Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ Nga - Trung sau chiến tranh lạnh...

Tài liệu Quan hệ Nga - Trung sau chiến tranh lạnh

.DOC
42
1188
90

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1 I. CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ TRUNG – NGA SAU CHIẾN TRANH LẠNH.............3 1. Khái lược quan hệ Trung – Nga thời kỳ chiến tranh lạnh.............................3 2. Những nhân tố tác động đến quan hệ Trung – Nga sau chiến tranh lạnh...............8 2.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến sự điều chỉnh quan hệ Trung – Nga. .8 2.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Nga sau chiến tranh lạnh.........................................................................................................10 II. QUAN HỆ TRUNG - NGA SAU CHIẾN TRANH LẠNH......................17 1. Quan hệ chính trị và an ninh hai nước Trung - Nga....................................17 2. Quan hệ kinh tế_ thương mại và đầu tư hai nước Trung - Nga...................29 3. Triển vọng của quan hệ Trung – Nga trong thập kỷ tới..............................35 LỜI CẢM ƠN Qua bản báo cáo thực tập này, trước hết tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn cùng lời cảm ơn sâu sắc tới thầy Ngô Chí Nguyện – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đã giúp đỡ và chỉ bảo tận tình ngay từ khi chọn đề tài, sưu tầm tài liệu cũng như trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành bản báo cáo thực tập này. Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Quan Hệ Quốc Tế đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như quá trình hoàn thành bản báo cáo thực tập. Xin chân thành cảm ơn đến các cơ, các chú ở Thư viện trường Đại học DL Đông Đô, Thư viện Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thư viện quân đội, đã giúp đỡ tôi tận tình trong suốt quá trình tìm kiếm tài liệu cho bản báo cáo thực tập. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên tôi về tinh thần để tôi có thể hoàn thành bản báo cáo thực tập này. Hà Nội ngày 2/4/2009 Sinh viên Vũ Thi Quyên LỜI MỞ ĐẦU Trung Quốc và Nga là những nước lớn trên trường quốc tế, mối quan hệ giữa hai nước đều được cả hai bên Trung – Nga rất coi trọng. Vì đây vừa là mối quan hệ láng giềng, vừa là mối quan hệ giữa các nước lớn với nhau. Trên thực tế, mối quan hệ giữa hai quốc gia Trung – Nga trong những năm qua cho thấy mối quan hệ này không chỉ ảnh hưởng tới môi trường hòa bình và an ninh thế giới , mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình nội trị và phát triển kinh tế của cả hai quốc gia. Lịch sử mối quan hệ Trung – Nga có nhiều biến đổi thăng trầm trong thời kỳ chiến tranh lạnh, nhất là trong những năm thập kỷ 1960, 1970 hai nước luôn trong tình trạng căng thẳng. Nhưng sau đó đã dần tiến tới hợp tác và đã có những kết quả đáng kể. Trung Quốc và Nga là hai nước lớn của khu vực cũng như trên thế giới. Có thể nói, hiện nay hầu như tất cả các mối quan hệ quốc tế ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của hai nước này. Đó là bởi vì hai nước Trung Quốc và Nga sau chiến tranh lạnh đã có những bước chuyển mình đáng kể, nhất là Trung Quốc, Trung Quốc sau chiến tranh lạnh được ví như ‘’ con sư tử đang thức dậy và bắt đầu làm rung chuyển thế giới’’ ( R. Nison). Qúa trình cải cách mở cửa hơn 1/ 4 thế kỷ qua đó đem lại cho Trung Quốc một tầm vóc kinh tế, chính trị, quân sự đủ lớn đến mức không một chủ thể quan hệ quốc tế nào ở khu vực cũng như trên thế giới bỏ qua trong tính toán chiến lược của mình. Với Nga, sau một thời gian suy yếu sau chiến tranh lạnh cũng đã có những biến chuyển theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp lên. Nền kinh tế, chính trị , quân sự cũng dần đi vào ổn định sau khi Liên Xô tan rã và nước Nga đang lấy lại vị thế của mình trên trường Quốc tế. Mối quan hệ của hai nước Trung – Nga đã và đang thu hút sự quan tâm theo dõi của dư luận quốc tế. Bởi đây là hai nước lớn trên thế giới có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và thế giới. 1 Về tổng thể, mối quan hệ giữa hai quốc gia này mặc dù vẫn còn những nhân tố không thuận, thậm chí nghi kỵ nhau, nhưng cơ bản đang phát triển theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp, với những cuộc gặp gỡ cấp cao, giao lưu kinh tế, văn hóa và những hoạt động nhằm cải thiện mối quan hệ giữa hai quốc gia được diễn ra thường xuyên. Quan hệ giữa các nước lớn là một yếu tố then chốt định hình diện mạo đời sống quan hệ quốc tế và cục diện thế giới trong mỗi thời đại lịch sử. Thời kỳ sau chiến tranh lạnh, mặc dù được nhiều người cho là thời kỳ của trật tự nhất siêu đa cường nhưng có không ít những ý kiến và những cơ sở để nói rằng đó là thời kỳ quá độ tiến tới hình thành một trật tự quốc tế đa cực trong tương lai. Trong cục diện đó sự phát triển của mối quan hệ Trung – Nga có ý nghĩa quan trọng trong việc định hình lại trật tự quan hệ mới ở Châu Á – Thái Bình Dương, cũng như trên thế giới. Chủ đề này hướng tới phân tích tình hình quan hệ Trung – Nga sau chiến tranh lạnh, những thuận lợi cũng như những hạn chế và triển vọng của mối quan hệ đó, từ đó phần nào hình dung được xu thế vận động của mối quan hệ giữa các nước lớn ở Châu Á – Thái Bình Dương cũng như trật tự quốc tế và khu vực trong tương lai. 2 I. CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ TRUNG – NGA SAU CHIẾN TRANH LẠNH: 1.Khái lược quan hệ Trung – Nga thời kỳ chiến tranh lạnh: Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mối quan hệ Trung Quốc và Nga đã trải qua bao thăng trầm . Sau khi Trung Quốc giành được độc lập tháng 10/ 1949 và tuyên bố đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc bắt đầu bước lên vũ đài chính trị thế giới với một vị thế mới trong quan hệ quốc tế. Trung Quốc khi đó đã coi Liên Xô như một ‘’ đầu tầu’’ một ‘’anh cả’’ của phe XHCN mà chỉ có thể là Liên Xô mà thôi. Mỗi bước đi của Trung Quốc đều như có ảnh hưởng sâu sắc của Liên Xô. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn do bị Mỹ phong tỏa, bao vây cấm vận. Chủ tịch Mao Trạch Đông đã thực hiện chiến lược đối ngoại ‘’ nhất biên đảo’’ , liên minh với Liên Xô và các nước XHCN để chống lại Mỹ và các nước TBCN. Tháng 12/ 1949, ngay sau khi Trung Quốc độc lập, chủ tịch Mao Trạch Đông đã có chuyến thăm hữu nghị Liên Xô và ngày 14/ 2/ 1950 hai bên đã ký ‘’ Hiệp ước hữu nghị, liên minh và tương trợ Xô – Trung’’, với hiệp ước này, Liên Xô đã dành cho Trung Quốc những điều khoản bảo vệ và trợ giúp to lớn. Những động thái đầu tiên của quan hệ Trung – Xô sau khi Trung Quốc giành được độc lập đã thể hiên sự gắn bó mật thiết và sự coi trọng của Trung Quốc đối với Liên Xô trong giai đoạn này. Ngoài ‘’ Hiệp ước hữu nghị, liên minh và tương trợ Xô – Trung’’ thì hai nước còn ký một loạt các hiệp định hợp tác chuyên ngành trên các lĩnh vực như khoa học, công nghiệp, văn hóa, giáo dục….với sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô dành cho Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, được sự giúp đỡ của Liên Xô, công cuộc xây dựng đất nước và khôi phục sau chiến tranh đã được diễn ra và thu được những thành quả to lớn, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Các nhà máy, xí nghiệp ngày càng được phát triển và xây dựng với quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh đó, các chuyên gia và các cán bộ kỹ thuật cũng được Liên Xô đưa sang để giúp đỡ Trung Quốc xây dựng đất nước. 3 Mặt khác, thời kỳ những năm 1950 của thế kỷ XX, tình hình thế giới trong giai đoạn bất ổn định. Sự đối đầu giữa hai khối Vacsava và NATO và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai phe XHCN và TBCN (mà chủ yếu là hai cực ‘’ Xô – Mỹ’’ ngày càng trở lên căng thẳng. Đây cũng chính là tác nhân gây ảnh hưởng tới quá trình xây dựng và phát triển của Trung Quốc, nhất là khi Trung Quốc mới vẫn còn non trẻ. Vì vậy, liên minh với Liên Xô còn mang ý nghĩa an ninh sâu sắc đối với Trung Quốc. Ở phía Đông Bắc, ngày 15/9/ 1950, Mỹ huy động toàn bộ binh lực ở Viễn Đông tiến hành cuộc chiến tranh Triều Tiên, uy hiếp an ninh Trung Quốc từ phía Đông Bắc. Trung Quốc tranh thủ sự hủng hộ và viện trợ của Liên Xô đã đứng lên ‘’ Kháng Mỹ , viện Triều’’ cũng là nhằm bảo vệ an ninh cho mình. Ở phía Nam, Mỹ cũng lôi kéo các đồng minh của mình thành lập các khối quân sự, rồi chi viện đắc lực và giúp đỡ Pháp trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam và sau đó trực tiếp xâm lược Việt Nam, đe dọa nền an ninh và ổn định của Trung Quốc từ phía Nam. Trong tình hình không mấy sáng sủa đó, Trung Quốc đã giúp đỡ cho nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh chống Pháp và kháng Mỹ xâm lược. Với những hành động của mình, Trung Quốc đã được Liên Xô ủng hộ và giúp đỡ vô điều kiện với những viện trợ về quân sự và kinh tế để Trung Quốc có thể chế tạo thành công bom nguyên tử_ như một công cụ hữu ích nhằm bảo vệ đất nước và biến Trung Quốc trở thành một nước lớn không chỉ về dân số, diện tích mà còn về sức mạnh quân sự. Bước sang thời kỳ những năm 1960, tình hình thế giới có những bước biến đổi lớn làm cho quan hệ hai nước Trung – Xô không mấy êm ả. Chính sách ‘’ nhất biên đảo’’ ngả về Liên Xô dự phần nào đã làm cho Trung Quốc thỏa mãn những ham muốn và những yêu cầu về an ninh cũng như sự phát triển đất nước của Trung Quốc. Nhưng điều đó không làm cho Trung Quốc cảm thấy thỏa mãn ham muốn nâng cao vị thế hơn nữa trên trường quốc tế. Không muốn bị lệ thuộc quá nhiều với Liên Xô, Trung Quốc đã tiến hành 4 chính sách hai mặt , vừa tranh thủ Liên Xô, vừa tìm cách làm giảm ảnh hưởng của Liên Xô trong nội bộ Đảng và nhà nước Trung Quốc, cũng như trong phong trào XHCN thế giới. Do vậy, những bất đồng giữa hai nước Trung – Xô vốn đã được nhem nhóm từ trước, nay càng có ‘’ cơ hội’’ cho ‘’ nó’’ trở lên gay gắt hơn. Quan hệ giữa hai nước ngày càng trở lên căng thẳng, cuối cùng dẫn đến sự tan vỡ của liên minh Xô – Trung và dẫn đến một cuộc luận chiến lớn giữa hai Đảng Cộng Sản Liên Xô và Trung Quốc vào những năm 1960. Trung Quốc phê phán Liên Xô là đi theo chủ nghĩa xét lại, đi ngược lại những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội. Còn Liên Xô thì lên án cho rằng Trung Quốc quá bảo thủ và giáo điều. Làm cho tình hình hai nước bất đồng ngày càng lớn. Chiến lược ‘’ nhất biên đảo’’ của Trung Quốc không còn được Trung Quốc duy trì mà đã chuyển sang chính sách ‘’ hai tuyến’’, thực hiện chính sách đóng cửa, vừa chống xét lại – Liên Xô, vừa chống đế quốc Mỹ. Chiến lược ngoại giao này đã dẫn tới sự cô lập của Trung Quốc trên vũ đài quốc tế trong suốt những năm 1960. Quan hệ Trung Quốc với Liên Xô và Trung Quốc với Mỹ đều ở trong trạng thái căng thẳng. Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn nhấn mạnh và đề cao cảnh giác với những phần tử cách mạnh phản động trong nước có thể liên minh với ‘’các thế lực thù địch bên ngoài’’ mà đứng đầu là Mỹ và Liên Xô đang tìm cách để phá hoại nền an ninh của Trung Quốc. Trong giai đoạn này, Trung Quốc ít giao lưu với các nước nhằm bảo vệ một cách triệt để những âm mưu từ bên ngoài làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của Trung Quốc và sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Tiến hành chính sách ngoại giao thù địch chống lại cả Mỹ và Liên Xô, Trung Quốc một mặt vẫn ủng hộ các nước trong khu vực, trong đó có cả Việt Nam trong quá trình chống Mỹ nhằm nâng cao vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế. Về phía Liên Xô, ảnh hưởng của Liên Xô ở các nước XHCN, nhất là các nước Đông Dương ngày càng được tăng lên. Liên Xô đã giúp đỡ các nước 5 trên con đường giải phóng dân tộc và phát triển theo định hướng XHCN cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Trung Quốc với cả Liên Xô và Mỹ không mấy tốt đẹp trong thời kỳ này. Mỹ vẫn cấm vận và uy hiếp Trung Quốc, làm cho tình hình lúc này luôn căng thẳng. Phía Liên Xô thì cắt viện trợ, rút chuyên gia và đình chỉ giúp Trung Quốc chế tạo bom nguyên tử. Quan hệ chính trị giữa hai nước Trung – Xô ngày càng xấu đi và dẫn tới xung đột biên giới giữa hai nước với quy mô nhỏ bắt đầu từ năm 1969, mà lớn nhất là vụ xung đột vũ trang quy mô ở đảo Dammaxki trên sông Usuri bắt đầu bằng việc lính biên phòng Trung Quốc phục kích lính biên phòng Liên Xô ngày 2/ 3/ 1969. Với hi vọng chính sách ‘’ Hai tuyến’’ sẽ củng cố được an ninh quốc gia và tìm kiếm địa vị quốc tế lớn hơn trên trường quốc tế. Nhưng hình như, những chính sách của Mao Trạch Đông đã đi ngược lại với hi vọng của Trung Quốc, và điều đó khó mà đạt được khi đối đầu với cả Liên Xô và Mỹ. Bước sang những năm 1970, tình hình quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô trở lên căng thẳng hơn khi Trung Quốc muốn xích lại với Mỹ nhằm tạo ra một đối trọng nhằm chống lại Liên Xô do những bất đồng và mâu thuẫn giữa hai nước Xô – Trung ngày càng lớn. Liên Xô lại tiến hành cô lập Trung Quốc. Tình hình an ninh ở biên giới Trung – Xô lại không mấy khả quan. Trung Quốc buộc phải tìm cách xích lại gần với Mỹ nhằm lợi dụng sự đối đầu giữa ‘’ Hai cực’’ Xô – Mỹ để tìm cho mình một sự ảnh hưởng chính trị lớn hơn trên thế giới. Mặt khác, trào lưu phát triển của Mỹ và Phương Tây ngày càng có sức hấp dẫn đối với Trung Quốc để khôi phục và phát triển nền kinh tế của Trung Quốc đang trong tình trạng điêu đứng. Đầu những năm 1970, Trung Quốc đã thực hiện chính sách ‘’ ngoại giao bóng bàn’’ nhằm dần xích lại với Mỹ, cải thiện tình hình quan hệ hai nước vốn dĩ đã không mấy tốt đẹp trước đó. Với những chuyến thăm của các vị lãnh đạo hai nước đã làm cho tình hình thế giới thay đổi theo một chiều 6 hướng mới. Ngày 28/ 2/ 1972, hai nước Trung – Mỹ đã ra ‘’ Thông cáo Thượng Hải’’ đánh dấu sự bình thường hóa của quan hệ hai nước Trung – Mỹ. Điều này làm cho quan hệ giữa hai nước Trung – Xô ngày càng trở lên căng thẳng và đối đầu. Mối quan hệ giữa hai nước Xô – Mỹ khi đó luôn căng thẳng và trên hai chiến tuyến, mặc dù không đổ máu, không nổ sung nhưng luôn trong tình trạng căng thẳng của cuộc ‘’ chiến tranh lạnh’’. Với chính sách ‘’ Một tuyến’’ ngả về Mỹ và Phương Tây thời kỳ này của Trung Quốc dường như đã thu được những thắng lợi nhất định, ít nhất là mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước tư bản Phương Tây đã được cải thiện rõ rệt, giảm thiểu được mối lo ngại trong khả năng xảy ra xung đột giữa hai nước Trung – Mỹ. Tuy nhiên, để đạt được những ‘’ thắng lợi’’ này đã làm cho Trung Quốc ngày càng trở lên xa lạ và xa cách với các nước XHCN trong khu vực cũng như trên thế giới. Với những mặc cả về quyền lợi giữa hai nước Trung – Mỹ làm cho tình hình thế giới và khu vực lúc này nghiêng theo một chiều hướng có lợi cho Mỹ và Phương Tây và có hại cho phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới do Liên Xô đứng đầu. Khi cuộc ‘’ Đại cách mạng văn hóa’’ kết thúc, cũng là lúc kép lại thời kỳ không mấy tốt đẹp trong lịch sử Trung Quốc và mở ra một giai đoạn mới khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền lãnh đạo thay cho Mao Trạch Đông. Với chính sách ngoại giao hòa bình, độc lập, tự chủ của Đặng Tiểu Bình dường như đã làm thay đổi diện mạo của Trung Quốc. Vào thời kỳ cuối những năm 1970 trở đi, tình hình thế giới đã êm dịu hơn, đối đầu Xô – Mỹ đã dần bớt căng thẳng. Cuộc kháng chiến giành độc lập của các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới đã thu được những thắng lợi đáng kể. Nhiều nước đã đi lên và xây dựng nền kinh tế phát triển. Nhưng ngược lại, nền kinh tế của Trung Quốc lại đang đứng trên bờ vực của sự phá sản và tụt hậu quá xa so với khu vực. Việc thay đổi cho phù hợp với tình hình và để khôi phục, phát triển kinh tế là điều đương nhiên với Trung 7 Quốc. Để hiện đại hóa nền kinh tế Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã chủ chương thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ. Trung Quốc đã dần tách ra khỏi Mỹ và bắt đầu cải thiện mối quan hệ với Liên Xô. Đánh dấu một bước tiến triển mới tốt đẹp cho quan hệ Trung – Xô vào đầu những năm 1980. Có vẻ như với chính sách ngoại giao này Trung Quốc đã dần cân bằng và khôn ngoan hơn về ngoại giao khi đứng giữa hai nước lớn. Còn phía Liên Xô cũng muốn kiềm chế mối quan hệ của hai nước Trung – Mỹ, tạo môi trường hòa bình phù hợp với xu hướng đối thoại thay đối đầu của thế giới, nên đã sẵn sàng hòa dịu và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Chuyến thăm Trung Quốc đầu tháng 6/ 1989 của Tổng thống Liên Xô Goocbachop đã đánh dấu việc bỡnh thường hóa quan hệ Xô – Trung. Tuy nhiên, nền kinh tế của Liên Xô ngày càng suy yếu, và tình chính trị xã hội ngày càng rối ren. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, chậm sửa đổi dẫn đến sự sụp đổ của mô hình XHCN ở Liên Xô đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử Liên Xô. Sự sụp đổ của Liên Xô đã chấm dứt ‘’ Chiến tranh lạnh’’ và tình trạng đối đầu ‘’ hai cực’’ Xô – Mỹ trong nền chính trị thế giới. Quan hệ quốc tế có những bước thay đổi theo chiều hướng hòa bình, hợp tác, đối thoại. Và trên cơ sở bối cảnh đó, quan hệ Trung – Nga sau đó cũng bước vào một trang mới. 2.Những nhân tố tác động đến quan hệ Trung – Nga sau chiến tranh lạnh: 2.1.Bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến sự điều chỉnh quan hệ Trung – Nga: Năm 1991, với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, cùng với sự giải thể của khối Vacsava(tháng 7/ 1991) đánh dấu sự chấm dứt của cuộc chiến tranh lạnh, đưa thế giới bước sang một trang mới. Với xu thế đối thoại thay cho đối đầu trở thành xu hướng chính, tình hình thế giới cũng có những thay đổi đáng kể theo hướng hòa dịu, hợp tác giữa các quốc gia. Mối quan hệ Trung – Nga từ sau chiến tranh lạnh vì thế cũng có những biến chuyển mạnh mẽ trên một nền tảng mới. 8 Trên thế giới, sau chiến tranh lạnh hình thành một trật tự thế giới mới thay cho trật tự hai cực trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Liên Xô tan rã, làm cho lực lượng thế giới thay đổi. Mỹ trở thành siêu cường số một và ra sức củng cố địa vị lãnh đạo trên thế giới. Nhưng sự vươn lên và phát triển của Nhật Bản và Tây Âu đã hình thành lên ba trung tâm kinh tế tài chính thế giới. Xu hướng đa cực hóa ngày càng rõ rệt với sự nổi lên của một số cường quốc mới. Bên cạnh đó, khu vực Châu Á đang nổi lên trở thành một khu vực phát triển năng động và có vai trò ngày càng quan trọng về chính trị và kinh tế thế giới. Các nước lớn như Trung Quốc và Nga đều muốn hạn chế vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ sau chiến tranh lạnh va tìm kiếm một vai trò lớn hơn trong trật tự thế giới và khu vực đó. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, làm cho quan hệ sản xuất thay đổi. Xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực như một điều tất yếu của thế giới đương đại. Các nước trên thế giới đều mở rộng thị trường, thông thương buôn bán, giao lưu gặp gỡ lẫn nhau. Sức mạnh của một quốc gia trong bối cảnh mới coi kinh tế như trụ cột để đánh giá vị thế của mỗi nước trong thế giới mới. Vì thế mà các nước đều dốc sức để phát triển nền kinh tế của mình. Nhờ vậy mà hang loạt các trung tâm kinh tế mới được hình thành, sự gia tăng liên kết khu vực với những loại hàng hóa bảo hộ mậu dịch xuyên quốc gia phong phú và đa dạng như một điều tất yếu của xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa trong cơ chế thị trường . Hàng loạt các tổ chức khu vực và liên khu vực được ra đời như EU, NAFTA,APEC… Với những hoạt động sôi động làm cho sự hợp tác giữa các quốc gia ngày càng được thắt chặt và trở thành một nhu cầu tất yếu. Tình hình an ninh trên thế giới sau chiến tranh lạnh cũng có những thay đổi theo chiều hướng chuyển từ chạy đua vũ trang sang đối thoại cùng tồn tại hòa bình. Ý thức hệ TBCN hay XHCN không còn là nhân tố quan trọng chi phối việc tập hợp các lực lượng trên thế giới nữa mà các quốc gia vừa hợp tác 9 vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Chiến tranh lạnh kết thúc, làm cho nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới giảm đi, song hòa bình từng khu vực vẫn chứa đựng những hiểm họa không thể tránh khỏi, bởi những cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, làn sóng ly khai và tranh chấp lãnh thổ vẫn diễn ra. Hàng loạt các vấn đề toàn cầu như khủng bố, tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm và ô nhiễm môi trường trở thành những bài toán khó giải cho bất cứ quốc gia nào và việc giải quyết yêu cầu có sự hợp tác song phương và đa phương. Trong khi Mỹ và Nga cắt giảm mạnh chi phí quân sự thì xu hướng chạy đua vũ trang tăng lên ở khắp mọi nơi, nhất là khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, làm cho nền an ninh và hòa bình trên thế giới vẫn còn rất mong manh, chứa đựng nhiều yếu tố bất chắc, nguy cơ xảy ra những cuộc đụng độ là điều không thể tránh khỏi. Tình hình thế giới trở lên rất phức tạp và biến đổi khôn lường đòi hỏi sự khôn khéo của các nhà lãnh đạo các quốc gia trước những thách thức và vận hội to lớn trên con đường phát triển của mình. Thế giới sau chiến tranh lạnh hết sức đa dạng và phức tạp khó lường, Nó chứa đựng đầy những thời cơ nhưng cũng đầy thách thức đối với sự phát triển của các quốc gia. Bối cảnh ấy đòi hỏi các quốc gia, các dân tộc phải nhận thức được mình và lựa chọn cho mình một con đường đi thích hợp, phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới, bắt kịp thời đại cũng như những biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa vị thế của mình trên trường quốc tế, nắm bắt thời cơ và đương đầu với những thử thách mới nhằm theo kịp trào lưu phát triển chung của thời đại. Tình hình ấy đã thúc đẩy Trung Quốc và Nga xích lại gần nhau, hợp tác nhằm tạo điều kiện hòa bình để phát triển kinh tế cũng như giải quyết những vấn đề chung nong bỏng của hai nước và của khu vực cũng như thế giới sau chiến tranh lạnh. 2.2 Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Nga sau chiến tranh lạnh: Sau chiến tranh lạnh, với những thay đổi của tình hình thế giới thì việc 10 điều chỉnh chính sách đối ngoại sao cho phù hợp với tình hình mới là điều tất yếu. Xu hướng đối thoại thay đối đầu, và sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gia nhất là khu vực Châu Á_ Thái Bình Dương đã và đang làm thay đổi hoàn toàn diện mạo thế giới. Kinh tế trở thành một nhân tố quan trọng để đánh giá một đất nước phát triển và sức mạnh trên trường quốc tế. Cả hai nước Nga và Trung Quốc đều cần môi trường hòa bình và ổn định để phát triển kinh tế, nên việc cải thiện mối quan hệ giữa hai nước là điều tất yếu. Đối với Trung Quốc, chính sách đối ngoại bắt đầu có sự thay đổi từ những năm 1980, đánh dấu bằng Đại hội lần thứ XII Đảng cộng sản Trung Quốc họp vào tháng 9/ 1982, được coi như mốc chuyển đổi quan trọng chính thức trong lịch sử ngoại giao của Trung Quốc trong thời kỳ mới, đó là chính sách ngoại giao hòa bình, độc lập, tự chủ. Trong diễn văn khai mạc của Đặng Tiểu Bình tại Đại hội có viết: '' Công việc của Trung Quốc phải căn cứ vào tình hình trong nước mà làm, phải dựa vào lực lượng của người Trung Quốc mà làm. Độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh, trước kia, hiện nay và sau này đều là lập trường của chúng ta. Nhân dân Trung Quốc coi trọng tình hữu nghị và hợp tác với các nước và nhân dân các nước , càng quý trọng hơn quyền độc lập tự chủ mà mình đã giành được qua sự phấn đấu lâu dài...chúng ta thực hiện một cách kiên định chính sách mở cửa với nước ngoài dựa trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi'' . Bài diễn văn của Đặng Tiểu Bình đã cho thấy sự tỉnh táo trong nắm bắt và thay đổi chính sách một cách phù hợp với thế giới, cũng như những nhận thức và phán đoán một cách khôn ngoan cho con đường phát triển của Trung Quốc trước những biến đổi khôn lường và vô cùng phức tạp của tình hình thế giới. Nó đánh dấu đường hướng mới trong chính sách ngoại giao mang tính thực tế của Trung Quốc nhằm bảo vệ và phát triển lợi ích dân tộc. Luôn đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, không cho phép bất cứ quốc gia nào tham gia vào công việc nội bộ của mình.Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh Đặng Tiểu Bình đã nhận định:'' lực lượng hòa bình 11 lớn mạnh hơn lực lượng chiến tranh'' nắm bắt được tình hình của thời đại, yên tâm tập chung vào phát triển kinh tế. Ngoại giao Trung Quốc nắm chắc và luôn nhấn mạnh hòa bình phát triển, Trung Quốc thúc đẩy xây dựng trật tự mới kinh tế, chính trị, hợp tác hữu hảo, rộng rãi và cùng phồn vinh. Đẩy mạnh mối quan hệ với Mỹ, Nhật Bản, và các nước phương Tây và các nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực Châu Á nhằm thu hút vốn, khoa học kỹ thuật hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến để phát triển kinh tế. Lần lượt thiết lập mối quan hệ với các nướcTây Âu và ký các hiệp định thương mại dài hạn vớiNhật Bản( tháng 2/1978) với Thị trường chung Châu Âu( tháng 4/1978) Với Mỹ ( tháng 3/ 1979). Ngoài mối quan hệ với Mỹ được coi là trục chính trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc, Trung Quốc cũng rất coi trong các mối quan hệ với các nước lớn khác như Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, ASEAN,... Trung Quốc với chính sách hòa bình, độc lập tự chủ đã dần tách khỏi Mỹ và cải thiện mối quan hệ với Nga, nhằm cú một chính sách ngoại giao cân bằng hơn. Tích cực phát triển ngoại giao đa phương và xây dựng hình tượng '' nước lớn có trách nhiệm '', với những hoạt động tích cực trên các diễn đàn quốc tế tại Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, tại WTO, APEC, ARF,... Sau khi Liên Xô tan rã, Trung Quốc đã thay đổi lập trường và thiết lập quan hệ ngoại giao với cộng hòa Liên Bang Nga. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Nga Enxin vào tháng 12 năm 1992, hai bên đã ra tuyên bố chung nêu rõ: Hai nước coi nhau là bạn bè hữu hảo, thực hiện bước quá độ ổn định cho quan hệ hai nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không phân biệt chế độ xã hội. Có thể nói, sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc xuất phát từ xu hướng đối thoại thay đối đầu, hợp tác, hữu nghị cùng có lợi dựa trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Đối với Nga, Trung Quốc luôn quán triệt chính sách ngoại giao giữ vững độc lập tự chủ, điều chỉnh đúng lúc quan hệ với Liên Xô, từng bước khôn khéo tháo gỡ những trở ngại lớn trong mối 12 quan hệ song phương. Vào thập kỷ 1980, tình hình quốc tế có những biến đổi sâu sắc, ‘’ mối đe dọa từ phía Liên Xô đối với Trung Quốc đã giảm nhẹ, Đặng Tiểu Bình đã xem xét đánh giá thời thế và chỉ rõ: ‘’ có một giai đoạn trước đây, nhằm đối phó với đe dọa của ‘’ chủ nghĩa bá quyền’’ Liên Xô, chúng ta đã áp dụng chiến lược ‘’ một tuyến’’, tức là một tuyến từ Nhật tới Châu Âu và Mỹ. Ngày nay chúng ta thay đổi chiến lược này, đây là một chuyển biến quan trọng’’. Trên cơ sở đó, Đặng Tiểu Bình có phán đoán mới về chiến lược: Đại chiến thế giới có thể bị đẩy lùi và có thể tránh khỏi. Ông đề xướng chủ chương lấy 5 nguyên tắc chung sống hòa bình làm cơ sở, kiến lập một trật tự mới về chính trị và kinh tế quốc tế, xác định một tư duy vượt qua tư duy Chiến tranh Lạnh và khẳng định một quyết sách chiến lược đặt lợi ích quốc gia trên cao nhất làm nguyên tắc để xử lý quan hệ Trung – Xô. Còn về phía Nga, sau khi Liên Xô tan rã, Nga được thừa hưởng vị thế quốc tế kế tục Liên Xô trên trường quốc tế ( kế thừa chiếc ghế Uỷ viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc và vị thế cường quốc hạt nhân của Liên Xô cũ ). Hơn nữa với những lợi thế so sánh có lợi từ nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có thể tự cung tự cấp gần như hoàn toàn nhiên nguyên liệu cho các ngành sản xuất công nghiệp trong nước. Lại có tiềm lực quân sự và an ninh quốc phòng vững vàng, khoa học cơ bản và khoa học vũ trụ phát triển, tinh thần và ý chí cao. Nước Nga có đầy đủ những yếu tố để phục hưng vị thế cường quốc thế giới. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô đã để lại những hệ lụy tiêu cực cho nước Nga. Kinh tế nước Nga suy thoái trầm trọng và kéo dài nhiều năm sau khi Liên Xô tan rã. trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, tình trạng thị trường truyền thống bị thu hẹp hoặc cắt đứt trong khi thị trường mới chưa được khai thông và hàng hóa Nga chưa đủ sức thâm nhập thị trường quốc tế. Nợ nước ngoài chồng chất. Nga không thu hút được vốn đầu tư nước ngoài để chuyển đổi nền kinh tế. Tình hình chính trị bất ổn, việc chuyển đổi thể chế chính trị sang 13 đa nguyên đa đảng đối lập đã làm ra đời quá nhiều đảng phái khác nhau. Thêm vào đó là sự không thống nhất giữa chính quyền Trung ương và chủ thể Liên Bang trong việc phân chia quyền lực chính trị, kinh tế. Các mâu thuẫn, xung đột sắc tộc, dân tộc vốn tiềm ẩn từ trước khi Liên Xô tan rã nay băng phát dữ dội. Mức sống của người dân lao động giảm nghiêm trọng , tình trạng tham nhũng, tội phạm, buôn lậu, khủng bố....hoành hành. Tình trạng thiếu tiền đang làm cho lực lượng quân sự của Nga những năm trước từng làm cho phần lớn thế giới khiếp sợ thì nay cũng lâm vào tình trạng suy yếu. Trong đối ngoại, Nga chưa xác lập được vị thế quốc tế với tư cách một cường quốc. Mỹ và các nước Phương Tây lại đang bỏ mặc Nga với những khó khăn của mình, không hề coi Nga như đồng minh của mình, và trên thực tế thì luôn đặt Nga vào tình trạng bị động khi giải quyết các vấn đề quốc tế. Và việc NATO và Mỹ kết nạp thêm Ba Lan, SÉC và Hunggari vào liên minh của mình, ngày càng tiến thêm '' chân rết'' về phía Đông và gây ra những bất lợi không nhỏ đối với Nga về mặt an ninh. Nước Nga đứng trước nguy cơ tụt hậu và mất đi vị thế cường quốc thế giới sau chiến tranh lạnh. Sự cô lập lẫn đe dọa an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là điều mà nước Nga phải đối mặt thường trực. Mặc dù đứng trước những khó khăn vô cùng lớn sau khi Liên Xô tan rã nhưng Nga cũng có những mặt thuận lợi. Đó là tình hình thế giới thay đổi, chiến tranh lạnh kết thúc, mối quan hệ giữa Nga đối với Mỹ và các nước Phương Tây không còn là kẻ thù như đối với Liên Xô trước đây nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho nước Nga khôi phục và phát triển đất nước. Những nhân tố trên đó ảnh hưởng sâu sắc và tác động tới quá trình hoạch định và điều chỉnh chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga sau chiến tranh lạnh. Giai đoạn 1991-1993 : là giai đoạn mà chính sách đối ngoại Nga được khái quát bằng thuật ngữ'' chính sách đối ngoại định hướng Đại Tây Dương''. Đây là giai đoạn chính quyền Enxin đề ra mục tiêu đối ngoại hòa nhập nhanh 14 chóng với nền văn minh của các nước phát triển phương Tây, chấp nhận là '' đối tác đàn em'' của Mỹ, nhượng bộ Mỹ và các nước phương Tây trong các vấn đề quốc tế nhằm tranh thủ sự trợ giúp từ Mỹ và phương Tây để nhanh chóng phục hồi kinh tế.Nhưng chính sách này đã không mang lại kết quả như mong đợi vì Mỹ và các nươc tư bản phương Tây mặc dù không coi Nga là kẻ thù những cũng không coi Nga là đối tác bình đẳng. Thất bại trong cả chính sách đối nội và đối ngoại đã làm cho Nga lõm sâu vào khủng hoảng. Trước tình hình đó, buộc Nga phải thay đổi chính sách đối nội lẫn đối ngoại sao cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Sang giai đoạn 1994 - 1999: Nga lấy '' định hướng Âu- Á'' thay cho '' định hướng Đại Tây Dương''. Tạo sự cân bằng ở cả ba hướng Tây, Đông, và Nam. Chuyển sang độc lập, tự chủ theo nguyên tắc ưu tiên trước hết lợi ích quốc gia. Mặc dù với chính sách đối ngoại mới đã được đề ra và thực hiện từ cuối nhiệm kỳ I của Tổng thống Enxin đã thu được những thành công nhất định, nhưng sự chuyển biến thật sự lại được đánh dấu từ sau khi Tổng thống V. Putin lên cầm quyền từ năm 2000 đến nay và sự kế nhiệm của Tổng thống Medvedev. Sự kiện lớn đầu tiên là nước Nga đã cho công bố 3 văn bản hết sức quan trọng: Chiến lược an ninh quốc gia( 10-1-2000), Học thuyết quân sự (21-4-2000) và đặc biệt là chiến lược Đối ngoại (28-6-2000). Chính sách đối ngoại của chính quyền Putin vừa thừa kế những định hướng trong chính sách đối ngoại Enxin giai đoạn hai nhưng đã thực dụng hơn và mang lại cho Nga khá nhiều thành công, nhất là lĩnh vực kinh tế. Bên cạnh mối quan hệ với Mỹ và các nước Tư bản phương Tây, các nước trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương được Nga coi trong phát triển, nhất là mối quan hệ với Trung Quốc. Mối quan hệ giữa hai nước không chỉ là quan hệ giữa những nước lớn với nhau mà Nga và Trung còn chung nhau một đường biên giới dài tới hàng ngàn ki-lô-một. Cải thiên mối quan hệ giữa hai nước láng giềng là một việc cần thiết tạo môi trường quốc tế hòa bình cho cả 15 hai quốc gia xây dựng kinh tế. Hơn nữa họ đều tìm được thế mạnh của nhau. Chẳng hạn như việc Nga cần thị trường và nguồn đầu tư to lớn từ một nước Trung Quốc đang phát triển mạnh mẽ, còn Trung Quốc lại tìm thấy ở Nga nguồn cung nguyên liệu rồi dào và nguồn cung cấp vũ khí tiên tiến với giá phải chăng. Trong việc định hình lại trật tự quốc tế cả Trung Quốc và Nga đều tìm thấy chỗ dựa ở nhau trong mục tiêu nhằm kiềm chế và ngăn chặn sự ảnh hưởng của Mỹ. Nhìn chung trong thời kỳ đầu sau chiến tranh lạnh, mối quan hệ của hai nước Trung Quốc và Nga không mấy tiến triển, quan hệ lúc này chủ yếu là nghe ngóng và tìm cách ngăn chặn những ảnh hưởng tác động tiêu cực của nhau. Trung Quốc vừa trải qua vụ Thiên An Môn, và đặc biệt là lo sợ tình hình bất ổn của Nga lúc này có thể ảnh hưởng đến tình hình chính trị và có thể còn đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Còn nước Nga lúc này chủ yếu tập chung vào giải quyết các vấn đề nội trị cấp bách. Hơn thế nữa, thiên hướng ngả theo phương Tây của Nga lúc này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ đối ngoại của hai nước. Vấn đề Đài Loan dường như cũng làm cho mối quan hệ hai nước có những mâu thuẫn đòi hỏi phải có biện pháp nhằm cải thiện mối quan hệ này. Và chỉ khi Tổng thống En-xin cam kết thi hành chính sách '' một Trung Quốc '', còn Trung Quốc thì chấp nhận để Nga và Đài Loan duy trì mối quan hệ nhưng không chính thức thì mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nga mới được cải thiện trở lại. 16 II. QUAN HỆ TRUNG - NGA SAU CHIẾN TRANH LẠNH: 1. Quan hệ chính trị và an ninh hai nước Trung - Nga Sau thời kỳ căng thẳng của những năm 1960, 1970, quan hệ của Trung Quốc và Nga đã bắt đầu đi vào cải thiện từ cuối những năm 1980. Sự cải thiện này bắt nguồn từ những chính sách cải tổ của ông Gooc-ba-chốp và nó phù hợp với tình hình chiến lược mới của Trung Quốc nhằm tạo môi trường an ninh hòa bình ổn định bên ngoài để tập chung vào phát triển kinh tế, hiện đại hóa và chấn hưng đất nước. Ngày 16/5/1989, tại Đại Lễ đường Nhân dân Bắc Kinh đã diễn ra cuộc gặp lịch sử giữa lãnh đạo cấp cao hai nước Trung – Nga và nơi đây trở thành trung tâm chú ý của dư luận cũng như báo giới trong và ngoài nước. Tại cuộc gặp lịch sử này, Đặng Tiểu Bình đã nói với Gooc-ba-chóp rằng: ‘’ Hoan nghênh ngài, đã tới 3 năm nay tôi mong được gặp ngài. Cả thế giới đang quan tâm tới cuộc gặp của chúng ta’’. Cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo của hai quốc gia đã đánh dấu sự bình thường hóa quan hệ giữa hai quốc gia, đưa mối quan hệ vốn không được tốt đẹp lắm trong những năm thời kỳ chiến tranh lạnh sang một trang mới. Cũng trong cuộc họp này, hai nhà lãnh đạo hai nước đã ký một bản Thông cáo chung về quan hệ bình thường giữa hai nước Trung Quốc và Liên Xô với những nội dung chính sau: - Hai bên nhất trí dựa trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hòa bình để phát triển quan hệ hai nước. Sự cải thiện quan hệ Trung – Xô không nhằm vào nước thứ ba và không làm tổn hại đến lợi ích của nước thứ ba. - Đảng Cộng sản hai nước trên cơ sở độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. - Hai bên đều mong thong qua đàm phán hòa bình để giải quyết mối tranh chấp giữa hai nước, không sử dụng vũ lực hoặc vũ trang để uy hiếp. - Trên khu vực biên giới, hai bên sẽ giảm lực lượng quân sự đến mức độ thấp nhất thích ứng với quan hệ hữu hảo láng giềng…( theo nhân dân Nhật báo( Trung Quốc) ngày 15-8-1989) 17 Cuộc gặp cấp cao này là sự ‘’ kết thúc quá khứ, mở ra tương lai’’, đúng như khẩu hiệu trước và sau cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử quan hệ của hai nước Trung – Nga. Sau chiến tranh lạnh, tình hình kinh tế của Nga không được mấy khả quan , sự phụ thuộc quá nhiều vào phương Tây càng làm cho nước Nga muốn thúc đẩy mối quan hệ với Trung Quốc. Và ngược lại, Trung Quốc cũng muốn hợp tác với Nga nhằm phá vỡ bế tắc trong quan hệ với Mỹ, kiềm chế Mỹ. Mối quan hệ này mặc dù mới được thực hiện chưa lâu và chưa đem lại nhiều chuyển biến, nhưng đề nghị về việc xây dựng ‘’ Quan hệ đối tác chiến lược hướng tới thế kỷ 21’’ do Nga đề xuất cũng được Trung Quốc chấp thuận. Trên thực tế thì đề nghị này xuất phát từ nhu cầu thúc đẩy mối quan hệ giữa hai quốc gia Trung – Nga để đối phó với những thách thức bên ngoài, trong đó có mục tiêu ngăn chặn và kiếm chế NATO do Mỹ đứng đầu đang bành chướng sang phía Đông. Hơn nữa cả hai đều hi vọng sự hợp tác giữa hai nước Trung – Nga sẽ tạo ra tác nhân kích thích trong việc thúc đẩy quan hệ vì Mỹ và các nước tư bản phương Tây chắc chắn không muốn thấy sự hình thành lien minh chặt chẽ giữa hai nước Trung – Nga. Tuy nhiên , mối quan hệ giữa hai nước Trung – Nga lúc này chủ yếu nhằm xoa dịu tình hình và giải quyết một số yêu cầu về đối nội và đối ngoại của cả hai quốc gia. Tháng 12/1992, Tổng thống Nga Yeltsin lần đầu tiên đến thăm Trung Quốc, đánh dấu bước phát triển và có thể nói là quan trọng nhất trong thiện chí hợp tác giữa hai quốc gia trên con đường xây dựng và phát triển các cuộc đối thoại chính trị Trung – Nga mang tính xây dựng. Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã có cuộc hội đàm với Tổng thống Nga Yeltsin trên tinh thần hợp tác hữu hảo và trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, hai bên đã ra ‘’ Tuyên bố chung’’ lấy 5 nguyên tắc chung sống hòa bình làm cơ sở phát triển mối quan hệ láng giềng, hữu nghị và hợp tác cùng có lợi. Cuộc gặp gỡ giữa hai vị lãnh đạo của hai quốc gia dường như đã làm thay đổi không nhỏ tới mối quan hệ giữa hai nước nói chung và trên thế giới nói riêng. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất