXH. 1.2.Trẻ em khuyết tật: khái niệm, đặc điểm và nhu cầu 1.2.1.Khái niệm Tại Điều 1, CRC năm 1989 đã ghi nhận “Trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn ”. Trẻ em là người dưới 16 tuổi (Luật Ttrẻ em năm 2016). Trẻ em khuyết tật thuộc nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, dễ bị tổn thương và chưa được bảo đảm các quyền tham gia hoạt động như mọi thành viên trong 12 cộng đồng. Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em năm 2004 định nghĩa: “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hoà nhập với gia đình, cộng đồng” (Khoản 1, Điều 3). Luật Trẻ em 2016 (có hiệu lực từ 1/6/2017) cụ thể hóa hơn: “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em không đủ điều kiện thực hiện được quyền sống, quyền được bảo vệ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền học tập, cần có sự hỗ trợ, can thiệp đặc biệt của Nhà nước, gia đình và xã hội để được an toàn, hòa nhập gia đình, cộng đồng (Khoản 10, Điều 4). *Khái niệm trẻ em khuyết tật Nghiên cứu trẻ em khuyết tật ở Việt Nam năm 2003 đưa ra khái niệm: “Trẻ em khuyết tật là những trẻ từ 0 - 18 tuổi, không kể những nguyên nhân của khuyết tật, thiếu một hoặc hơn các bộ phận cơ thể hoặc chức năng cơ thể nhất định khiến giảm khả năng hành động và gây khó khăn trong công việc, cuộc sống và học tập”[5] Theo quy định tại khoản 1, điều 2, Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12 của Quốc hội thì khái niệm trẻ em khuyết tật được hiểu như sau: trẻ em khuyết tật là những người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Căn cứ Luật trẻ em năm 2016 làm tiêu chí xác định, trong phạm vi nghiên cứu đề tài, Học viên sử dụng khái niệm chung nhất: Trẻ em khuyết tật là người dưới 16 tuổi, không phân biệt nguồn gốc gây ra khuyết tật, bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Phân loại TEKT: Căn cứ vào các dạng khó khăn đặc thù, TEKT được phân chia thành các nhóm sau: TEKT vận động; TEKT nghe, nói; TEKT nhìn; TEKT thần kinh, tâm thần; TEKT trí tuệ; trẻ em có những khó khăn khác (bao gồm: trẻ đa tật). 13 Căn cứ cách phân loại mức độ khuyết tật theo Điều 3 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ, về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NKT chia thành ba nhóm là: TEKT đặc biệt nặng; TEKT nặng và TEKT nhẹ là trẻ em khuyết tật không thuộc hai trường hợp trên. 1.2.2. Đặc điểm và nhu cầu của trẻ em khuyết tật Đặc điểm về thể chất: TEKT là những trẻ em bị tổn thương về cơ thể hoặc rối loạn các chức năng nhất định khiến cho sinh hoạt, lao động, học tập gặp nhiều khó khăn, đặc điểm thể chất của TEKT có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình can thiệp, trợ giúp cho đối tượng này. Đặc điểm tâm sinh lý của TEKT Về tâm lý tính cách: Do mặc cảm bản thân là người bỏ đi, là gánh nặng cho gia đình/người thân nên trẻ dễ tự ái, dễ bị kích động, chán nản, thiếu tự tin. Trong quá trình tương tác xã hội, thái độ kỳ thị hay hành vi phân biệt đối xử từ những người xung quanh với trẻ, khiến trẻ nảy sinh tâm lý hoài nghi về giá trị bản thân, thiếu tin tưởng, có thái độ tiêu cực, ngại giao tiếp với mọi người. Ngược lại, có trường hợp bản thân trẻ giàu nghị lực, kiên trì vượt lên khiếm khuyết thân thể, định kiến xã hội đạt thành tích cao trong học tập và lao động. Về trí tuệ: trí tuệ của TEKT nói chung giảm sút tùy theo dạng tật, nên khả năng tư duy rất hạn chế (do số lượng cảm giác, tri giác giảm làm ảnh hưởng tới độ chính xác của hình ảnh, sự vật, hiện tượng); tư duy trừu tượng k m, nghèo nàn (do thiếu ngôn ngữ ở trẻ điếc bẩm sinh, trẻ bị thiểu năng trí tuệ…). Nhu cầu của TEKT: TEKT có những nhu cầu như mọi trẻ em khác và cũng có những nhu cầu riêng - Nhu cầu về thể chất (ăn, mặc, ở): trước hết việc bảo đảm chế độ dinh dưỡng hợp lý là nhu cầu rất quan trọng, là cơ sở cho trẻ tồn tại và phát triển về thể chất. Trẻ cần đáp ứng các phương tiện, tiện nghi sinh hoạt phù hợp; được khám chữa bệnh, được phục hồi chức năng (thẩm mỹ, tâm lý, sinh lý). - Nhu cầu được an toàn (được che chở): TEKT cần mái ấm gia đình làm chỗ dựa về tinh thần, được chăm sóc và yêu thương (động viên, khuyến khích, thấu hiểu), được tư vấn về các dịch vụ y tế có liên quan để hỗ trợ trẻ. 14 - Nhu cầu xã hội: TEKT có nhu cầu được giao lưu, tiếp xúc với những người xung quanh, tham gia các hoạt động xã hội… - Nhu cầu được quan tâm và tôn trọng, được chấp nhận như người bình thường khác. Cộng đồng xã hội và gia đình nơi TEKT cư trú cần được truyền thông, tư vấn về chống phân biệt kỳ thị. - Nhu cầu phát triển nhân cách: TEKT cần được học văn hóa, học nghề phù hợp với dạng tật, tình trạng sức khỏe. 1.3. Trung tâm bảo trợ xã hội Nghị định số 68/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở BTXH nêu rõ: Cơ sở bảo trợ xã hội là cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng từ 10 đối tượng trở lên. Bao gồm cơ sở bảo trợ xã hội công lập và cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập. Cơ sở bảo trợ xã hội công lập do cơ quan nhà nước quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội. Cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội (Điều 1, Điều 2). Hai thuật ngữ “cơ sở bảo trợ xã hội” và “trung tâm bảo trợ xã hội” có nghĩa gần tương đồng nhau. Tuy nhiên, phần lớn sử dụng thuật ngữ “trung tâm bảo trợ xã hội” chỉ “cơ sở bảo trợ xã hội công lập”, có sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước để phân biệt với các “cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập” do các tổ chức, cá nhân thành lập. Ở Việt Nam hiện có các loại hình cơ sở xã hội sau : a) Các cơ sở công lập thuộc sự quản lý của Nhà nước bao gồm: các trung tâm bảo trợ xã hội, các trung tâm giáo dục lao động xã hội, các trung tâm giáo dục dạy nghề thiếu niên, các trung tâm bảo trợ trẻ em, làng thiếu niên, các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, các trung tâm nuôi dưỡng người già, các trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật, trẻ mồ côi, trẻ nhiễm HIV/AIDS, các trung tâm công tác xã hội… b) Các cơ sở xã hội ngoài công lập bao gồm: 15 - Các cơ sở xã hội thuộc sự quản lý của đoàn thể xã hội như: mái ấm, nhà mở, cơ sở nuôi dạy trẻ khuyết tật, mồ côi; cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật… - Các cơ sở xã hội của tôn giáo nuôi dưỡng chăm sóc trẻ khuyết tật, trẻ mồ côi, trẻ nhiễm HIV/AIDS, người cao tuổi… - Các cơ sở xã hội của các tổ chức phi chính phủ trong nước và ngoài nước - Các cơ sở xã hội do tư nhân thành lập có sự cho phép của chính quyền [9] Đến nay, cả nước đã hình thành, phát triển được 418 cơ sở BTXH, trong đó có 195 cơ sở công lập và 223 cơ sở ngoài công lập được thành lập, hoạt động theo quy định tại Nghị định số 68/2008/NĐ-CP, Nghị định số 81/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Trong số cơ sở BTXH công lập có 40 Trung tâm CTXH. Dịch vụ được cung cấp tại các cơ sở gồm: các dịch vụ tiếp nhận, quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; tổ chức hoạt động phục hồi chức năng, lao động sản xuất, dạy văn hoá, dạy nghề, giáo dục hướng nghiệp và cung cấp các dịch vụ CTXH, đáp ứng nhu cầu trợ giúp xã hội cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn [11] Trong nghiên cứu này, Học viên tập trung nghiên cứu loại hình cơ sở BTXH công lập do cơ quan nhà nước quản lý đó là trung tâm BTXH. Có thể hiểu, trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh/thành phố là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh/thành phố, có chức năng tổ chức việc tiếp nhận, quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất, phục hồi chức năng và tổ chức các hoạt động dịch vụ công cho đối tượng BTXH theo quy định hiện hành của Nhà nước và của Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố. 1.4. Quản lý công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật: Khái niệm, chủ thể quản lý và nội dung hoạt động quản lý công tác xã hội 1.4.1. Khái niệm * Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật CTXH với TEKT là hoạt động của nhân viên CTXH sử dụng kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ can thiếp trợ giúp TEKT và kết nối các nguồn lực xã hội nhằm trợ giúp TEKT tiếp cận những dịch vụ phù hợp, phát huy năng lực vốn có, vượt qua những khó khăn, trở ngại vươn lên hòa nhập với cuộc sống. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan