Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lí nhà nước hoạt động bảo hiểm ở việt nam hiện nay ...

Tài liệu Quản lí nhà nước hoạt động bảo hiểm ở việt nam hiện nay

.PDF
28
210
143

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Bảo hiểm là một lĩnh vực rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung và với Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro, bảo hiểm ngày nay đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Tăng trưởng và phát triển bền vững là mục tiêu lâu dài của mọi doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trong nền kinh tế. Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng mạnh mẽ thì sự cạnh tranh trong ngành bảo hiểm diễn ra cũng ngày càng gay gắt hơn. Thực tế hoạt động bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của ngành bảo hiểm và nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Thị trường bảo hiểm Việt Nam đang được đa dạng hóa với tốc độ cao, sức ép mở cửa thị trường và thách thức hội nhập ngày càng lớn. Quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng và không thể thiếu được ở bất kì xã hội nào. Do tính chất quan trọng của ngành bảo hiểm đối với nền kinh tế, trong những trường hợp cần thiết, Nhà Nước cần phải tiến hành can thiệp và điều tiết thị trường này. Việc quản lí Nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm ngày càng trở nên quan trọng và được thể hiện rõ nét. Quản lý Nhà nước giúp cho bộ máy của các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm hoạt động nhịp nhàng, theo một khuôn khổ nhất định và có hiệu quả hơn. Sau đây là nội dung của đề tài: “Lí thuyết và thực tế về quản lí nhà nước hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay” do nhóm 2 thực hiện. 1 PHẦN I Lí thuyết về quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm 1. Khái niệm và đặc điểm quản lí nhà nước A. Khái niệm quản lí nhà nước Quản lý Nhà nước là một dạng quản lý đặc biệt, được sử dụng các quyền lực Nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh vực xã hội. B. Đặc điểm quản lí nhà nước + Nhà nước là một thiết chế quyền lực, sẽ định ra các luật, pháp luật, nghị định , quyết định về tài chính, các chính sách, thuế, tiền tệ… Các luật, chính sách này không những bắt buộc các doanh nghiệp, dân cư phải theo mà còn tạo điều kiện môi trường để các doanh nghiệp hoạt động. + Nhà nước bỏ vốn vào các doanh nghiệp quan trọng, các khu vực công cộng, các kết cấu hạ tầng. Nhà nước là nguồn tài chính to lớn đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, không chỉ tạo ra môi trường , hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động mà còn tạo cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại cho các ngành mới, khu vực mới có tầm quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. + Nhà nước cũng là người cung ứng các nguồn vốn cho đất nước, là người quyết định phát hành tiền tệ, kiểm soát tất cả các hoạt động tín dụng và phân phối tín dụng. Trong kinh doanh kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp không thể thiếu nghiệp vụ tín dụng, không thể không chịu sự tác động của lưu thông tiền tệ, của sự cung ứng tài chính của Nhà nước. Ngoài ra còn trợ giá, bù lỗ, quy định giá… + Nhà nước chi tiêu bằng vốn ngân sách sẽ trở thành người tiêu dùng lớn nhất của đất nước. Những khoản chi của Nhà nước tạo thành sức mua bằng tiền to lớn và đòi hỏi những hàng hoá, dịch vụ đa dạng, phức tạp tạo ra thị trường to lớn cho 2 việc tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp. Trong bất cứ tình hình chế độ xã hội nào, sức mua cho chỉ tiêu ngân sách Nhà nước tạo ra là sức mua lớn nhất thị trường và là lực lượng tiêu thụ mạnh nhất. + Nhà nước là người có tư cách là quyền lực, thực hiện việc kiểm tra kiểm soát tài chính, kinh doanh, các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có các hoạt động bảo hiểm. Những việc kinh doanh phạm pháp, những việc bê bối của các doanh nghiệp bảo hiểm… được Nhà nước xử lý theo pháp luật, đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động theo yêu cầu của nền kinh tế và đời sống nhân dân. Trong bất kỳ xã hội nào, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta thì Nhà nước quản lý hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội trong đó có hoạt động bảo hiểm là một tất yếu khách quan đồng thời đòi hỏi chủ quan xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta. 2. Bảo hiểm A. Các khái niệm: + Định nghĩa 1 Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít + Định nghĩa 2 Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xẩy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê + Định nghĩa 3 3 Bảo hiểm có thể định nghĩa là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn thất cộng đồng và có thể dự tính được + Khái niệm mang tính chung nhất Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro các biến cố bảo hiểm, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội diễn ra bình thường B. Đặc điểm của bảo hiểm + Bảo hiểm là một hình thức dự trữ tài chính nhằm bù đắp và khắc phục những tổn thất thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh và đời sống con người khi những biến cố bất lợi xảy ra. + Phân phối của quỹ bảo hiểm không phải là sự phân phối đồng đều bình quân theo mức độ đóng góp. + Việc phân phối, sử dụng quỹ bảo hiểm không xác định trước được về quy mô, thời gian diễn ra. C. Vai trò của bảo hiểm + Vai trò kinh tế : - Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư - Kênh huy động vốn hữu hiệu để đầu tư phát triển kinh tế - Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại giữa các nước + Vai trò xã hội: - Góp phần ngăn ngừa đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cuộc sống của con người an toàn, xã hội trật tự hơn. 4 - Tạo thêm công ăn việc làm cho ngườ lao động, tạo nếp sống tiết kiệm trên phạm vi toàn xã hội. - Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế xã hội D. Các hình thức bảo hiểm Tùy vào tiêu thức phân loại mà có những cách phân chia ra các hình thức bảo hiểm khác nhau, nhóm 2 sẽ tập trung vào 2 hình thức bảo hiểm là: Bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm xã hội + Bảo hiểm kinh doanh - Trên góc độ tài chính, bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra. - Trên góc độ pháp lý, bảo hiểm kinh doanh thực chất là một bản cam kết mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu bên kia đóng phí bảo hiểm. Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm. + Bảo hiểm xã hội: Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động. 3. Quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm A. Bảo hiểm xã hội + Bảo hiểm xã hội được áp dụng đối với từng đối tượng, từng loại doanh nghiệp (cứ doanh nghiệp sử dụng 10 người lao động trở lên) để đảm bảo cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp + Nhà nước thống nhất quản lý Nhà nước bằng chính sách, pháp luật, chế độ… 5 + Ban hành hệ thống pháp lệnh làm chuẩn mực pháp lý cho các loại hình bảo hiểm: - Quy định điều kiện bắt buộc và thủ tục hành chính cho sự ra đời và hoạt động của cơ quan bảo hiểm. - Quy định về chế độ và thủ tục về bảo hiểm và thực hiện bảo hiểm - Quy định về cơ chế hoạt động của cơ quan bảo hiểm, chẳng hạn quy định mức dự trữ cần thiết, cơ chế đầu tư phát triển quỹ bảo hiểm + Thống nhất quản lý bảo hiểm từ trung ương đến cơ sở thông qua hệ thống lao động thương binh xã hội. Thống nhất về chế độ, mức chi trả, hình thức, phương pháp tính toán. Chế độ bảo hiểm xã hội ở nước ta phản ánh bản chất tốt đẹp của nhà nước xã hội chủ nghĩa + Thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong hợp đồng bảo hiểm, lành mạnh hoá hợp đồng bảo hiểm + Tổ chức quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội + Cơ quan bảo hiểm xã hội có quyền và trách nhiệm sau đây: - Về quyền hạn Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định để quản lý việc thu, chi bảo hiểm xã hội và xác nhận đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội; tổ chức phương thức quản lý bảo hiểm xã hội để bảo đảm thực hiện các chế độ bảo hiểm có hiệu quả; tuyên truyền vận động để mọi người tham gia thực hiện bảo hiểm xã hội; từ chối việc chi trả bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá làm giả hồ sơ tài liệu. - Về trách nhiệm Tổ chức thu, quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội đúng quy định; thực hiện đúng chế độ, điều lệ bảo hiểm xã hội của nhà nước; tổ chức việc trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội kịp thời, đầy đủ thuận tiện; giải quyết các tranh chấp, 6 khiếu lại về bảo hiểm xã hội; thông báo định kỳ hàng năm về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động và người lao động. B. Bảo hiểm kinh doanh Nội dung quản lý hoạt động KDBH của Nhà nước vừa đảm bảo quản lý, xử lý chặt chẽ những vấn đề đã, đang và sẽ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, vừa đảm bảo tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNBH và thị trường bảo hiểm phát triển. Điều 120 Luật KDBH quy định: “Nội dung quản lý nhà nước về bảo hiểm kinh doanh bao gồm: + Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp Luật về kinh doanh bảo hiểm; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam; + Cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam; + Ban hành, phê chuẩn, hướng dẫn thực hiện quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm; + Áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm; + Tổ chức thông tin và dự báo tình hình thị trường bảo hiểm; + Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm; + Chấp thuận việc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động ở nước ngoài; + Quản lý hoạt động của văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam; 7 + Tổ chức việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm; + Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp Luật về kinh doanh bảo hiểm 8 Phần II Thực tế quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay 1 . Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bảo hiểm hiện nay Các cơ quan quản lý Nhà nước được phân cấp rõ ràng trong việc thực hiện chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Điều 121 Luật KDBH quy định: + Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm + Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. + Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp Luật. + Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại địa phương theo quy định của pháp Luật. Cục quản lý, giám sát BH là đơn vị thuộc bộ máy quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cả nước; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng theo quy định của pháp luật. Vụ Bảo hiểm làm việc theo chế độ chuyên viên 9 - Văn phòng Cục. - Phòng Phát triển thị trường bảo hiểm. - Phòng Quản lý, giám sát bảo hiểm phi nhân thọ. - Phòng Quản lý, giám sát bảo hiểm nhân thọ. - Phòng Quản lý, giám sát trung gian bảo hiểm . - Phòng kiểm tra. - Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm. Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức quản lý theo 3 cấp: Ở Trung ương là bảo hiểm xã hội Việt Nam, bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Hội đồng quản lý là cơ quan quản lý cao nhất của bảo hiểm xã hội Việt Nam. Thành viên của nó bao gồm: đại diện của Bộ lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Tài Chính, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Tổng giám đốc trực tiếp quản lý và điều hành Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo chế độ thủ trưởng. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội. Bộ lao động – Thương binh và xã hội là cơ quan của chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; xây dựng và trình ban hành pháp luật về bảo hiểm xã hội; ban hành các văn bản pháp qui về bảo hiểm xã hội thuộc thẩm quyền; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện bảo hiểm xã hội. Chính phủ thành lập hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội thống nhất để quản lý quỹ và thực hiện các chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội theo qui định của pháp luật đối với người lao động 2. Thực trạng ban hành văn bản qui phạm pháp luật về BH. A. Mặt tích cực: Việc ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về hoạt động bảo hiểm đã thể hiện nhiều điểm tích cực. Nhiều văn bản đã được ban hành để điều chỉnh kịp thời 10 những vấn đề chưa chính xác, chưa hợp lý; làm căn cứ để các đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp bảo hiểm làm căn cứ để hoạt động đúng chuyên môn, đúng chính sách, cơ chế. Một trong những nội dung rất được dư luận đồng tình trong Luật Kinh doanh Bảo hiểm sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua trong năm 2010 là quy định đưa sản phẩm bảo hiểm ra đấu thầu rộng rãi để tăng tính cạnh tranh, giảm tính độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm. Trước khi Luật Kinh doanh Bảo hiểm sửa đổi được thông qua, thị trường bảo hiểm tồn tại một khái niệm được giới bảo hiểm gọi là “bảo hiểm nội ngành”. Đó là những trường hợp các doanh nghiệp nhà nước thành lập các công ty bảo hiểm. Các công ty này cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong nội ngành, thiếu cạnh tranh, không bảo đảm tính công khai, minh bạch trên thị trường về mức phí bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm làm cho thị trường bảo hiểm bị chia cắt và phát triển thiếu tính cạnh tranh lành mạnh. Ngoài ra còn tình trạng các doanh nghiệp trực thuộc hợp tác với công ty mẹ, nhằm khép kín dịch vụ bảo hiểm trong nội ngành. Một số doanh nghiệp bảo hiểm hợp tác với cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư để chỉ định, ép buộc mua bảo hiểm hoặc can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm, dẫn đến hiện tượng chia cắt thị trường và tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Việc bổ sung hợp tác xã vào diện các loại hình doanh nghiệp được kinh doanh bảo hiểm cũng cho thấy sự thay đổi kịp thời trong việc ban hành văn bản qui định. Thực tế hiện nay, đã có nhiều hợp tác xã có quy mô lớn, những hợp tác xã này đã đáp ứng đủ các điều kiện được kinh doanh bảo hiểm theo quy định, chẳng hạn, quy định về vốn pháp định, năng lực tài chính, khả năng thanh toán, quản trị điều hành, quản trị rủi ro, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ... Hơn nữa, đây là tổ chức kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân, hoạt động như một loại hình doanh nghiệp. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung đưa thêm hợp tác xã vào diện các 11 loại hình doanh nghiệp được kinh doanh bảo hiểm đã cho thấy sự điều chỉnh kịp thời trong việc ban hành hệ thống chính sách. Quyết định thành lập Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm phá sản hoặc mất khả năng thanh toán cũng đã cho thấy tính đúng đắn trong ban hành văn bản qui phạm pháp luật. Nguồn để lập Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm được trích lập theo tỷ lệ phần trăm trên phí bảo hiểm áp dụng đối với tất cả các hợp đồng bảo hiểm. B. Mặt hạn chế: Bên cạnh những mặt tích cực, việc ban hành văn bản pháp luật vẫn còn một số mặt hạn chế, gây khó khăn cho những đơn vị thi hành cũng như người tham gia bảo hiểm. Theo quy định mới về bảo hiểm y tế, người bị tai nạn giao thông phải có giấy xác nhận không vi phạm pháp luật mới được thanh toán. Tuy nhiên có thể thấy rằng quy định này của Bộ Y tế đã gây phiền hà, bế tắc cho người dân. Theo Điều 3 trong Thông tư hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế của liên tịch Bộ Y tế và Bộ Tài chính (thông tư 09), những người bị tai nạn giao thông được xác định là không vi phạm pháp luật thì mới được bảo hiểm y tế thanh toán. Nếu không, người bệnh phải tự thanh toán chi phí. Tuy nhiên theo lập luận của Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) nội dung này không phản ánh đúng tinh thần và nội dung của Luật Bảo hiểm y tế. Vì theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, người tham gia bảo hiểm y tế chỉ bị tước quyền được hưởng chi trả trong trường hợp người đó có hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, nếu không chứng minh được người này vi phạm pháp luật khi bị tai nạn giao thông thì cơ quan bảo hiểm vẫn phải thanh toán. Trách nhiệm chứng minh này thuộc về cơ quan có thẩm quyền. Mặt khác theo thông tư 09, để được thanh toán bảo hiểm y tế, người bệnh cần phải có giấy xác nhận không vi phạm pháp luật về giao thông của cơ quan có thẩm 12 quyền. Tuy nhiên, thông tư lại không làm rõ "cơ quan có thẩm quyền" là cơ quan nào, ai là người đưa ra giấy xác nhận này. Cách quy định như vậy dẫn đến sự hiểu nhầm là trách nhiệm này thuộc về "người bệnh", gây phiền hà, bế tắc cho người hưởng bảo hiểm y tế. Cũng theo Bộ Tư pháp, có nhiều ý kiến cho rằng cơ quan có thẩm quyền xác nhận là Cảnh sát giao thông. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, nếu người bị tai nạn có đến xin giấy xác nhận thì cảnh sát giao thông cũng không có cơ sở để cấp loại giấy này. Trên thực tế, nhiều trường hợp tai nạn xảy ra nhưng cơ quan có thẩm quyền không đến kịp, hiện trường bị xáo trộn, người gây tai nạn trốn, người bị hại không có người làm chứng thì cơ quan có thẩm quyền sẽ không thể kết luận nguyên nhân gây ra tai nạn. Như vậy nếu theo thông tư này sẽ có nhiều trường hợp bị tai nạn giao thông sẽ không được thanh toán bảo hiểm ngay cả khi họ không có lỗi. Ngoài ra theo quy định tại khoản 2, Điều 114 của Luật Bảo hiểm xã hội, để được hưởng chế độ khi bị TNGT phải cung cấp bản sao biên bản của công an giao thông. Nhưng trong thực tế thì rất khó thực hiện vì không phải tất cả vụ TNGT đều có công an giao thông đến lập biên bản. Do thiếu các biên bản, có nhiều trường hợp không được hưởng chế độ TNGT. Cũng liên quan đến BHYT, việc cùng chi trả chi phí trong khám chữa bệnh BHYT đã gây khó khăn cho một số nhóm đối tượng như người nghèo, người hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội bị bệnh nặng có chi phí khám chữa bệnh lớn như ung thư, chạy thận nhân tạo… Luật Bảo hiểm y tế quy định đã vi phạm pháp luật thì không được chi trả viện phí. Tuy nhiên trên thực tế, số người làm công tác giám định hiện nay rất ít, không thể giải quyết được tất cả các trường hợp TNGT. Với quy định như hiện nay, giám định viên cũng không đủ thẩm quyền để đề nghị công an xác minh các trường hợp TNGT. Như vậy, ngành bảo hiểm sẽ phải gánh thêm nhiều trách nhiệm. 13 Về vấn đề bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) thì quy định về thời gian đăng ký thất nghiệp được xem là chưa hợp lý. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày chấm dứt hợp đồng, người lao động phải được chốt sổ bảo hiểm xã hội. Trong khi đó phải đăng ký trong vòng 7 ngày kể từ ngày thôi việc và nộp sổ bảo hiểm xã hội trong vòng 15 ngày kể từ ngày đăng ký. Bên cạnh đó, nhiều lao động khi thôi việc, vì nhiều lý do nên chưa thể kịp đăng ký trợ cấp thất nghiệp theo hạn định. Các quy định hiện hành về phòng chống trục lợi trong bảo hiểm ở Việt Nam còn quá bất cập và không theo kịp thực tiễn thị trường. Biện pháp chế tài xử lý các hành vi trục lợi bảo hiểm còn quá thiếu. Theo Nghị định về xử phạt hành chính, hành vi trục lợi bảo hiểm chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tối đa là 20 triệu đồng. Bộ luật hình sự chưa có điều luật nào quy định cụ thể về tội trục lợi bảo hiểm. Đối tượng trục lợi bảo hiểm chỉ bị xử với các tội danh liên quan như tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản... Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều vụ trục lợi bảo hiểm chưa được điều tra và xét xử nghiêm khắc, và cũng chính vì vậy không có tính răn đe. Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc chuyển nhượng từng loại hợp đồng bảo hiểm mà chỉ quy định chung việc chuyển nhượng tất cả các loại hợp đồng bảo hiểm. Tại Điều 26 như sau: “1. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 2. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận về việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế”. Rõ ràng quy định về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm tại Điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm còn quá chung chung và mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền của bên mua bảo hiểm trong việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho người thứ ba và việc chuyển nhượng này phải được sự chấp thuận bằng văn bản của doanh nghiệp bảo hiểm, mà chưa đề cập đến các vấn đề như: 14 điều kiện chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong quan hệ chuyển nhượng; và hậu quả pháp lý của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Mặt khác, hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự lại có sự khác biệt rất lớn về đối tượng bảo hiểm, quyền lợi có thể được bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm Vấn đề quy định về tuổi nghỉ hưu và mức hưởng lương hưu như quy định của Luật BHXH hiện tại cũng được xem là chưa hợp lý, tuổi nghỉ hưu còn thấp, nhất là đối với nữ, trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng, làm kéo dài thời gian hưởng lương hưu; quy định về điều kiện giảm tuổi nghỉ hưu, nghỉ hưu trước tuổi quá rộng nên số người nghỉ hưu trước tuổi ngày càng tăng... Những hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến việc cân đối thu chi quỹ hưu trí, tử tuất trong tương lai. Để việc cân đối thu chi quỹ hưu trí, tử tuất đảm bảo lâu dài, BHXH kiến nghị tăng dần tuổi nghỉ hưu theo hướng cứ 2 năm tăng thêm 1 tuổi, đến khi tuổi của nam đủ 65 tuổi và tuổi nghỉ hưu của nữ đủ 60 tuổi. Tình trạng chồng chéo văn bản hướng dẫn Luật cũng là vấn đề hạn chế trong việc ban hành các văn bản qui định. Ví dụ, ngay sau khi Luật BHXH được ban hành, Chính phủ và các Bộ, ngành đã tập trung xây dựng một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện các quy định của Luật BHXH bao gồm các nội dung về hướng dẫn việc thực hiện chính sách, chế độ BHXH bắt buộc đối với cán bộ, công chức, người lao động... Tuy nhiên, hiện các văn bản hướng dẫn thực hiện chưa kịp thời và đồng bộ. Một số nội dung hướng dẫn trong các văn bản còn chưa rõ ràng. Bên cạnh đó, việc ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung cũng chưa kịp thời gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Tại Hội thảo tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện Luật BHXH, Luật BHYT do Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức mới đây, các ý kiến đều cho rằng cần có những chế tài mạnh mẽ hơn, chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo việc thực thi chính sách. 15 3. Thực trạng tổ chức quản lý và thực hiện chính sách của nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm hiện nay. A. Mặt tích cực: Công tác tổ chức quản lý và thực hiện chính sách của nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm đã đạt được nhiều thành công. Nhiều loại hình bảo hiểm được ra đời để đáp ứng nhu cầu của xã hội, cũng như phục vụ cho công tác thực hiện chính sách an sinh xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của chính phủ. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được triển khai ở nước ta từ ngày 1/1/2009. Đến nay, sau hai năm triển khai thực hiện đã từng bước khẳng định đây là chính sách có tác động trực tiếp và thiết thực đối với người lao động , người sử dụng lao động và vấn đề an sinh xã hội; được người sử dụng lao động, người lao động đón nhận một cách tích cực, được dư luận xã hội đánh giá cao là một trong những chính sách sớm đi vào cuộc sống. Việc quyết định chế độ bảo hiểm đối với ngành nông nghiệp cũng đã cho thấy sự hợp lý trong quá trình điều hành thực hiện chính sách của nhà nước. Bởi lẽ hàng năm, nước ta thường phải hứng chịu các đợt thiên tai như lũ lụt, hạn hán, rét buốt gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền sản xuất nông nghiệp, gây ra nhiều khó khăn mất mát cho bà con nông dân. Chính điều này nên trong thời gian dài rất ít có công ty bảo hiểm đầu tư vào lĩnh vực này. Vì vậy sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp được xem là một quyết định đúng đắn, phục vụ tốt cho quá trình điều hành chính sách của nhà nước, tạo sự tự tin, giúp nông dân khắc phục những thiệt hại nếu xảy ra rủi ro. Theo QĐ 315 của Thủ tướng, từ 1-7-2011, nước ta sẽ chính thức triển khai thí điểm BHNN tại địa bàn 21 tỉnh trên cả nước, cho 3 nhóm đối tượng chủ yếu là: Cây lúa, đại gia súc, gia cầm và bảo hiểm cho nuôi cá tra, basa, tôm thẻ chân trắng. đối tượng được tham gia BHNN là các hộ nghèo, cận nghèo và các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp khác. Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm BHNN; 16 hỗ trợ 80% cho hộ nông dân, cá nhân cận nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm BHNN và 60% cho hộ nông dân, cá nhân không thuộc diện nghèo, cận nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm BHNN. Và tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm BHNN được hỗ trợ 20% phí bảo hiểm. B. Mặt hạn chế: Việc tổ chức quản lý việc thực hiện bảo hiểm ở một số nơi còn chưa sát sao. Sau một năm Luật BHYT đi vào cuộc sống, nhưng đến năm 2010, toàn tỉnh Quảng Ninh vẫn còn gần 40.000 trẻ em, chiếm 1/3 tổng số trẻ em dưới 6 tuổi chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế, gây khó khăn cho cơ sở khám chữa bệnh và ngành Bảo hiểm trong công tác thống kê, thanh toán chi phí khám bệnh. Đối với cơ quan quản lý nhà nước hiện nay chưa có phần mềm thống kê các báo cáo của các DNBH gửi đến Vụ Bảo hiểm- Bộ Tài chính. Các chuyên viên phải cập nhật bằng tay từ số liệu báo cáo của DNBH. Hiện đã có 25 DNBH phi nhân thọ, 10 DNBH nhân thọ, 8 DN môi giới bảo hiểm nên việc tổng hợp các số liệu của các báo cáo rất phức tạp, tốn thời gian, công sức và dễ dẫn đến sai xót. Từ thực trạng trên chúng ta thấy, hiện các DNBH đã mở rất nhiều chi nhánh, công ty thành viên, văn phòng kinh doanh trên toàn quốc song việc không cập nhật được đầy đủ, kịp thời chính xác các thông tin về kinh doanh bảo hiểm của những đơn vị này, gây khó khăn cho công tác quản lý DNBH. 4. Thực trạng thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BH; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động BH hiện nay. A. Mặt tích cực: Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm cũng như công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động BH đã thể hiện nhiều điểm tích cực. Nhiều đợt thanh tra đã phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm. Ví dụ như năm 2010, qua thanh tra, thanh tra Sở Y tế TP phát hiện Bệnh viện đa khoa tư nhân Phổ Quang (2B Phổ Quang, Q.Tân Bình) 17 có nhiều sai phạm trong thực hiện hợp đồng với BHXH TP. Cụ thể là nhiều trường hợp bác sĩ chỉ định thuốc và xét nghiệm không phù hợp với chẩn đoán. Ví dụ thuốc Telfat 180mg (kháng dị ứng) liều thông thường 1 viên/ngày, nhưng bác sĩ kê toa cho bệnh nhân bị áp xe lạnh sau mổ nhọt với liều 4 viên/ngày. Bệnh nhân được chẩn đoán hạ canxi nhưng cho làm xét nghiệm cholesterol (mỡ trong máu), HDL (mỡ tốt trong máu), LDL (mỡ xấu trong máu), HbsAg (viêm gan siêu vi B), AST (ung thư gan); bệnh nhân rối loạn tiêu hóa cho làm ECG (điện tim); bệnh nhân viêm họng hạt cho xét nghiệm ion của máu; bệnh nhân viêm mũi họng cấp cho xét nghiệm mỡ trong máu, chất cặn bã trong nước tiểu, xét nghiệm chức năng gan, xét nghiệm men gan, xét nghiệm ion của máu và tổng phân tích nước tiểu. Đặc biệt, có những bệnh nhân còn bị chỉ định thuốc có cùng tác dụng hoặc tác dụng đối kháng nhau trong cùng một toa thuốc, sử dụng cùng một thời điểm. Có bệnh nhân được bác sĩ kê toa thuốc uống cùng lúc bốn loại thuốc kháng viêm, hai loại thuốc kháng dị ứng; có bệnh nhân cùng lúc được cho uống bốn loại thuốc trị ho... Qua thanh tra việc thu, quản lý và sử dụng quỹ BHYT trên địa bàn TP trong bốn năm gần đây, Thanh tra TP đã phát hiện hầu hết các chứng từ, sổ sách dùng để thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT có sai sót ở những bệnh viện được thanh tra là Bệnh viện Phổ Quang I, Bệnh viện Mắt Sài Gòn II, Bệnh viện Q.1, Bệnh viện Q.8, Công ty TNHH Trung tâm y khoa Phước An (HEPA). Hầu hết các chứng từ, hồ sơ thanh toán được kiểm tra ở các bệnh viện trên không có đầy đủ chữ ký trên chứng từ, không lưu toa thuốc, không có chỉ định dùng thuốc, y sĩ... kê đơn thuốc, không tính tiền trên phiếu phát thuốc, không mở sổ sách theo dõi, thống kê các chi phí thuốc theo quy định, số liệu trên chứng từ chi tiết và bảng tổng hợp khác nhau, phiếu chỉ định xét nghiệm không có chữ ký của bác sĩ, không có ngày tháng thực hiện xét nghiệm... 18 Qua thanh tra tại 775 đơn vị đã phát hiện nhiều sai phạm như chủ doanh nghiệp (DN) không thực hiện tham gia đầy đủ cho tổng số lao động hiện có của DN thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc, không trả tiền BHXH vào lương cho người lao động không thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc, không lập hồ sơ cấp sổ BHXH, không trả sổ BHXH kịp thời cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động,... trong đó vi phạm tập trung chủ yếu ở các DN ngoài quốc doanh. Trong năm 2010, Bộ Tài chính đã siết chặt quản lý hoạt động kinh doanh BH. Thông qua thanh, kiểm tra, Bộ đã kịp thời chấn chỉnh những sai phạm của một số DNBH, như chi hoa hồng BH khi chưa đủ điều kiện, từ chối chi trả BH thiếu căn cứ… Cục Quản lý giám sát BH đã yêu cầu nhiều DNBH hạch toán bổ sung doanh thu, tăng quỹ dự phòng, điều chỉnh giảm chi phí hoạt động... Năm 2011, phấn đấu đạt tổng doanh thu phí BH toàn thị trường đạt 35.290 tỷ đồng, tăng 18,8% so với năm 2010. Đây là mục tiêu khá cao, nhưng với những kết quả mà nhiều DNBH đã đạt được trong năm qua, mục tiêu này hoàn toàn trong tầm tay. Ông Trịnh Thanh Hoan, Cục trưởng Cục Quản lý giám sát BH cho biết, để hoàn thành mục tiêu tổng doanh thu phí BH toàn thị trường đạt 35.290 tỷ đồng, cùng với nỗ lực của DN, Cục tiếp tục hoàn thiện các chính sách theo hướng phát triển thị trường BH toàn diện, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và người dân. Các hoạt động hỗ trợ DNBH, như tổ chức các khóa đào tạo cơ bản về BH, quản trị DN, đầu tư… sẽ được Bộ Tài chính triển khai trong năm 2011, đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, cá nhân. Cục cũng tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đề xuất Bộ Tài chính cắt giảm quy trình, hồ sơ của một số thủ tục hành chính trong lĩnh vực BH, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường phát triển. Nghị định 85/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK được ban hành thay thế Nghị định 36/2007/NĐ-CP đã mạnh tay hơn trong việc xử lý CTCK trong việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề 19 nghiệp cho nhân viên. Theo đó, từ ngày 20/9/2010, CTCK sẽ bị phạt từ 50 - 70 triệu đồng nếu không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp và không trích lập đầy đủ quỹ bảo vệ NĐT. Với yêu cầu CTCK phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tại công ty (bồi thường thiệt hại cho bên thứ 3), công ty bảo hiểm sẽ là nơi chi trả những khoản thiệt hại do sơ sót của CTCK và nhân viên CTCK gây ra cho khách hàng. Tuy nhiên, đã 4 tháng qua trôi qua, nhưng theo khảo sát của ĐTCK, đến nay vẫn không có nhiều CTCK tuân thủ quy định này, cho dù hoạt động của CTCK tiềm ẩn nhiều rủi ro như: nhập lệnh sai, tư vấn cho khách hàng không chính xác, đưa ra giá bảo lãnh phát hành không phù hợp dẫn đến đợt phát hành không thành công, không chuyển được lệnh vì đường truyền trục trặc… Những nghiệp vụ này đều thuộc diện CTCK phải mua bảo hiểm. Để nâng cao hiệu quả công tác của Cục Quản lý giám sát bảo hiểm, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành Nghị định 41/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong đó trao chức năng thanh tra chuyên ngành và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cho Cục Quản lý giám sát bảo hiểm. Theo đó, Bộ Tài chính đã ban hành quyết định thành lập thanh tra chuyên ngành về bảo hiểm (thanh tra Cục) đồng thời ban hành các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Cục. Với việc trao thẩm quyền thanh tra và xử lý vi phạm cho Cục Quản lý và giám sát bảo hiểm, trong năm 2010 và các năm sắp tới công tác thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm được kỳ vọng sẽ mang tính chủ động và kịp thời. Và như thế, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn. Mức xử phạt cũng như hình phạt bổ sung sẽ có tính răn đe cao hơn, thậm chí sẽ tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn đối với phạm vi, địa bàn hoặc nghiệp vụ. Quyết định yêu cầu phải công khai kết luận thanh tra cũng là điểm tích cực trong công tác thanh tra. Đây là một trong những điểm mới của Luật Thanh tra số 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng