Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ thương mại của vương quốc ayutthaya với một số nước châu á thế kỷ xiv ...

Tài liệu Quan hệ thương mại của vương quốc ayutthaya với một số nước châu á thế kỷ xiv xvi

.PDF
73
136
61

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử, Thái Lan đã từng được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như: Ayutthaya, Siam, Thái Lan,…Các nhà nghiên cứu đã dùng các khái niệm khác nhau để chỉ về vương quốc này. “Người Trung Quốc dùng tên Siên để chỉ vương quốc Sukhothai. “Syam” là tên người Khmer sử dụng để chỉ những kẻ man rợ đến từ miền trung Mê Nam. Từ này được sử dụng sớm nhất theo các phát hiện cho đến nay là ở các bản khắc cổ của người Chàm vào thế kỷ XI đã nói đến người Siam là các tù nhân chiến tranh. Sau khi vương quốc Ayutthaya được thành lập vào năm 1350, lãnh thổ thuộc quyền cai trị của các vị vua Ayutthaya được gọi là Siam. Người Ấn thường gọi là thành phố Siam” [5; 280]. Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tôi dùng khái niệm Ayutthaya để chỉ vương triều tồn tại trong lịch sử Thái Lan và phát triển hưng thịnh trong suốt hơn 400 năm. Khi đứng ở điểm nhìn từ hiện tại về quá khứ tôi sử dụng khái niệm Thái Lan. Phụ thuộc vào các quan điểm khác nhau mà các thuật ngữ Ayutthaya, Siam hoặc Thái Lan được sử dụng thay thế. Nằm ở phía Tây Nam của bán đảo Đông Dương với lãnh thổ hẹp ngang và đường bờ biển chạy dài, vương quốc Thái Lan vừa ở vị trí giữa hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Hoa, lại là nơi tiếp giáp giữa hai vùng lãnh thổ Đông Bắc Á và Đông Nam Á; đồng thời vừa gắn với lục địa châu Á vừa hòa nhập với môi trường kinh tế biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Chính vì vậy, ngay từ những thế kỷ đầu sau Công nguyên, Thái Lan đã có mối liên hệ sớm với khu vực Đông Á, Tây Nam Á, là nơi tiếp nhận các mạch nguồn lịch sử và chia sẻ với các quốc gia trong khu vực những giá trị lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội. Thế kỷ X – XV, là thời kỳ thịnh đạt của các quốc gia phong kiến dân tộc ở Đông Nam Á. Trên bình diện khu vực giai đoạn này xuất hiện các đế chế 2 lớn như: Srivijaya, Majapahit (Indonesia), Angkor, Đại Việt,...Bằng nhu cầu và khả năng tiếp nhận, các quốc gia Đông Nam Á tham gia vào hệ thống thương mại quốc tế ở những mức độ khác nhau. Cùng với việc đẩy mạnh tiếp xúc – giao lưu với hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Hoa, những mối liên hệ mang tính nội vùng, khu vực đã và đang là nhu cầu cấp thiết của các quốc gia Đông Nam Á. Với tư cách là một thành viên của khu vực, bước sang thế kỷ XIV, vương quốc Ayutthaya đã “trỗi dậy”, trở thành một thể chế mạnh và quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Với vị trí địa lý thuận lợi, Ayutthaya là địa điểm giao thương hấp dẫn đối với nhiều nước trên thế giới, rất nhiều thương thuyền của Trung Quốc, Ấn Độ, Arập, các nước Đông Nam Á và thế giới đã đến Ayutthaya. Với nền kinh tế nông nghiệp là chủ đạo và xuyên suốt trong quá trình lịch sử của các nhà nước quân chủ Thái Lan nhưng không phải vì thế mà giao thương của Thái Lan thời kỳ tồn tại của vương quốc Ayutthaya bị hạn chế. Thực tế lịch sử đã chứng minh thế kỷ XIV – XVI, quan hệ thương mại của vương quốc này vẫn có sự phát triển nhất định. Hàng hóa của Ayutthaya được đưa ra nước ngoài không chỉ bằng con đường buôn bán thuần túy mà còn bằng con đường chính trị, ngoại giao dưới hình thức cống nạp và theo chân các sứ đoàn ngoại giao ra nước ngoài. Đây cũng là điểm tương đồng của Ayutthaya với các nước trong khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế Thái Lan trong những thế kỷ gần đây là kết quả của nhiều nhân tố trong đó có sự kế thừa của quan hệ giao thương được thiết lập trong suốt chiều dài lịch sử. Đó chính là tiền đề để Thái Lan đạt được những thành tựu như ngày hôm nay. Có thể nói, thời kỳ tồn tại của vương triều Ayutthaya nhất là thế kỷ XIV – XVI, là giai đoạn mang tính bản lề cho thương mại Thái Lan vươn lên mạnh mẽ trong những thế kỷ tiếp theo. 3 Quan hệ thương mại của Ayutthaya đã góp phần tạo nên quan hệ thương mại của Thái Lan sau này. Ayutthaya với tư cách là một vương triều thịnh trị tồn tại suốt bốn thế kỷ tạo nên nền tảng kinh tế vững chắc cho Thái Lan. Nhìn lại những thành tựu kinh tế mà các vương triều đã đạt được tạo nên truyền thống văn hóa cũng như một truyền thống thương mại đậm nét. Từ đó, kinh nghiệm buôn bán và giao thương của các tầng lớp thương nhân Thái Lan đã được hình thành. Quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya đã tạo nên quan hệ quốc tế rộng mở. Thái Lan có điều kiện tiếp thu và giao lưu với các nền văn hóa bên ngoài. Thương mại giống như sợi dây liên kết để từ đó thiết lập nên các mối liên hệ khác. Không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế, mối quan hệ thương mại ở một phương diện nào đó là hình thức mở đường cho quan hệ ngoại giao và chính trị. Ngoại giao và thương mại nằm trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, tạo thuận lợi cho nhau trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó, thương mại cũng góp phần giúp ta có những hiểu biết về mặt văn hóa của các quốc gia. Đó là điều kiện tốt để Thái Lan giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hiểu biết văn hóa và thị trường tạo tiền đề cho cạnh tranh kinh tế trong thế kỷ XIX. Có thể xem xét quá trình ấy như một động lực cho nền kinh tế Thái Lan có bước tiến xa hơn và khẳng định được vị trí của mình không chỉ trong khu vực mà còn trên trường quốc tế. Xuất phát từ những ý tưởng đó, tôi quyết định chọn vấn đề: “Quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề sự phát triển thương mại của vương quốc Ayutthaya cũng như quan hệ thương mại của Ayutthaya với một số nước châu Á là một đề tài hấp 4 dẫn đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả Thái Lan, Việt Nam và các nhà nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu về lịch sử, kinh tế, chính trị của vương quốc Ayutthaya được công bố ngày càng nhiều. Trong đó, quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI là một vấn đề có ý nghĩa khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay những công trình đi sâu nghiên cứu về quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI còn chưa nhiều. E.O. Becdin trong cuốn “Lịch sử Thái Lan” (tóm lược), Nhà xuất bản Khoa học Matxcơva, 1973, đã đề cập đến nhà nước Ayutthaya và quan hệ buôn bán của nó với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một cuốn giáo trình đại cương nên quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI được tác giả trình bày sơ lược thông qua mối quan hệ giữa các nước trong khu vực. Cuốn “Lịch sử Đông Nam Á” của D.G.E. Hall, xuất bản ở Luân Đôn năm 1956 là một công trình tổng hợp về lịch sử Đông Nam Á. Trong đó, tác giả trình bày toàn bộ lịch sử Đông Nam Á với tư cách là một khu vực địa lí – lịch sử - văn hóa qua từng thời kỳ phát triển. Ở chương VII, tác giả đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa Ayutthaya với các nước láng giềng như Malacca, Đại Việt, Trung Quốc,…trong thế kỷ XIV – XVI, trong đó cũng có đề cập đến quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya. Tuy nhiên, do bố cục của cuốn sách và mục đích nghiên cứu nên vấn đề quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI chưa được tác giả trình bày thành một vấn đề riêng có hệ thống. Cuốn “Lịch sử vương quốc Thái Lan” của Lê Văn Quang (Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1995) đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về tiến trình phát triển của lịch sử Thái Lan từ thời cổ đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Trong khi trình bày về lịch sử vương quốc Ayutthaya, tác giả 5 đã đề cập đôi nét đến quan hệ thương mại giữa Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI. Cuốn “Lịch sử Thái Lan” xuất bản năm 1998 do Phạm Nguyên Long, Nguyễn Tương Lai đồng chủ biên đã trình bày những nét cơ bản của lịch sử Thái Lan từ thời Tiền sử đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX trên phương diện kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội. Tuy nhiên, vấn đề quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với các nước châu Á thế kỷ XIV – XVI mới được các tác giả trình bày lồng ghép với các vấn đề lịch sử, kinh tế, đối ngoại ở dạng khái quát mà chưa trở thành một vấn đề có tính hệ thống, rõ ràng. Những công trình nghiên cứu khác như “Vương quốc Thái Lan – lịch sử và hiện tại” của Vũ Dương Ninh, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1990; “Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Thái Lan” của Viện nghiên cứu Đông Nam Á; cuốn “Lịch sử Thái Lan từ thế kỷ XIII đến những năm 80” của Huỳnh Văn Tòng, Khoa Đông Nam Á, Học viện đào tạo và mở rộng Tp. Hồ Chí Minh, 1993; cuốn “Lịch sử Đông Nam Á” của Lương Ninh (Chủ biên), nhà xuất bản Giáo dục, 2005,…đều nghiên cứu về lịch sử Thái Lan nói chung và vương quốc Ayutthaya nói riêng trên nhiều phương diện khác nhau trong đó có đề cập đến mối quan hệ thương mại giữa vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI. Bên cạnh đó có một số bài viết, công trình nghiên cứu khác như: “Quan hệ của Ruykyu và Siam thế kỷ XIV – XVI” của Lê Thị Khánh Ly, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 2/2006, “Quan hệ của Malacca với các quốc gia Đông Nam Á giai đoạn 1400 – 1511” của Phạm Văn Thủy, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 3/2006, “Lịch sử Đông Nam Á” của Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nxb Giáo dục, 2001,… Một số công trình nghiên cứu về lịch sử vương quốc Ayutthaya nói riêng và lịch sử Thái Lan nói chung được xuất bản bằng tiếng Anh như: “Ayutthaya 6 – Venice of the East” của Drich Ganier (Bangkok; River Book Co, 2004); “Thailand: A short history” của Davidk Wyatt (Chiang Mai: Silkworm Books, 2003), “From Japan to Abrabia: Ayuthaya’s Maritime Relation with Asia” của Kennon Breazeale (The foundation for the Promotion of Social Sciences and Humanities Textbooks Project, 1999); “An early age of commerce in Southeast Asia” của Geoff Wade (The Nationnal University of Singapore, 2009), “Thailand in the light of official chines historiography: A chapter in the Ming dynasty” của Grimm T (Journal of the Siam Society Bangkok, 1961); “The Ming Shi-lu as a Source for Thai History Fourteeth to Seventeeth Centuries” của Geoff Wade (University Hong Kong, 2000),…Đây là những công trình nghiên cứu về nhiều khía cạnh của lịch sử Thái Lan, trong đó có mối quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI đã được các tác giả đề cập đến. Trong các công trình, các bài nghiên cứu trên, các tác giả đã đề cập đến mối quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI dưới nhiều góc độ và những tác động của nó ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng tất cả mới chỉ đề cập đến mà chưa trình bày thành một vấn đề có hệ thống. Tuy nhiên, những công trình và những bài nghiên cứu đó vẫn sẽ là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị cho tác giả khi nghiên cứu về “Quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV- XVI”. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài: “Quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI” nhằm mục đích: + Dựng lại bức tranh toàn cảnh về quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI nhằm làm sáng tỏ vấn đề trong lịch sử. 7 + Thông qua việc tái hiện những nét cơ bản nhất về quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI, đề tài đi vào phân tích những tác động của những quan hệ thương mại này đối với sự phát triển kinh tế của vương quốc Ayutthaya nói riêng và của các nước châu Á nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Dựa vào lý luận về hình thái kinh tế - xã hội và cơ sở địa lí kinh tế thương nghiệp, khóa luận làm rõ những điều kiện hình thành quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á . + Khóa luận tập trung nghiên cứu quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI. + Từ kết quả nghiên cứu, khóa luận đánh giá khách quan những tác động của quan hệ thương mại đó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vương quốc Ayutthaya nói riêng và châu Á nói chung trong giai đoạn thế kỷ XIV – XVI. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Không gian giới hạn trong phạm vi các nước châu Á. Phạm vi về thời gian là từ thế kỷ XIV - là thời kỳ vương quốc Ayutthaya chính thức được thành lập cho đến hết thế kỷ XVI. 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Trên cơ sở tham khảo và kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các tác giả trước trong hệ thống giáo trình Lịch sử thế giới trung đại của các trường Đại học sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội, các tác phẩm thông sử, sách chuyên khảo viết về kinh tế Thái Lan thời kỳ vương triều Ayutthaya của các tác giả trong và ngoài nước nhờ đó tôi có một cái nhìn tương đối toàn diện về các mối quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI. 8 Với đề tài: “Quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI”, nguồn tư liệu chính của khóa luận sử dụng là các công trình nghiên cứu về lịch sử Thái Lan do các học giả nước ngoài biên soạn, các báo cáo, các tập san, các tài liệu lưu trữ bắng tiến Anh như: + “Thailand: A short history” của Davidk Wyatt (Chiang Mai: Silkworm Books, 2003); + “From Japan to Abrabia: Ayuthaya’s Maritime Relation with Asia” của Kennon Breazeale (The foundation for the Promotion of Social Sciences and Humanities Textbooks Project, 1999); + “The Ming Shi-lu as a Source for Thai History Fourteeth to Seventeeth Centuries” của Geoff Wade (University Hong Kong, 2000); Các tài liệu hiện còn được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia. Mặc dù không khảo sát được hết nguồn tài liệu này nhưng tác giả đã thống kê được một số tài liệu đáng tin cậy về mối quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV-XVI. Dựa trên cơ sở đó, khóa luận đã cố gắng so sánh và làm nổi bật những điểm riêng của những mối quan hệ đó. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Đây là một đề tài thuộc phạm trù lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chủ yếu mà tác giả sử dụng là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Những sự kiện lịch sử được nghiên cứu đều đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể và nằm trong mối quan hệ biện chứng với các sự kiện khác. Những sự kiện lịch sử được sử dụng trong đề tài được gắn với thời gian và không gian cụ thể, được nghiên cứu, so sánh, chọn lọc và liên hệ với các sự kiện lịch sử khu vực và thế giới ở cùng thời điểm. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, đối chiếu, so sánh, lập bảng, xác minh,…làm sáng tỏ các nội dung, sự kiện lịch sử. 9 5. Đóng góp của khóa luận Trên cơ sở kế thừa những thành quả của những người đi trước, đề tài mong muốn đóng góp một phần vào việc dựng lại bức tranh lịch sử một cách tương đối đầy đủ, hoàn chỉnh và có hệ thống về “Quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI”. Bên cạnh đó, khóa luận còn đi sâu phân tích, chỉ ra những tác động từ quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI đối với sự phát triển kinh tế của Ayutthaya nói riêng và châu Á nói chung. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì nội dung khóa luận chia làm 2 chương: Chương 1: Những nhân tố đưa đến sự hình thành quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI. Chương 2: Quan hệ thương mại của vương quốc Ayutthaya với một số nước châu Á thế kỷ XIV – XVI và những tác động của nó. 10 Chương 1 NHỮNG NHÂN TỐ ĐƯA ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CỦA VƯƠNG QUỐC AYUTTHAYA VỚI MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á THẾ KỶ XIV – XVI 1.1. Bối cảnh thương mại khu vực Đông Nam Á đến trước thế kỷ XVI Trước thế kỷ XV, quan hệ thương mại của Đông Nam Á chịu sự chi phối của hai trung tâm kinh tế lớn là Trung Quốc và Ấn Độ. Do khu vực Đông Nam Á không có nhiều sản phẩm thương mại cao nên nó chủ yếu đóng vai trò là trung gian cho hai thị trường này. Những thương nhân Ấn Độ và Trung Quốc tới Đông Nam Á chủ yếu là để trao đổi hàng hóa, họ cũng nhập hàng hóa của Đông Nam Á như vàng, bạc, hương liệu, lâm thổ sản. Chứng cứ thành văn đầu tiên về mối liên hệ thông qua biển giữa vùng Nam Trung Quốc và Ấn Độ Dương là những ghi chép trong sách Hán thư. Theo đó, con đường này có thể được hình thành vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Vào thế kỷ II TCN hoặc có lẽ sớm hơn một chút, quan hệ hàng hải giữa Ấn Độ và Trung Quốc bắt đầu. Bước ngoặt đã diễn ra vào đầu Công nguyên. Ở phía Bắc, đế chế Hán được thành lập vào năm 206 TCN, có khuynh hướng hướng về phương Nam rất mạnh. Không chỉ trao đổi tự nhiên, mà một hệ thống thương mại địa phương và quốc gia đã được hình thành, trong đó, Việt Nam trở thành một vùng đất giữ vị trí cầu nối giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Con đường hàng hải nối Trung Quốc và Ấn Độ đi bắc Việt Nam lúc bấy giờ chịu sự thống trị của người Trung Hoa, dọc theo bờ biển bán đảo Đông Dương, qua bán đảo Mã Lai ở phần phía Bắc và tới Kancipura ở miền Nam Ấn Độ. Một con đường khác không cắt ngang bán đảo nhưng đi xuyên qua eo biển Malacca. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu từ Trung Hoa là vàng và tơ 11 lụa. Còn các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Trung Hoa từ Ấn Độ là đá quý và đồ thủy tinh. Do kỹ thuật đi biển trong thời gian đầu còn hạn chế nên hải trình của các thương nhân phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện gió mùa. Xuất phát từ các cảng ở phía Nam Ấn Độ, thương thuyền phải dựa vào gió mùa Tây – Nam ở biển Ấn Độ Dương giữa tháng 4 và tháng 8 để đi về phía Đông. Vì thời gian của một đợt gió mùa kéo dài nên sau khi dỡ hàng tại các bến cảng ở Đông Nam Á họ có thể trở về cùng trong một đợt gió mùa. Để tránh những đợt gió xoáy trên vịnh Bengan vào tháng 10, thương thuyền trở về vào tháng 12 khi gặp gió mùa Đông Bắc. Để phục vụ cho việc buôn bán lâu dài, thương nhân Ấn Độ thường thiết lập những khu định cư dọc bờ biển phía Tây của bán đảo Mã Lai và mời dân địa phương đến cùng sinh sống. Điều này đã kích thích sự ra đời của các quốc gia – đô thị. Chúng ta đều biết rằng, ở miền Bắc Ấn Độ, đế chế Mauryan (317 – 180 TCN) đã nhập vàng bạc từ Tây Á. Dưới thời Mauryan, tiền vàng và bạc đã được lưu hành rộng rãi. Kancipura, trạm cuối của tuyến đường biển từ Trung Hoa, nằm ở miền Nam Ấn Độ và về mặt kinh tế phụ thuộc vào Bắc Ấn Độ. Có thể nói rằng, Nam Ấn Độ đã khai thác và tinh chế được vàng nhưng không đủ để buôn bán với Bắc Ấn Độ và do đó, Nam Ấn Độ đã tìm nguồn vàng cung cấp từ vùng ven biển Đông Nam Á. Đòi hỏi này đã được Trung Hoa, quốc gia muốn có sản phẩm quý lạ từ Ấn Độ nhận ra. Và kết quả là dòng vàng và sản phẩm thay thế của nó là tơ lụa bắt đầu từ Trung Hoa theo đường ven biển Đông Nam Á chảy sang. Cũng trong khoảng thời gian này, các thương nhân Ấn Độ bắt đầu đến đảo Mã Lai để mua vàng, mặt hàng được thu gom ở bán đảo Sumatra hoặc được mua từ Trung Hoa. Con đường bộ thông dụng nhất là qua eo đất Kra tại 12 Takuapa. Từ đây, tiếp tục cuộc hành trình xuyên qua eo Kra tới Chaiya ở phía đông của bán đảo Mã Lai. Tới được phía đông, đoàn người phải đáp thuyền tới thương cảng của Siam, Chiêm Thành, Đại Việt rồi mới tới cảng phía Nam của Trung Quốc. Ngoài con đường qua eo Kra còn có con đường từ Kedah theo đường bộ thẳng tới Tumasik (Singapo) rồi mới tới các cảng phía Nam của Đông Nam Á. Hoặc có thể từ Tavoy qua đèo Bachua tới sông Kanburi, từ đây mới tới sông Mê Nam rồi mới tới Siam trước khi vào Trung Quốc. Ở Đông Dương, những hoạt động thương mại sôi động đã giúp hình thành nên những vương quốc hùng mạnh, đặc biệt là ở phía Nam Việt Nam hiện nay như Phù Nam, Lâm Ấp. Từ thế kỷ III, thuyền buôn của Phù Nam đã tới mua hàng ở các quần đảo chẳng hạn như mua dầu long não từ Padang, đinh hương từ Maluku và vàng từ Borneo. Những điều trên đây biết được qua hàng loạt ghi chép trong các sách của Trung Quốc vào thế kỷ III. Phù Nam là vương quốc truyền bá văn minh Ấn Độ và Trung Quốc vào Đông Nam Á và có thể coi là trung tâm liên thế giới đầu tiên ở khu vực đồng thời là nơi nối thông mạng lưới vốn có của Đông Nam Á với thế giới bên ngoài [7; 32]. Tương đương với Phù Nam, ở bờ biển bán đảo Đông Dương có vương quốc Lâm Ấp (Champa). Vương quốc này nằm ngay ở phía Nam đèo Hải Vân. Con đường thương mại từ Ấn Độ đến được tới Lâm Ấp theo con đường bộ qua thung lũng sông Mê Kông và theo đường biển dọc theo bờ biển bán đảo Đông Dương. Từ thế kỷ II đến thế kỷ VII, là thời kỳ ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của Ấn Độ tới Đông Nam Á. Dưới sự trị vì của hai vương triều Gupta (320 – 535) và vương triều Hacsa (606 – 648), Ấn Độ đã đạt tới mức cực thịnh. Nhu cầu truyền bá văn hóa cũng như nhu cầu về trao đổi hàng hóa đã thúc đẩy thương nhân Ấn Độ tới Đông Nam Á thường xuyên hơn [3; 12]. Sau khi triều đại Hacsa sụp đổ vào giữa thế kỷ VII, Ấn Độ mất dần ảnh hưởng đối với Đông Nam Á. 13 Cũng từ thế kỷ VII, trong mạng lưới thương mại Đông Nam Á đã được đánh dấu bằng sự xuất hiện của các tàu buôn từ Tây Á tới Trung Hoa, mang theo bạc khai thác từ các mỏ ở Ba Tư và các vùng lân cận. Cũng trong thời gian này, vương quốc Phù Nam bắt đầu suy yếu đã đẩy hoạt động thương mại tiến sâu xuống phía Nam của bán đảo Mã Lai. Sự suy yếu của vương quốc Phù Nam vừa là hệ quả của một quá trình dịch chuyển con đường thương mại trong khu vực từ phía Bắc xuống phía Nam bán đảo Mã Lai; đồng thời sự suy yếu của Phù Nam đã trở thành điều kiện khách quan để hình thành ở Đông Nam Á những trung tâm thương mại mới đặc biệt là sự xuất hiện của Srivijaya. Cho đến thế kỷ VII – VIII, kỹ thuật hàng hải đã đạt được những bước tiến mới, đặc biệt là sự tham gia của những thủy thủ Arập đã có thể tận dụng được những ưu việt của hoạt động gió mùa vào trong các hoạt động buôn bán, đi biển. Đồng thời các thuyền mành của Trung Quốc đã bắt đầu cập bến các thương cảng của Đông Nam Á và vượt biển tới Ấn Độ. Đây là loại thuyền buồm lớn có thể chở được trên 500 người và về trọng lượng có thể đến 500 tấn. Chính sự ưu việt của loại thuyền mành này đã làm cho hoạt động đi biển thuận lợi hơn rất nhiều. Các thương thuyền không còn lo sợ hoạt động của gió mùa mà còn tận dụng sức gió làm sức đẩy cho những con thuyền của mình. Hoạt động thương mại vì thế cũng theo định kỳ để tận dụng những ưu điểm của gió mùa. Đây là điều kiện để ra đời những cảng thị như là nơi thu gom hàng hóa và là chốn nghỉ chân cho những thương thuyền. Nhờ kiểm soát được những tuyến thương mại mà nhiều đế chế đã ra đời chẳng hạn như Srivijaya và Ayutthaya. Căn cứ vào những ghi chép trong thư tịch của nhiều nước đã cho thấy mặt hàng chính của con đường buôn bán trên biển ở Đông Nam Á thời kỳ này không chỉ là tơ lụa mà còn có hương liệu và gốm sứ từ phương Đông mang sang phương Tây để đổi lấy vàng bạc, đá quý, thủy tinh. 14 Có thể thấy trước thời Đường (618 – 907) các tuyến buôn bán quốc tế đã được xác lập và chúng đặt cơ sở cho sự hình thành “con đường tơ lụa trên biển” sau này chạy xuyên qua nhiều quốc gia Đông Nam Á. Từ thế kỷ VI, các thương nhân Tây Á đã thay thế người Ấn Độ trong quan hệ thương mại ở biển Đông. Tuy nhiên, từ thế kỷ VIII, các thương nhân người Hoa bắt đầu xâm nhập mạnh vào khu vực Đông Nam Á và lại thay thế các thương nhân Tây Á. Do đó, Đông Nam Á với lợi thế là eo biển Malacca và eo biển Sunda đã trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa giữa các khu vực Đông Bắc Á với Nam Á và Tây Á. Quá trình thâm nhập trực tiếp của người Hoa đã đẩy vai trò thương mại của các nước Đông Nam Á xuống vị trí thứ yếu và thụ động. Nhiều cảng thị thực tế chỉ là các trung tâm buôn bán địa phương, nơi thu gom, cung cấp hàng hóa cho các thuyền buôn ngoại quốc do thương nhân Hoa kiều chi phối. Có thể xem kẻ thống trị “con đường tơ lụa trên biển” thế kỷ IX – X là các thương nhân Trung Hoa và thương nhân Arập. Đặc biệt là các thương nhân Trung Hoa họ chỉ cần đến một số cảng vùng Đông Nam Á là có thể mua được hàng hóa của Trung Quốc. Điều đó khiến cho khu vực Đông Nam Á dần nóng lên bởi các chuyến thương mại từ Trung Quốc đến đây và từ đây sang khu vực Ấn Độ Dương. Đối với hàng hóa của khu vực Đông Nam Á, thị trường Trung Quốc có vị trí đặc biệt quan trọng cho đến tận thế kỷ XIX. Vì vậy mà nhịp độ buôn bán và tình trạng kinh tế của Trung Quốc có ảnh hưởng lớn có thể làm biến động mạng lưới thương mại Đông Nam Á. Trong khoảng thế kỷ IX đến thế kỷ X, sự đình trệ về kinh tế suốt gần một thế kỷ rưỡi ở Trung Quốc đã làm tan rã mạng lưới kinh tế ở các nước nhỏ như: An Nam, Lâm Ấp, Dvaravati, Pyu, Mataram ngay cả mạng lưới ven biển như Srivijaya cũng bị ảnh hưởng. Từ khoảng cuối thế kỷ XI, thị trường Trung Quốc dần sống lại. Sự biến đổi quan trọng nhất trong thời kỳ này là sự hưng thịnh của các đô thị ở vùng 15 Trung và Nam Trung Quốc. Sự phát triển đó cần sự buôn bán trên biển. Về mặt kỹ thuật, thuyền buồm lớn xuất hiện ở các vùng phía Nam Trung Quốc, sức chở của loại thuyền này tăng lên nhanh chóng và hải trình của chúng cũng thay đổi từ cận hải (chạy ven bờ) đến viễn dương (đi biển xa). Hàng hóa chuyên chở cũng thay đổi từ hàng nhẹ, quý như tơ lụa sang hàng nặng như đồ sứ, từ những đồ xa xỉ như dầu thơm sang những vật hữu dụng hơn như giấy. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật thuyền mành, các thương nhân nhận ra: việc gom hàng từ các cảng lớn còn thu lợi nhiều hơn. Sự “sực tỉnh” này cùng với sự lớn mạnh trở lại của trung tâm buôn bán vùng hạ lưu bán đảo Mã Lai, bắc Sumatra và sự tham gia trực tiếp của các thế lực đất liền (Angkor, Pagan), làm cho khu vực từ vịnh Bengan qua bán đảo Mã Lai, nam biển Đông hưng thịnh trở lại và tham gia tích cực vào con đường buôn bán quốc tế. Trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XI sang thế kỷ XII, trên thế giới hình thành hai xu hướng độc chiếm con đường buôn bán trên biển: người Arập chi phối vùng phía Đông Địa Trung Hải, người Hồi giáo ở phía Tây Ấn Độ Dương còn ở biển Đông lúc này vị trí đó thuộc về người Trung Quốc. Năm 1368, nhà Minh được thành lập thay thế cho nhà Nguyên. Sau khi lên ngôi Chu Nguyên Chương (tức Minh Thái Tổ) tiếp tục tiêu diệt những thế lực cát cứ còn sót lại của nhà Nguyên, thống nhất đất nước, mặt khác ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Trung Quốc, đi đến xây dựng một chính quyền phong kiến trung ương tập quyền đủ mạnh để cai trị đất nước, phát triển kinh tế. Triều Minh là một trong những triều đại hưng thịnh nhất trong lịch sử Trung Quốc, với nền kinh tế phát triển, quan hệ ngoại giao được mở rộng hơn bao giờ hết. Trong giai đoạn này, lần đầu tiên Trung Quốc “đóng cửa” đất nước. Đó là chính sách của nhà Minh nhằm độc quyền ngành thương mại hàng hải vốn nằm trong tay những thương nhân người Hoa. Chính quyền cấm các thuyền bè tư nhân đi ra nước ngoài và hoạt động ngoại thương chỉ 16 giành cho các đội tàu của Hoàng đế và những ai tới thăm Trung Hoa dưới hình thức các sứ bộ đến triều cống. Chính quyền Trung Quốc cũng đã ra sức tìm cách thiết lập và kiểm soát “vùng biển Nam Trung Hoa”. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới chính sách “hải cấm” vào cuối thế kỷ XVI. Cũng trong khoảng thời gian này, Nhật Bản đã xuất hiện như một bạn hàng hùng hậu trong thương mại hàng hải quốc tế. Kể từ thế kỷ VII, các tàu buôn Trung Hoa đã đến Nhật. Nhật cần đến tơ lụa, đồ gốm sứ, các sản phẩm thủ công Trung Hoa và các kinh Phật đã được dịch ra chữ Hán. Các mặt hàng xuất khẩu của Nhật là đồng có chứa bạc, các sản phẩm thủ công như quạt giấy và kiếm Nhật. Sau khi triều đình Trung Hoa thực hiện chính sách “hải cẩm” thì việc buôn bán giữa Nhật Bản và Trung Quốc được các sứ bộ Nhật Bản sang triều cống tiến hành hoặc thông qua con đường thương mại trung gian với vương quốc Ryukyu và cũng bằng hình thức các sứ bộ triều cống. Vương quốc Ryukyu cũng có quan hệ buôn bán với một số cảng ở ven biển Đông Nam Á [8; 210]. Còn đối với Ấn Độ, thế kỷ XIII cũng có một sự thay đổi lớn. Ở miền Bắc Ấn, vương triều Hồi giáo Đê li (1206 – 1526) được thành lập đã tách khỏi sự phụ thuộc vào Apgaxnitan và thực sự phát triển cường thịnh. Thêm vào đó là việc người Mông Cổ ở Trung Á thường xuyên tấn công Ấn Độ đã kích thích thương nhân Ấn Độ thường xuyên lui tới thương cảng Đông Nam Á hơn. Vì vậy, những ảnh hưởng của Ấn Độ đến Đông Nam Á giai đoạn này càng được tăng cường. Khi mối quan hệ giữ Ấn Độ và Đông Nam Á được thiết lập trở lại thì cũng là lúc hoạt động thương mại của Đông Nam Á có những chuyển biến quan trọng. Do chính sách hạn chế thương mại của nhà Minh, những thương nhân Tây Á và Ấn Độ không thể trực tiếp tới Trung Quốc để nhập hàng mà phải thông qua thị trường trung gian là Đông Nam Á. Để bù lấp vào những thiếu hụt về mặt hàng Trung Quốc, nhiều mặt hàng Đông Nam Á cũng 17 bắt đầu gia nhập vào mạng lưới buôn bán quốc tế. Hơn nữa, trong thời gian này, ở Đông Nam Á, nhiều thương cảng đã được thành lập, đáp ứng nhu cầu là trạm trung chuyển hàng hóa không những của Đông Nam Á mà cho cả Đông Bắc Á. Mặt khác, bản thân Đông Nam Á sau một thời gian tích lũy kinh nghiệm, học hỏi giao thương với bên ngoài cũng đã có những mặt hàng có giá trị thương mại cao như tơ lụa, gốm sứ của Việt Nam, gốm của Champa, gốm của Thái Lan, gia vị của quần đảo Maluku, Sumatra. Những hàng hóa này sau thời gian mang tính thử nghiệm ở thị trường phương Tây đã được chấp nhận ở mức độ cao. Khi nhu cầu về hàng hóa Đông Nam Á ngày càng cao là nhân tố thúc đẩy việc hình thành những trung tâm thương mại trong vùng. Những đế chế lớn như Majapahit, Ayutthaya, Malacca ra đời cũng trong bối cảnh đó. Trước tiên, thành phố và vương quốc Ayutthaya được thành lập năm 1350, đóng vai trò là trạm trung chuyển giữa người Thái và người Mã Lai. Cũng như vương quốc Majapahit, nó kiểm soát khu vực nông nghiệp từ cảng thị. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Ayutthaya bao gồm gạo, hàng lâm sản như gỗ và một số thủy sản. Trên bán đảo Mã Lai, thành phố và vương quốc Malacca ra đời vào thế kỷ XV. Ban đầu nó chính là đất cống cho vương quốc Ayutthaya nhưng được sự ủng hộ mạnh mẽ của Trung Quốc trong việc hợp tác với các cuộc viễn chinh ven biển của đô đốc Trịnh Hòa từ năm 1405 đến năm 1433, đã thoát khỏi ách thống trị của người Xiêm để trở thành đất cống của Trung Hoa. Sau năm 1433, khi không còn tàu bè của Trung Hoa xuất hiện ở đó nữa, nó lại bị vương quốc Ayutthaya tấn công. Từ thế kỷ XIV – XV trở đi, buôn bán quốc tế ở khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á ven biển trở nên sôi động bởi không chỉ tăng nhanh về quy mô hàng hóa, số lượng các thuyền buôn và các nhà buôn trong vùng mà còn diễn 18 ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà buôn Trung Quốc, Nhật Bản với các thương nhân Ấn Độ và Arập. Từ thời gian này các thương nhân Đông Bắc Á và Đông Nam Á mà trước hết là người Trung Hoa, Nhật Bản, Java đã chiếm được thế độc quyền thương mại trên biển ngay từ tay người Ấn Độ và Arập. Tuy vậy, dòng chảy thương mại từ phía Ấn Độ Dương không ngừng đổ về khu vực này. Kết quả của sự sôi động đó đã dựng lên “hệ thống mậu dịch châu Á” hay “kỷ nguyên thương mại châu Á” cũng có thể gọi theo cách của Anthony Reid về thời kỳ này là “thời kỳ hoàng kim của hoạt động thương mại Đông Nam Á 1450 – 1680” [25; 21], trong đó Trung Quốc đóng vai trò then chốt của quá trình này. Như vậy trong sự vận động của bối cảnh thương mại khu vực, vương quốc Ayutthaya đã tận dụng và phát huy được những lợi thế của mình, thiết lập mối quan hệ giao thương với các quốc gia châu Á, tạo điều kiện để Ayutthaya có thể dự nhập mạnh mẽ vào mạng lưới thương mại của khu vực và thế giới. 1.2. Vương quốc Ayutthaya cho đến trước thế kỷ XVI 1.2.1. Khái quát về sự thành lập vương triều Ayutthaya năm 1350 Vào thế kỷ XIII, trước áp lực xâm lược của đội quân Mông Cổ một bộ phận người Thái ở thượng nguồn sông Mê Kông đã chuyển xuống phía nam. Luồng thiên di đó đã tạo ra nhiều sáo trộn trong tình hình kinh tế và chính trị của Siam. Quá trình thiên di đó diễn ra lâu dài nhưng đến thế kỷ XIV là mạnh mẽ nhất. Vào những năm đầu thế kỷ XIV, lịch sử vương quốc Thái Lan đã diễn ra nhiều biến động lớn. Sau cái chết của người anh hùng Rakhămhẻng, bản thân vương triều trước Ayutthaya là Sukhothai đã bộc lộ những dấu hiệu của sự suy vong dưới thời con trai của nhà vua là Lơthay (1317 – 1347). Ngay vào thời kỳ đầu trị vì của vị vua mới này, Nam Mianma đã tách ra khỏi vương 19 quốc Mianma và hình thành một đạo quân rất mạnh tràn xuống tấn công vào quân đội Lơthay. Cùng với sự suy nhược từ bên trong và sức mạnh xâm lược của thế lực bên ngoài Lơthay đã thất bại nặng nề. Sau đó, các công quốc trên lãnh thổ của nước Lào hiện nay và hàng loạt các công quốc ở Nam Thái Lan cũng đã tách ra. Và cho đến khi con trai của Lơthay tức là Lithay lên ngôi (1347 – 1368) thì vương vị của người đứng đầu Sukhothai cũng chỉ còn là hư danh, thực tế khả năng chèo lái đất nước đã hoàn toàn mất đi. Về mặt kinh tế, nền kinh tế của vương quốc Sukhothai đã bộc lộ những mâu thuẫn giữa nền kinh tế tự nhiên chiếm ưu thế ở miền Bắc và nền kinh tế thương nghiệp ở miền Nam. Trước đó, vương quốc Sukhothai đã cố gắng củng cố vững chắc chính quyền. Tuy nhiên, những cố gắng đó không thể nào cưỡng lại với xu thế của thời đại: kinh tế tự nhiên dẫn dắt miền Bắc dần dần mất vai trò, giới quý tộc ở miền Nam dần vứt bỏ quan hệ của họ với miền Bắc xa xôi và Sukhothai trở nên không còn quan trọng với họ nữa. Trong lúc đó, chính quyền phong kiến Thái Lan vẫn chưa đủ vững mạnh. Song cũng chính từ yêu cầu phát triển nền kinh tế, những lợi ích của việc buôn bán đã yêu cầu có sự củng cố mới đối với đất nước nhưng lần này với trung tâm là ở miền Nam. Vào những năm 1159 – 1187, tại một vương quốc Thái không lớn lắm ở Bắc Thái Lan hiện nay có ông hoàng Chaixiri cầm quyền. Mặc dù vương quốc này không lớn nhưng tầm ảnh hưởng của nó lại lan tới cả các quốc gia Sukhothai và Phagiau. Năm 1187, sau cuộc đột nhập và tấn công của quân Chang, Chaixiri đã quyết định đốt thành phố của ông và rời đi cùng với những người thân cận tới thượng nguồn sông Mê Nam. “Tuy nhiên, ông đã không dừng lại ở đây và để lại cho con trai ông là Mahả Chaichan trị vì ở đây, ông đã rời đến Kăm phengphết. Nhưng ông hoàng này cũng không ở lại đây được lâu. Ông đã nhanh chóng tiến xa hơn nữa về phía Nam, tới Nakhon Pathốm – trung tâm 20 xưa kia của người Môn. Có lẽ tại Nakhon Pathốm, ông đã định cư lập nghiệp cùng với những quần thần của ông” [14; 154]. Vào giữa thế kỷ XIV, người cầm quyền ở đây là Chaixiri II (cháu của Chaixiri) đã kết hôn với con gái của người cầm đầu tiểu quốc Môn Úthoong. Đến năm 1347, lợi dụng tình trạng lộn xộn khi Lithay lên ngôi, Chaixiri II đã mở rộng ảnh hưởng của mình và vào năm 1350, ông đã xây dựng trên một hòn đảo gần địa điểm hợp lưu của sông Mê Nam và Paxak một kinh đô mới Ayutthaya và lấy danh hiệu là Rama Thipbôđi I, mở đầu cho vương triều mới Ayutthaya tồn tại suốt 416 năm trong lịch sử vương quốc Thái Lan. 1.2.2. Chính sách đối ngoại của vương triều Ayutthaya Khi nói về chính sách đối ngoại của người Thái, sử gia D.G.E. Hall nổi tiếng người Anh đã viết: “chưa có ai giỏi hơn người Thái về quan hệ ngoại giao”. Trong suốt chiều dài lịch sử của vương quốc Thái Lan, các vương triều đều thể hiện rất rõ sự “tài giỏi” của mình trong đường lối đối ngoại và vương triều Ayutthaya cũng không nằm ngoài số đó. Thế kỷ XIV – XVI, tình hình chính trị khu vực và thế giới có nhiều biến động phức tạp. Trong bối cảnh đó, đường lối đối ngoại của Ayutthaya cũng có sự biến đổi linh hoạt cho phù hợp với từng thời kỳ, thời điểm khác nhau. Tuy nhiên, “có thể xem xét mối quan hệ của Ayutthaya với các nước láng giềng gồm những điểm sau: bành trướng mở rộng lãnh thổ, thực hiện đối đầu và thiết lập mối quan hệ thân thiện cùng có lợi” [19; 53-58]. Xuyên suốt lịch sử phong kiến phương Đông, Trung Quốc luôn được coi là một trung tâm quyền lực chính trị và kinh tế hàng đầu, vai trò và ảnh hưởng của các triều đại phong kiến Trung Hoa đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á là rất lớn. Chính vì vậy, “không chắc chắn một Trung Quốc mạnh có cho phép một quốc gia hùng mạnh nhưng nhỏ bé như Ayutthaya nổi lên mà không có cản trở. Hốt Tất Liệt và những người kế nhiệm của mình đã
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất