Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ pháp lý giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Quan hệ pháp lý giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước ở việt nam hiện nay

.PDF
140
149
80

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Khƣơng Văn Đạt QUAN HỆ PHÁP LÝ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ Hà nội – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Khƣơng Văn Đạt QUAN HỆ PHÁP LÝ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Phạm Hồng Thái Hà nội – 2009 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục những chữ viết tắt MỞ ĐẦU 01 Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về qHPL giữa nhà nƣớc và dNNN 06 Khái niệm quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN 06 1.1. 1.1.1. Khái niệm DNNN 06 1.1.2. Vị trí, vai trò của hệ thống DNNN trong nền kinh tế thị trường 07 1.1.3. Đặc điểm DNNN 08 1.1.4. Khái niệm quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN 11 1.2. Cấu trúc của quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN 14 1.2.1. Địa vị pháp lý của DNNN 14 1.2.2. Địa vị pháp lý của nhà nước 16 1.2.3. Khách thể của quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN 21 Đặc điểm của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và DNNN 22 1.3. 1 1.3.1. QHPL giữa nhà nước và DNNN có những đặc điểm chung của quan 22 hệ pháp lý 1.3.2. QHPL giữa nhà nước và DNNN thể hiện sự tương tác của quyền sở 24 hữu doanh nghiệp và sở hữu vốn và tài sản trong doanh nghiệp 1.3.3. QHPL giữa nhà nước và DNNN thể hiện nội dung pháp lý và kinh tế 25 của quyền sở hữu nhà nước. 1.3.4. QHPL giữa nhà nước và DNNN thể hiện quyền tự chủ kinh doanh của 27 DNNN. 1.3.5. Nhà nước không trực tiếp thực hiện quyền sở hữu mà thông qua cơ 28 quan và người quản lý điều hành DNNN được nhà nước bổ nhiệm 1.4. Những yếu tố chi phối và tác động đến quá trình hoàn thiện quan hệ 30 pháp lý giữa nhà nước và DNNN ở Việt Nam 1.4.1. Chức năng kinh tế của nhà nước 30 1.4.2. Cơ chế kinh tế 32 1.4.3. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập 34 Kết luận chƣơng 1 37 Chƣơng 2: Thực trạng qHPL giữa Nhà nƣớc và dNNN ở Việt Nam 38 hiện nay 2.1. Về chủ thể của quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN ở Việt 38 Nam 2.1.1. Các loại hình chủ thể nhà nước 38 2.1.2. Các loại hình chủ thể DNNN 42 2.1.3. Về quá trình đổi mới, sắp xếp DNNN 46 2 2.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể 55 2.2.1. Quyền và nghĩa vụ chủ thể trong thực hiện quyền tự chủ của 55 DNNN 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ chủ thể trong thực hiện quyền sở hữu nhà 63 nước 2.3. Khách thể và những trở ngại thách thức của quá trình hoàn thiện 67 quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN. 2.3.1. Khách thể của quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN 67 2.3.2. Tình hình DNNN và những kết quả của quá trình hoàn thiện quan 71 hệ pháp lý giữa Nhà nước và DNNN 2.3.3. Những trở ngại, thách thức của quá trình hoàn thiện QHPL giữa 75 nhà nước và DNNN Kết luận chƣơng 2 80 Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện qHPL giữa Nhà 82 nƣớc và DNNN 3.1. Phương hướng hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa nhà nước và 82 DNNN 3.1.1. Quyền và nghĩa vụ của nhà nước và DNNN phải được xác lập 83 phù hợp với kinh tế thị trường 3.1.2. Đảm bảo vai trò nòng cốt của DNNN để KTNN giữ vai trò chủ 85 đạo 3.1.3. Hoàn thiện môi trường kinh doanh 88 3.1.4. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động DNNN 90 3.1.5. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đẩy 91 3 mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực kinh tế 3.2. Giải pháp hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN 3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật 93 93 3.2.2. Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền sở hữu nhà nước với tư cách 101 nhà nước là nhà đầu tư vào DN. 3.2.3. Nâng cao năng lực chủ thể DNNN 107 Kết luận chƣơng 3 116 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 4 DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNXH: Chủ nghĩa xó hội CPH: Cổ phần hoỏ CQNN: Cơ quan nhà nước CTCP: Cụng ty cổ phần CTNN: Cụng ty nhà nước DN: Doanh nghiệp DNNN: Doanh nghiệp nhà nước DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh HĐQT: Hội đồng quản trị HĐTV: Hội đồng thành viờn HĐBT: Hội đồng bộ trưởng KTNN: Kinh tế nhà nước QHPL: Quan hệ phỏp lý SCIC: Tổng cụng ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước SHNN: Sở hữu nhà nước TCT: Tổng Cụng ty Nhà nước 5 TNHH: Trỏch nhiệm hữu hạn UBND: Uỷ ban nhõn dõn XNQD: Xớ nghiệp quốc doanh XHCN: Xó hội chủ nghĩa 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự ra đời của KTNN gắn với sự ra đời của nhà nước. Qua nhiều chặng đường lịch sử, KTNN, cũng như DNNN đã có những bước phát triển đa dạng về quy mô, hình thức tổ chức. DNNN tồn tại phổ biến không chỉ ở các quốc gia XHCN mà cả ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa. Xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề cải cách DNNN, trong đó hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN luôn là vấn đề được quan tâm đặc biệt nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của KTNN trong đó DNNN là nòng cốt. Điều này có ý nghĩa to lớn trong quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN là mối liên hệ về mặt pháp lý giữa nhà nước và DNNN và luôn được đổi mới, hoàn thiện trên cơ sở hoàn thiện các quan hệ kinh tế. Thực tiễn cho thấy, muốn tăng cường hiệu quả hoạt động của DNNN, phải không ngừng hoàn thiện quan hệ giữa nhà nước (nhà đầu tư) và DNNN (đơn vị kinh doanh) cho phù hợp với đặc điểm và điều kiện của nước ta trong từng giai đoạn phát triển. Quá trình hoàn thiện QHPL này đã có những bước tiến rất lớn. DNNN từ một đơn vị kinh tế thụ động phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước đã trở thành một DN tự chủ kinh doanh. Nhà nước cũng dần chuyển từ việc thực hiện cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNNN. Trong hơn hai thập kỷ qua, hoàn thiện QHPL này luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Hầu hết các nỗ lực đều tập trung vào hoàn thiện môi trường pháp lý và cơ chế kinh tế để tăng cường chức năng chủ sở hữu, hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước và quyền tự chủ của DNNN. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế của việc hoàn thiện QHPL này vẫn chưa đem lại kết quả như mong muốn. KTNN chưa làm tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN chưa cao. 7 Hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Thứ nhất là do hệ thống pháp luật về DNNN chưa phù hợp, tính khả thi không cao, các yếu tố của thị trường phát triển chưa hoàn chỉnh, nhiều quan hệ được thiết lập không trên cơ sở luật pháp dẫn tới còn sự bất bình đẳng giữa các loại hình DN. Thứ hai, do việc chấp hành pháp luật yếu kém, ý thức tôn trọng pháp luật không cao của nhiều cán bộ, viên chức nhà nước, người quản lý và lao động trong DNNN. Thứ ba, do nhà nước chưa thực hiện đúng vai trò, chức năng của mình về việc xây dựng môi trường pháp lý và thị trường bình đẳng. Thứ tư, nhà nước chưa phân định rạch ròi giữa quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh, việc thực hiện quyền sở hữu của nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh còn mang nặng tính hành chính, chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường. Thứ năm, việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật đối với các chủ thể nêu trên chưa kịp thời, chưa nghiêm chỉnh, dẫn đến sự điều chỉnh của pháp luật bị hạn chế. Vì vậy, hoàn thiện QHPL giữa nhà nước và DNNN có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để nhà nước quản lý tốt hơn, thực hiện đúng đắn quyền sở hữu tài sản và vốn của nhà nước tại DNNN, đảm bảo quyền tự chủ, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của DNNN. Đặc biệt là, theo quy định tại điều 166 Luật Doanh nghiệp năm 2005, đến tháng 7/2010, tất cả các doanh nghiệp đều phải chuyển đổi theo các loại hình quy định của Luật này. Xuất phát từ lý do đó, học viên đã chọn đề tài: “Quan hệ pháp lý giữa nhà nƣớc và doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam hiện nay” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về Nhà nước và DNNN đã cũng có rất nhiều công trình khoa học, như: Chế độ quản lý về quyền sở hữu vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận án Thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Bình An (2001), Đổi mới, tăng cường thành phần KTNN – Lý luận, chính sách và giải pháp của GS. TS Vũ Đình Bách (chủ biên) (2001), Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước của tác giả Trương Văn Bân (chủ biên) (1996), Địa vị 8 pháp lý của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học của tác giả Trần Thị Hoà Bình (1996), Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước của PGS, TS Nguyễn Cúc và PGS, TS Kim Văn Chính (2006), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới DNNN của PGS, TS Ngô Quang Minh (2003), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước – Những vấn đề lý luận và thực tiễn của PGS. TS Lê Hồng Hạnh (2004) … Các công trình khoa học trên đã phân tích khái niệm, đặc trưng, vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường, mô hình hệ thống kinh tế xã hội vận dụng vào việc phát triển hệ thống thị trường và nghiên cứu về tác dụng điều tiết hệ thống thị trường của DNNN. Chúng cũng đã đề cập đến những vấn đề mang tính lý luận, phương pháp luận và đánh giá thực trạng của quá trình sắp xếp lại DNNN trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các công trình này đã đánh giá tương đối có hệ thống sự tác động của Nhà nước thông qua luật pháp và các chính sách lớn trong quá trình hình thành và phát triển thị trường ở Việt Nam, đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường và đổi mới sự tác động của Nhà nước đối với thị trường định hướng XHCN. Các công trình này cũng đã phân tích cơ sở lý luận, thực trạng và những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước đối với các loại hình DN. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Làm rõ cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện QHPL giữa nhà nước và DNNN, đánh giá thực trạng quan hệ, đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện QHPL giữa nhà nước với DNNN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây: Một là, xác định khái niệm DNNN và khái niệm QHPL giữa nhà nước và DNNN. Từ đó làm sáng tỏ nội dung, đặc điểm, khách thể và các yếu tố tác động đến QHPL giữa nhà nước và DNNN. 9 Hai là, đánh giá thực trạng quá trình hình thành và phát triển của QHPL giữa nhà nước và DNNN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Ba là, trên cơ sở những tiền đề lý luận và sự đánh giá thực trạng QHPL giữa nhà nước và DNNN, luận văn đưa ra định hướng và các giải pháp hoàn thiện QHPL giữa nhà nước và DNNN trong điều kiện mới. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quan hệ pháp lý giữa nhà nước với DNNN, trong đó nhà nước với tư cách là nhà đầu tư. Việc nghiên cứu các quan hệ pháp luật cụ thể trong đời sống thực tiễn (trạng thái động) có tính chất minh chứng cho những nhận xét, đánh giá về QHPL giữa nhà nước và DNNN (trạng thái tĩnh). QHPL giữa nhà nước và DNNN có phạm vi rộng lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải xem xét nhiều góc độ của nhiều ngành khoa học pháp lý. Vì vậy, luận văn không tập trung đi sâu vào quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của DNNN mà tập trung nghiên cứu QHPL giữa nhà nước (nhà đầu tư) và DNNN (tổ chức kinh doanh). Tuy nhiên, do chức năng quản lý kinh tế và chức năng của nhà đầu tư không phân biệt rạch ròi nên luận văn cũng đề cập đến một số nội dung của quản lý kinh tế liên quan đến quyền tự chủ kinh doanh của DNNN và quyền sở hữu của nhà nước trong quan hệ giữa nhà nước và DNNN. Về thời gian, luận văn chỉ nghiên cứu QHPL giữa Nhà nước ta và DNNN trong giai đoạn đổi mới từ 1986 cho đến nay. Việc nghiên cứu trước đổi mới có tính cách rút ra tiền đề để đánh giá thực trạng QHPL này. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật: quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng ta về đổi mới kinh tế, hoàn thiện nhà nước, pháp luật trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân 10 tích, tổng hợp, hệ thống, thống kê, so sánh, phương pháp lịch sử. Dựa vào các phương pháp nghiên cứu nêu trên, học viên tiến hành phân tích các quy phạm pháp luật, thu nhập, xử lý số liệu, dữ liệu liên quan đến đề tài, bao gồm các nguồn tư liệu lý luận về nhà nước, chức năng kinh tế của nhà nước, quan hệ giữa nhà nước với DNNN, quan điểm, lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Qua đó, xây dựng và hoàn thiện các quan điểm khoa học về vấn đề hoàn thiện QHPL giữa nhà nước với DNNN. Luận văn sử dụng phương pháp xã hội học pháp luật và luật học so sánh thông qua việc sử dụng một số tư liệu và kết luận của một số cuộc phỏng vấn đưa tin và thăm dò xã hội học của một số tác giả, báo chí để xem xét đánh giá những biểu hiện trên thực tế của QHPL giữa Nhà nước và DNNN. Phương pháp luật học so sánh được dùng để so sánh sự phát triển, sự tương đồng và khác nhau của một số quy định pháp luật điều chỉnh QHPL ở Việt Nam và ở một số nước khác qua các giai đoạn lịch sử. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn  Làm sáng tỏ một cách có hệ thống cơ sở lý luận của việc hoàn thiện QHPL giữa nhà nước với DNNN.  Đánh giá một cách khách quan, khoa học về thực trạng QHPL giữa Nhà nước và DNNN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.  Đề xuất phương hướng và giải pháp về việc hoàn thiện QHPL giữa nhà nước và DNNN. Các phương hướng và giải pháp này sẽ là định hướng cho quá trình nghiên cứu tiếp theo của học viên, định hướng trong công tác hàng ngày của học viên và góp ý cho việc hoàn thiện QHPL giữa nhà nước và DNNN, làm cho quan hệ ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, góp phần nâng cao hơn nữa quyền tự chủ kinh doanh, hiệu lực quản lý và hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của nhà nước đối với DNNN. 11 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ PHÁP LÝ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC 1.5. KHÁI NIỆM QHPL GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ DNNN Nghiên cứu quan hệ pháp lý giữa nhà nước và DNNN trước hết cần làm rõ quan niệm về DNNN, vì vậy trong phần này luận văn tập trung làm rõ nội hàm khái niệm DNNN. 1.5.1. Khái niệm DNNN DNNN được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở các nước do cách tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số liệu thống kê với mục đích khác nhau. Một số tác giả cho rằng DNNN bao gồm cả những tổ chức nghiên cứu không hoạt động thương mại. Trong lúc đó, có những quốc gia khi thống kê DNNN lại không đề cập đến những DNNN do chính quyền địa phương quản lý. Tuy nhiên đa số các nước đều có những điểm chung khi nói đến DNNN, đó là DN thuộc sở hữu của nhà nước. Hiện nay, chưa có sự thống nhất giữa các quốc gia và các nhà nghiên cứu về khái niệm DNNN. Các nước khác nhau có khái niệm về DNNN và giới hạn của DNNN là không giống nhau. Tại nước Anh, khi thành lập uỷ ban đặc biệt về quốc hữu hoá công nghiệp, đã quy định DNNN gồm 3 điều kiện: “(1) HĐQT DN do Chính phủ bổ nhiệm; (2) Uỷ ban quốc hữu hoá công nghiệp kiểm tra tài khoản kinh doanh của DN; (3) Thu nhập của DN phần lớn không dựa vào cung cấp của Quốc hội hoặc của các cơ quan tài chính nhà nước”. Ở Pháp, DNNN được xác định là những DN thoả mãn những điều kiện: “Tính công hữu của quyền sở hữu tài sản, nhờ đó chính phủ xác lập được địa vị lãnh đạo đối với DN; có địa vị pháp nhân độc lập như những DN khác; thực hiện các hoạt động kinh doanh độc lập, là tổ chức 12 kinh tế có hạch toán lỗ, lãi chứ không phải là đơn vị hành chính sự nghiệp. Ở các nước Thụy Điển, Phần Lan, Braxin, Mêhicô nói chung đều cho rằng DN trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn là DNNN” [43, tr.63]. Định nghĩa DNNN được sử dụng khá phổ biến trong báo cáo của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO). Theo UNIDO, DNNN được định nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước (SHNN) hoặc do nhà nước kiểm soát có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, DNNN bao gồm các DN hoàn toàn thuộc sự quản lý của các bộ, ngành, các DN mà Nhà nước giữ phần lớn cổ phần và cả những DN tuy Nhà nước không giữ phần lớn cổ phần song do sự phân tán của cổ đông mà Nhà nước nắm giữ quyền chi phối 33, tr. 69 - 70. Điều 1 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 của Việt Nam quy định “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Trên cơ sở tiếp thu định nghĩa về DNNN trên thế giới, học viên nhận thấy nên định nghĩa DNNN như sau: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế có mục đích thương mại do nhà nước nắm quyền kiểm soát và chi phối. Theo khái niệm này, các đơn vị kinh tế có cơ cấu tổ chức nhất định hoạt động nhằm vào các giá trị lợi ích do nhà nước kiểm soát hoặc chi phối là DNNN. Tuy nhiên, khái niệm “mục đích thương mại”, “kiểm soát và chi phối” được hiểu ở mỗi quốc gia một cách khác nhau. Trong mỗi giai đoạn phát triển, khái niệm trên cũng có sự thay đổi nhất định. 1.5.2. Vị trí, vai trò của hệ thống DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng Mặc dù DNNN trên thực tế tỏ ra kém hiệu quả kinh tế hơn các DN tư nhân; mặc dù DNNN thường trở thành gánh nặng cho ngân sách các quốc gia; mặc dù các chính phủ ngày càng bán hoặc CPH nhiều hơn các DNNN và giảm mạnh đầu tư vào khu vực này, nhưng các DNNN vẫn tiếp tục chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế 106, tr.54. 13 Ở nước ta, DNNN giữ vị trí gần như độc tôn trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. DNNN được coi là đơn vị kinh tế cơ sở, là tổ chức xã hội, là trường học chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân. DNNN đã phát triển với quy mô và số lượng rất lớn và được xác định là lực lượng kinh tế chủ đạo, đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố nền tảng kinh tế – xã hội. Vì vậy, QHPL giữa nhà nước và DNNN được xác lập chủ yếu nhằm thực thi chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước và đáp ứng phúc lợi xã hội. Từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, trong tư duy lý luận và thực tiễn lãnh đạo của Đảng, quan niệm về vị trí, vai trò của hệ thống DNNN đã có sự thay đổi, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định vai trò chủ đạo của nền KTNN, mà trong đó DNNN có vị trí quan trọng. Vai trò của DNNN bắt nguồn từ mục tiêu xây dựng CNXH mà chúng ta đang phấn đấu thực hiện. KTNN được xác định là thành phần chủ đạo của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với tư cách là bộ phận nòng cốt của thành phần KTNN, đồng thời phải thực hiện nhiệm vụ dịch vụ công cộng, DNNN đương nhiên có vị trí trọng yếu của KTNN, vì thế chúng có ý nghĩa quan trọng trong vai trò chủ đạo của KTNN. Đó là những nguyên tắc căn bản nhất thể hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc xác định vị trí, vai trò của các DNNN trong nền kinh tế. Để các DNNN xác lập và hoạt động trong đời sống kinh tế hết sức năng động và đa dạng theo những nguyên tắc căn bản đó, thì điều có ý nghĩa quyết định phải xác định được cụ thể và chính xác về mặt pháp lý vị trí của chúng, những khả năng và giới hạn cũng như những bảo đảm về tổ chức và hoạt động của chúng trong nền kinh tế (mối quan hệ giữa chúng với nhà nước). Điều này, tác động mạnh mẽ đến việc hoàn thiện QHPL giữa nhà nước và DNNN. 1.5.3. Đặc điểm DNNN  DNNN là một trong những chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Về mặt pháp lý, DN là chủ thể chủ yếu tham gia các QHPL kinh doanh trên thương trường như mua bán hàng hóa, dịch vụ, giải quyết các tranh chấp, đăng ký 14 hoạt động, giải thể, thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh DNNN là DN, vì vậy nó có đầy đủ đặc điểm của DN và được nhìn nhận trên cả hai phương diện, đó là kinh tế và pháp lý. Thứ nhất, DNNN là một đơn vị kinh doanh có chức năng chính là sản xuất hàng hoá, dịch vụ. Có thể khái quát về đặc điểm này qua sơ đồ 1.1. Sơ đồ 1.1: Khái quát về doanh nghiệp Doanh nghiệp Đăng ký kinh doanh, giải thể, thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý Sản xuất hàng hoá, dịch vụ, thực hiện hạch toán hoạt động kinh tế, tài chính Phân chia thu nhập cho chủ sở hữu, người quản lý DN và người lao động Tổ chức và thực hiện các nghiệp vụ quản lý và kinh doanh DN hoạt động kinh doanh là việc DN thực hiện một, một số, hay tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình, tổ hợp tác, những chủ thể này cũng đều trực tiếp tham gia kinh doanh, nhưng pháp luật không thừa nhận là DN. Những tổ chức xã hội mà chức năng hoạt động chính của nó không phải là kinh doanh ví dụ như các cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng, các tôn giáo, các tổ chức từ thiện… cũng không thể coi là DN. DNNN được quyền hoạt động kinh doanh trong một số ngành nghề liên quan đến an ninh quốc phòng và ngành nghề đặc biệt mà DNNQD không được phép kinh doanh nhưng phải hoạt động theo pháp luật. Thứ hai, DNNN là những đơn vị kinh doanh bằng vốn và tài sản của mình. Nhà nước có thể xác định hoặc không xác định mức vốn pháp định dựa trên cơ sở tuỳ theo ngành nghề và loại hình DN. 15 Thứ ba, DNNN phải đăng ký kinh doanh để trở thành chủ thể kinh doanh. DNNN chỉ có quyền tiến hành kinh doanh sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Thứ tư, DNNN phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán và thống kê. Hạch toán kế toán nhằm phản ánh trên các chứng từ, tài khoản và sổ kế toán mọi hoạt động kinh doanh, phục vụ cho yêu cầu quản lý, điều hành của chính DN cũng như yêu cầu kiểm soát của nhà nước.  Đặc trưng của DNNN khác với DNNQD là sự hỗn hợp của tính kinh doanh và tính công cộng. Tính chất kinh doanh thể hiện ở mục đích hoạt động của DNNN. Kết quả và năng lực hoạt động của chúng phụ thuộc vào năng lực thực hiện quyền tự chủ kinh doanh và khả năng tổ chức, quản lý kinh doanh. Vì thế, lợi nhuận hay hiệu quả tài chính được pháp luật thừa nhận là một mục tiêu chủ yếu. Tính chất công cộng của DNNN được phản ánh không chỉ qua tính chất công hữu của tài sản, mà còn ở các mục đích sử dụng tài sản và kết quả hoạt động. Bên cạnh mục đích kinh doanh, hoạt động của DNNN luôn hướng tới việc phục vụ lợi ích công cộng, xã hội, nhà nước, dịch vụ công ích… cho nên tổ chức và hoạt động của DNNN có những đặc thù khác so với DNNQD. Dựa trên hai tính chất này, chúng ta nhận ra được sự khác nhau giữa DNNN và DNNQD, đồng thời thể hiện quan hệ hữu cơ giữa chức năng kinh doanh và chức năng công cộng của DNNN. Tính chất “kinh doanh” của DNNN: Giống như các DNNQD, DNNN hoạt động trong môi trường kinh doanh chịu ảnh hưởng của các yếu tố và quy luật của thị trường. Vì vậy, mục tiêu, quyền và nghĩa vụ pháp lý của DNNN cũng như DNNQD. Tuy nhiên tính chất kinh doanh của DNNN vẫn có những đặc điểm riêng. Mục tiêu kinh doanh là yếu tố cơ bản đảm bảo sự tồn tại và phát triển của DNNN. DNNN có nghĩa vụ phải tạo ra nguồn tài chính cần thiết để duy trì hoạt động của mình và tạo ra lợi nhuận từ chủ yếu kết quả kinh doanh. Nhưng, tính chất 16 kinh doanh này bị hạn chế nếu DNNN cung cấp hàng hoá và dịch vụ có tính chất công cộng và nguồn tài chính được bù đắp từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, đối tượng mục tiêu và phương thức kinh doanh có sự tham gia của nhiều yếu tố và chủ thể liên quan nên quyền tự chủ kinh doanh bị ảnh hưởng. Việc xác định và đánh giá kinh doanh luôn là một vấn đề phức tạp vì tính đa mục tiêu của DNNN. Vì vậy, chính sách phân phối lợi nhuận được áp dụng khác với DNNQD. Đối với DNNN, đối tượng được quan tâm đầu tiên thường là người lao động, sau đó đến nhà nước (chủ sở hữu quan trọng nhất đối với tài sản của DNNN). Tính chất “công cộng” của DNNN: Tính chất “công cộng” là đặc trưng của DNNN thể hiện qua mục đích hoạt động và phương thức kinh doanh của DNNN. Lợi ích thu được từ các hoạt động không chỉ được sử dụng để phục vụ cho nhà đầu tư mà còn bị chi phối bởi lợi ích chung của cộng đồng. Nhà nước phải đầu tư ở một số lĩnh vực để phục vụ nhu cầu của xã hội, hướng tới việc cải thiện phúc lợi xã hội, ổn định kinh tế – xã hội hơn là tối đa hoá lợi nhuận. Có những lĩnh vực dịch vụ, hàng hoá mà nhà nước bắt buộc phải tham gia và giữ quyền chi phối, điều tiết để đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng cho xã hội một cách ổn định, đó là các lĩnh vực liên quan đến an sinh xã hội, hạ tầng cơ sở… hoặc lĩnh vực có yêu cầu vốn đầu tư lớn, lợi nhuận đem lại thấp nên rất ít nhà đầu tư quan tâm những vẫn phải có. Đây chính là nhiệm vụ của nhà nước. Về nguyên tắc, lợi ích thu hay quyền sử dụng các lợi ích đó sẽ được phân phối cho chủ sở hữu theo tỷ lệ về sở hữu của họ đối với tài sản. Tại DNNN, phần lớn vốn và tài sản thuộc SHNN tạo ra lợi nhuận thuộc quyền quyết định của nhà nước nhưng nhà nước không trực tiếp nhận và thụ hưởng mà phân chia theo nhiều cách thức, mục đích khác nhau và cho nhiều đối tượng khác nhau. Như vậy, điểm khác nhau quan trọng chính là chủ sở hữu tài sản và người hưởng thu lợi ích luôn luôn khác nhau, gây khó khăn cho việc nhà nước thực hiện quyền sở hữu và đánh giá kết quả hoạt động DNNN. 1.5.4. Khái niệm quan hệ pháp lý giữa nhà nƣớc và DNNN 17 Sự tồn tại của DNNN là một tất yếu khách quan. Từ đó, sự điều chỉnh của pháp luật đối với DNNN là một tất yếu khách quan bởi hai lý do sau: Thứ nhất, phải xác lập cơ sở pháp lý cho việc nhà nước thực hiện chức năng quản lý và thực hiện quyền sở hữu. Trong cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, vai trò của pháp luật khá mờ nhạt và trở nên thứ yếu trước sức mạnh của các mệnh lệnh hành chính. Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn cần phải có cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt động quản lý. Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật trở thành công cụ quyết định trong điều chỉnh các quan hệ xã hội căn bản. Việc điều chỉnh của pháp luật đối với DNNN ngày càng trở nên là một nhu cầu không thể thiếu để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước thực hiện quyền sở hữu tại DNNN, điều tiết và định hướng phát triển nền kinh tế. Thứ hai, sự điều chỉnh pháp luật đối với DNNN là cơ sở, là điều kiện cần thiết nhất, quan trọng nhất trong việc tạo “khung pháp lý” cho DNNN tổ chức và hoạt động. Bởi lẽ, các chủ thể kinh doanh nói chung, trong đó có DNNN, muốn hoạt động một cách có hiệu quả thì cần phải có một khung pháp lý đầy đủ và hợp lý. Với tư cách là công cụ chủ yếu để nhà nước sử dụng quản lý xã hội, pháp luật xác định bản chất, nội dung, phương hướng, biện pháp thực hiện quan hệ giữa nhà nước và DNNN. Vì được xác lập và đảm bảo thực hiện trên cơ sở pháp luật nên nội dung của QHPL giữa nhà nước và DNNN luôn luôn được thể hiện ở hệ thống quyền và nghĩa vụ pháp lý của hai chủ thể là nhà nước và DNNN. Trong đó, quyền pháp lý là khả năng xử sự của chủ thể theo một cách thức nhất định được pháp luật cho phép. Còn nghĩa vụ pháp lý của chủ thể là cách xử sự bắt buộc của chủ thể nhằm đáp ứng quyền và lợi ích của các chủ thể khác. Quan hệ đó được pháp luật điều chỉnh sẽ xác lập quyền và nghĩa vụ của chủ thể về mặt lý thuyết. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra, các quyền và nghĩa vụ đó sẽ được hiện thực hoá. Theo GS, TS Đào Trí Úc, quan hệ pháp lý có thể được xem xét ở phương diện lý thuyết (trạng thái tĩnh) và phương diện thực tiễn (trạng thái động). 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan