Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa, khu vực hóa đã và đang trở thành xu thế tất yếu của thời
đại ngày nay. Khi mà những mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
mỗi quốc gia muốn mang lại hiệu quả nhất đều cần sự ủng hộ, giúp sức của
nước khác thì nhiệm vụ ngoại giao lại trở nên cấp thiết hơn lúc nào hết. Có
thể khẳng định mở rộng quan hệ đối ngoại là con đường tất yếu để mọi quốc
gia, mọi tổ chức tham gia hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, không một
nước nào đứng ngoài cuộc mà phát triển, đi lên bền vững.
Nhân loại đang bước sang những năm đầu tiên của thế kỷ XXI với
nhiều mối quan hệ phức tạp, chồng chéo. Trật tự thế giới theo thể chế hai cực
Ianta không còn tồn tạo nữa nhường chỗ cho xu thế đa cực, phát triển trong
ổn định, hòa bình. Cùng với biến chuyển trong quan hệ quốc tế từ “đối đầu”
sang “đối thoại”, các quốc gia, nhất là các nước lớn càng đẩy mạnh quan hệ
hợp tác, liên kết với nhau nhằm đạt được vị trí thích hợp cho mình trên
trường quốc tế là bước đi tất yếu, hợp quy luật. Là hai siêu cường trên thế
giới, cả Liên bang Nga và Trung Quốc đều không nằm ngoài quỹ đạo đó.
Sau khi Liên Cộng hòa Xô viết tan rã (25/12/1991), Liên bang Nga kế
thừa phần lớn di sản của Liên Xô để lại với tiềm lực kinh tế, khoa học, quân
sự khổng lồ. Với tham vọng khôi phục lại địa vị của một Liên bang Nga hùng
cường như Liên Xô trước đây, Nga không khỏi hướng con mắt chú ý ra toàn
thế giới và ánh lên hi vọng, niềm tin ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương.
Bên cạnh một nước Nga đang đà phát triển, còn có hàng loạt các quốc gia
độc lập khác thuộc Liên bang Xô viết trước đây, được Liên Hợp quốc và
Cộng đồng quốc tế thừa nhận- đó là Cộng đồng các quốc gia độc (SNG)
Tăng cường mở rộng phạm vi ảnh hưởng và thiết lập mối quan hệ rộng
rãi với các nước châu Á là đối sách quan trọng để Liên bang Nga thực thi
mục đích của mình. Là nước đông dân nhất thế giới, lại giàu tiềm năng,
Trung Quốc được Nga đặc biệt chú ý là điều dễ hiểu. Hơn thế, những năm
gần đây, trong điều kiện các nước lớn đang phối hợp hành động để hình
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
thành một trật tự thế giới đa cực chống lại mưu toan đơn cực của Mỹ làm cho
quan hệ Nga- Trung ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn bề sâu.
Để đưa đất nước nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng sau khi Liên
bang Xô viết sụp đổ, Nga đã nỗ lực không ngừng củng cố tiềm lực nhằm thay
thế Liên Xô trên trường quốc tế cũng như những lãnh thổ mà Liên Xô ảnh
hưởng trước kia. Xu thế đa cực bị chủ nghĩa đơn cực của Mỹ kìm hãm,
khống chế khiến Nga không khỏi lúng túng và gặp nhiều khó khăn. Để thực
hiện mục tiêu trên, Nga đã thực hiện chính sách đối ngoại hướng Đông,
Trung Quốc được xếp trong sự lùa chọn hàng đầu.
Trung Quốc cũng tích cực áp dụng nhiều biện pháp để trở thành một
siêu cường thế giới, chi phối các nước châu Á, kiên trì mục tiêu “đa cực” mà
Nga đang theo đuổi. Tiếng nói chung Êy khiến Trung Quốc hiểu rằng cần
phải dùa vào sự giúp đỡ của Nga, duy trì ảnh hưởng với Nga. Và tất nhiên,
hướng ngoại giao Nga- Trung, vì thế, phát triển không ngừng.
Có thể khẳng định rằng, quan hệ Nga- Trung Quốc là mối quan hệ cần
thiết, tất yếu, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Không những vậy, quan hệ này
còn ảnh hưởng lớn đến nhiều khu vực khác trên thế giới.
Vốn được coi là “sân sau” của Liên Xô trước đây, khu vực Trung Á
bao gồm các nước Cộng hòa độc lập trong khối SNG: Cadắctan, Tatginixtan,
Udơbêkixtan, Tuốcmênixtan và Cưrơgưxtan. Đây không chỉ là vùng đất giàu
tài nguyên thiên nhiên (được mệnh danh là “Trung Đông thứ hai” với khí
đốt, mỏ quặng, dầu mỏ...) mà còn có vị trí địa- chiến lược quan trọng. Trung
Á nổi tiếng nằm án ngữ “con đường tơ lụa” huyết mạch từ Đông sang Tây.
Với riêng Nga, “không gian hậu Xô Viết” này đang có khoảng trống
quyền lực khiến Matxcơva không thể khoanh tay đứng nhìn. Nơi đây nằm
tiếp giáp với phía Nam Liên bang Nga, càng có ý nghĩa chiến lược về mặt an
ninh- quốc phòng với Nga. Nhất là sau sự kiện 11/9/2001, Mỹ và các nước
khác đều Êp ủ dự định tiến vào khống chế khu vực này dưới “chiêu bài”
chống khủng bố. Điều đó càng cần thiết để Nga tăng cường hơn nữa quan hệ
với các quốc gia Trung Á.
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Là nước lớn, Trung Quốc cũng có chung đường biên giới dài với các
nước Trung Á này. Hơn nữa, chiến lược an ninh năng lượng và phát triển
kinh tế của Bắc Kinh đòi hỏi nguồn dầu mỏ lớn mà Trung Á có thể đáp ứng.
Do đó, Trung Quốc cũng thấy được tính cấp thiết trong quan hệ đối ngoại,
hợp tác với khu vực này.
Nga, Trung Quốc, Trung Á là những quốc gia láng giềng thân cận, có
lịch sử và truyền thống bang giao lâu đời. Tìm hiểu mối quan hệ giữa các
nước này là vấn đề mang tính thời sự, cần thiết, nhất là trong bối cảnh Trung
Á đang trở thành “điểm nóng”, là nơi giành giật của nhiều quốc gia siêu
cường, trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến chuyển khó lường như hiện nay.
Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn bước đầu tìm hiểu về lịch sử
mối quan hệ Nga, Trung Quốc và khu vực Trung Á từ sau Chiến tranh Lạnh
đến nay (1992- 2007). Đây là giai đoạn có nội dung hết sức mới, nhiều bước
phát triển lớn, đầy lý thó nhưng cũng không Ýt khó khăn, nhiều kiếngiải khác
nhau. Chúng tôi hi vọng góp phần bé nhỏ vào quá trình học tập, nghiên cứu
lịch sử thế giới hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề quan hệ Nga- Trung Quốc- khu vực Trung Á trong những năm
gần đây đã và đang thu hót sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu thế giới.
Sự phục hồi của Nga sau một thời kỳ khủng hoảng, sự trỗi dậy khổng lồ của
Trung Quốc cũng như sự phức tạp trong quan hệ quốc tế ở Trung Á là đề tài
của không Ýt cuộc hội thảo, nhiều tác giả lưu tâm, tìm hiểu.
Maridon Juareno, Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI được
NXB Chính trị Quốc gia dịch năm 1996 khái quát về trật tự thế giới sau
Chiến tranh Lạnh, chiến lược ngoại giao nước lớn của Nga và Trung Quốc.
Tác giả đề cập “nước Nga phải đối mặt với bản thân nó” và Trung Quốc
“một chiến lược ngăn chặn”. Qua đó, người đọc thấy được sự hình thành và
cơ sơ của mối quan hệ quốc tế trong thế kỷ mới.
Tác phẩm Nước Nga mười năm sóng gió của nhiều tác giả, xuất bản tại
Moskva, 2001, được NXB Chính trị Quốc gia biên dịch 2002 cho chóng ta
cái nhìn tổng thế về nước Nga suốt chặng đường khủng hoảng 1991- 1999.
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Mặt khác, các tác giả cũng nêu bật chính sách đối ngoại của Nga thời gian
này và sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao sáng suốt, kịp thời của Chính phủ
Matxcơva.
Lý Cảnh Long cho ra đời tác phẩm Putin từ Trung tá KGB đến Tổng
thống Liên bang Nga được NXB Lao động dịch năm 2001 khái quát cơ bản
chính sách đối nội, đối ngoại của Nga dưới thời Tổng thống V.Putin.
Vadim Makarenco viết tác phẩm Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI
được NXB Công an Nhân dân dịch năm 2002 giới thiệu cho ban đọc việc lùa
chọn đồng minh của Nga trong thế kỷ XXI. Trong đó, Nga đặc biệt ưu tiên
củng cố mối quan hệ đồng minh vốn có với các nước Trung Á, Trung Quốc
và phân tích những lợi Ých mà Nga có được từ những mối quan hệ này.
Thẩm Ký Như viết tác phẩm Trung Quốc không thể trở thành “Mister
No”, NXB Trung Quốc ngày nay, được NXB Thông tấn biên dịch và giới
thiệu năm 1999 đã đề cập tổng thể chiến lược quốc tế của Trung Quốc trong
và sau chiến tranh Lạnh. Trong đó, nhấn mạnh đến quan hệ đối tác chiến lược
của Trung Quốc thời kỳ mới
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc tháng 2 năm 1998 cho đăng bài
Trung Quốc, Nga, mối quan hệ đối tác chiến lược hướng tới thế XXI của tác
giả Hải Linh đã đưa ra nguyên nhân, động lực kết nối Nga- Trung Quốc gần
nhau hơn.
Nổi bật hơn cả trong những năm gần đây là các nguồn tài liệu của
TTXVN luôn quan tâm đến quan hệ Nga- Trung Quốc, quan hệ Trung QuốcTrung Á và Nga- Trung Á. Thông qua các nguồn tài liệu tin cậy, quan trọng,
xác thực này mối quan hệ Nga- Trung Quốc- Trung Á được phản ánh, đề cập
vừa khái quát, sinh động vừa cụ thể. Các tài liệu tham khảo đặc biệt ra hàng
ngày, hàng tháng, Tin tham khảo Chủ nhật, Các vấn đề quốc tế, Tài liệu phục
vụ nghiên cứu, Tin trong nước, Tin thế giới... đã nêu ra những sự kiện rõ
ràng, cập nhật nhất về bước đi, động thái, thành tựu trong quan hệ này. Đặc
trưng của loại tài liệu này là đi sâu vào những sự kiện thường nhật, thời sự
“nóng hổi” nhất về chính sách đối nội, đối ngoại, tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội của Nga, Trung Quốc và các quốc gia Trung Á. Từ đây, người đọc sẽ
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn thành tựu, thách thức cũng như triển vọng quan
hệ này trong tương lai.
Các Tạp chí nghiên cứu chuyên ngành như Tạp chí Nghiên cứu Quốc
tế, Ngiên cứu Trung Quốc, Nghiên cứu Châu Âu, Báo Tiền phong, Nhân
dân... cũng có một số bài nghiên cứu về vấn đề xoay quanh quan hệ NgaTrung Quốc- Trung Á. Các tác giả dành nhiều công sức đề cập, tìm hiểu
chính sách đối ngoại của các nước trong bối cảnh mới, đến chính sách của
Nga và Trung Quốc ở khu vực Trung Á.
Nhìn chung, sù quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với đề tài Quan
hệ Nga, Trung Quốc và Trung Á trong điều kiện hiện nay đã khá toàn diện,
đầy đủ. Nhưng trước diễn biến của bối cảnh quốc tế đang hàng ngày, hàng
giê thay đổi, quan hệ ba trục này luôn có những biến động, thăng trầm khó
lường. Hơn thế, dưới góc độ lịch sử hoàn thiện, sâu sắc, quan hệ đối tác NgaTrung Quốc- Trung Á còn chưa nhiều, chưa khái quát. Vì vậy, những công
trình đề cập trên đây, cùng nhiều bài viết, tác phẩm, khóa luận tốt nghiệp,
Luận văn Thạc sỹ mà không có điều kiện liệt kê hết là nguồn tài liệu quý giá
cho chúng tôi tham khảo để hoàn thành tốt khóa luận này.
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài.
Trên cơ sơ phân tích, làm rõ những tác động của hoàn cảnh thế giới và
trong nước của Nga, Trung Quốc, Trung Á, đề tài tập trung vào những vấn đề
sau.
Thứ nhất, tìm hiểu mối quan hệ giữa Nga- Trung Quốc- Trung Á trong
thời kỳ Chiến tranh Lạnh để thấy được những bước thăng trầm, thành tựu đạt
được trong quan hệ đó. Từ đó, so sánh và làm nền tảng cho quan hệ đối tác
giai đoạn sau.
Thứ hai, thấy được tầm quan trọng của mỗi nước trong trục quan hệ, từ
đó đưa ra những cơ sở, điều kiện cấu thành quan hệ đó.
Thứ ba, đề tài bước đầu tìm hiểu một số kết quả đạt được trong quan
hệ Nga- Trung Quốc- Trung Á. Qua đó, tìm hiểu xu hướng vận động, thuận
lợi, khó khăn và suy nghĩ về triển vọng hợp tác trong tương lai.
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
4. Phương pháp nghiên cứu.
Về phương pháp luận, khóa luận lấy, vận dụng quan điểm, đường lối
đối ngoại và các vấn đề quốc tế của Đảng, Nhà nước làm nền tảng nghiên
cứu đề tài. Từ đó, sử dụng phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử quán
triệt trong suốt quá trình thực hiện.
Đây là đề tài lịch sử, vì vậy, chúng tôi dùng phương pháp nghiên cứu
bộ môn để sưu tầm, chọn lọc và xử lý các nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu.
Trên quan điểm lịch sử, người viết phản ánh một cách đầy đủ, chính xác về
nội dung đề tài đặt ra. Đồng thời kết hợp với phương pháp tổng hợp, thống
kê, phân tích để đánh giá, rót ra kết luận một cách toàn diện.
5. Giới hạn đề tài.
Đề tài Quan hệ Nga- Trung Quốc- khu vực Trung Á sau chiến tranh
Lạnh (1992- 2007) là vấn đề mang tính thời sự, các sự kiện vẫn đang tiếp
diễn, thay đổi.
Đề tài lấy mốc thời gian từ năm 1992 đến nay vì sau khi Liên Xô tan rã
(25/12/1991), Liên bang Nga phát triển theo mét con đường mới, con đường
phát triển của Tây Âu. Từ đó đến nay, Nga đã vươn lên khẳng định địa vị
siêu cường của mình. Cùng với sự phát triển không ngừng đó, Nga từng bước
chú trọng quan hệ với Trung Quốc, khu vực Trung Á, củng cố và gây ảnh
hưởng của mình ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Trong khi đó, cả
Trung Quốc, Trung Á đều có tiềm năng lớn để phát trển trong tương lai. Cả
Nga và Trung Quốc đều muốn hạn chế ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Trung
Á này. Vì vậy, họ càng xích lại gần nhau hơn, nhất là có một tổ chức đỡ đầu,
tập hợp: Tổ chức hợp tác Thượng Hải (gọi tắt là SCO)
6. Đóng góp của đề tài
Khóa luận nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện mối quan hệ NgaTrung Quốc-Trung Á từ sau chiến tranh Lạnh đến nay (1992- 2007) trong
lòng quan hệ quốc tế. Từ đó, làm rõ quy luật phát triển của quan hệ quốc tế,
tác động đến khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Người đọc có thể nhận thấy
cái nhìn khá sinh động, đầy đủ từ mối quan hệ chiến lược hậu chiến tranh
lạnh và rót ra kinh nghiệm cho chính mình.
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Bước đầu bổ sung thêm nguồn tư liệu cho nghiên cứu, giảng dạy cho
các học phần lịch sử thế giới hiện đại cũng như tìm hiểu quan hệ quốc tế
đương đại.
7. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi lùa chọn và sử dụng nguồn tài liệu
sau:
Tài liệu tổng hợp: Sách chuyên khảo về lịch sử thế giới, lịch sử quan
hệ quốc tế. Các công trình nghiên cứu, báo cáo của các nhà khoa học trong
nước và thế giới.
Các tạp chí chuyên khảo: Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, Nghiên cứu
quốc tế, Nghiên cứu Trung Quốc... Các Tuần báo quốc tế, báo Nhân dân,
Tiền phong, Thanh niên, Pháp luật...
Các bản tin phục vụ nghiên cứu và tài liệu tham khảo hàng ngày, tham
khảo đặc biệt
Một số luận án Thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp
Trang web điện tử trên mạng Internet.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận này gồm 2 chương.
Chương 1: Khái quát quan hệ Nga- Trung Quốc- Trung Á trong thời
kỳ chiến tranh Lạnh
Chương 2: Quan hệ Nga- Trung Quốc- Trung Á sau chiến tranh Lạnh
(1992- 2007)
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT QUAN HỆ NGA- TRUNG QUỐC- TRUNG Á
TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH
1.1 Tình hình Liên bang Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa
và các nước Cộng hòa Trung Á
1.1.1 Nước Nga
Là nước có vị trí địa- chính trị hết sức đặc biệt trên bản đồ thế giới,
Liên bang Nga là quốc gia duy nhất có lãnh thổ trải dài trên cả hai khu lục địa
Âu- Á. Với lãnh thổ rộng lớn là 17,1 triệu km 2 lớn gấp 1,6 lần diện tích toàn
châu Âu, 1,8 lần lãnh thổ Mỹ, Liên bang Nga có 3/4 diện tích ở châu Á, có
nhiều lợi Ých gắn bó với châu lục này, tiếp giáp với Thái Bình Dương. Là
một quốc gia lớn nhất thế giới, Nga có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển đất
nước [9; 10].
Ngoài ra, Liên bang Nga còn được thiên nhiên ưu đãi với nguồn tài
nguyên thiên nhiên vô cùng phong phó bao gồm dầu mỏ, khí đốt, than đá, sắt,
các loại kim loại quý như vàng, kim cương, đồng, kim loại màu... là thế mạnh
giúp Nga có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế.
Không chỉ có tài nguyên lớn, trên một lãnh thổ khổng lồ, Nga còn là
một quốc gia đông dân trên thế giới với số dân 144,1 triệu người (đứng thứ
sáu thế giới) [9; 10]. Đây là nơi tập trung hàng trăm dân téc khác nhau, hàng
chục tôn giáo, lối sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán, kinh tế, chính trị, văn
hóa đa dạng. Thế mạnh này giúp Nga có một thị trường lao động dồi dào, với
nhiều kỹ sư, giáo sư có trình độ kỹ thuật cao.
Là quốc gia kế thừa chủ yếu những gì Xô viết để lại, Liên bang Nga
càng có thêm cơ sở để hoạt động đối nội, đối ngoại thuận tiện. Với 70% lãnh
thổ, 51% dân số, 70% ngoại thương, 60% công nghiệp, 90% dầu khí, 70%
quân sự và 80% kho vũ khí hạt nhân, sản phẩm kế thừa từ Liên Xô giúp Nga
có ngay những tiền đề thuận lợi. Vì vậy, trong một thời gian ngắn, cùng với
thành tựu đạt được của việc khắc phục khủng hoảng, hình ảnh của một nước
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Nga mới cũng chính thức ra đời từ đây. Những đối sách trong nước cộng với
đường lối ngaọi giao đa phương hóa, đa dạng hóa trở thành chủ đề chính của
nước Nga bước vào thế kỷ mới.
1.1.2 Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa
Trung Quốc
giáp
Việt
Nam,
Nga,
Udơbêkixtan,
Cadắctan,
Tatginixtan... Biên giới chung với 14 quốc gia.
Thủ đô Bắc Kinh (Beijing)
Diện tích: 9571300 km2, dân số 1.280.975.000 người (không kể Đài
Loan, Hồng Kông, Ma Cao) (Năm 2002)
Dân téc: 56 dân téc người, người Hán chiếm 91.9%, Choang, Duy Ngô
Nhĩ, người Hồi, người Yê, Tây Tạng, Mãn Châu, Mông Cổ, Duy a, Triều
Tiên...
Trung Quốc đứng thứ ba thế giới về diện tích (sau Nga và Canada) và đứng
đầu dân số. Đất nước rộng lớn này giàu có về tài nguyên thiên nhiên và nhiên
liệu, chúng chưa được khai thác hiệu quả. Dầu mỏ (trữ lượng 2.4 tỷ thùng).
Năm 2002: khai thác 3,4 triệu thùng/ngày. Ngoài ra, còn khí đốt, quặng sắt,
bôxít, thiếc, tiềm năng thủy điện dồi dào (sản xuất điện năng đạt 1160 tỷ
kWh). Vì vậy, trong thời gian không xa, Trung Quốc cùng với những tiềm
năng hiện có sẽ phát triển không ngừng.
1.1.3 Các nước Cộng hòa Trung Á từ sau năm 1991
Khu vực Trung Á bao gồm 5 nước Cộng hòa: Tuốcmênixtan, Tatginixtan,
Cưrơgưxtan, Udơbêkixtan, Cadắctan. Quá khứ, nơi đây được coi là “sân sau”
của Liên Xô, hiện là nơi chứa đựng nhiều bất ổn nhất thế giới.
Cưrơgưxtan: Tiếp giáp với Cadắctan, Trung Quốc, Tatginixtan,
Udơbêkixtan
Thủ đô: Bikêt.
Diện tích 190.000 km2, dân số 4.770.000 người
Các téc người sinh sống: Người Kiệcghi, người Nga, người Udơbêch,
người Ucraina.
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Nước Cộng hòa này tuy không có nguồn dự trữ nguyên liệu hùng hậu như
các nước láng giềng, nhưng có hai lĩnh vực tiềm năng lớn trong phát triển
kinh tế là khai thác vàng và khai thác điện năng.
* Cadắctan: Giáp Nga, Cưrơgưxtan, Udơbêkixtan, biển Caxpi, Trung Quốc,
Tuốcmênixtan, biển Aran.
Thủ đô Astana
Diện tích 2.724.000km2. Dân số 17.360.000 người.
Có nhiều téc người sinh sống: người Nga, người Cadắc và người Ucraina.
Là nước thuộc khu vực biển Caxpi, Cadắctan có trữ lượng tài nguyên
khổng lồ. Mức tối đa khai thác dầu thời Xô viết là 26,5 triệu tấn/ năm. Dự
tính đầu thế kỷ XXI đạt 100 triệu tấn, còn 2010 đến 2015 lên tới 170 triệu
tấn/năm. Trong đó hơn 100 triệu tấn dành cho xuất khẩu. Không chỉ giàu có
bởi riêng dầu mỏ, Cadắctan còn được thiên nhiên ưu đãi phong phú về
khoáng sản. Ngoài các kim loại đen, kim loại màu, nước này còn có đến 25%
trữ lượng uran của thế giới, được đánh giá vào khoảng 3,5 triệu tấn. Hiện
Cadắctan là một trong những nước xuất khẩu uran lớn nhất thế giới (gần
3000 tấn/ năm). Trên lãnh thổ Cadắctan còn có các nhà máy lớn nhất thế giới
sản xuất gần 85% nhiên liệu cho các nhà máy điện nguyên tử. Đó là nhà máy
cơ khí Ulbinisk sản xuất nhiên liệu cho các nhà máy điện nguyên tử của Liên
Xô cũ và các nước Đông Âu trước đây [23; 376].
Hơn thế, đây còn là nước cộng hòa có cơ sở hạ tầng tương đối lớn ở Trung
Á, đặc biệt là đường ống dẫn dầu. Vì vậy, quốc gia này được coi là “hạt
nhân” của Liên Xô trước đây, cũng là nước có vai trò quan trọng ở khu vực.
Tatginixtan: Giáp Cưrơgưxtan, Apganixtan, Udơbêkixtan, Trung Quốc
Thủ đô: Dusanbe
Diện tích: 143.000 km2, dân số là 6.155.000 người.
Các dân téc đang sinh sống: người Nga, người Tadich, người Udơbếch...
Quốc gia này có nhiều tiềm năng lớn về thủy điện, dầu mỏ, than nâu. Đặc
biệt nhất, Tatginixtan có trữ lượng urani giàu nhất thế giới.
Udơbêkixtan: Giáp Cadắctan, Cưrơgưxtan, Tatginixtan, Apganixtan,
Tuốcmênixtan, biển Aran, Trung Quốc
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Thủ đô: Tasken, dân số: 24.755.519 người
Đây là quốc gia đông dân nhất khu vực, tương đối giàu có về dầu mỏ và
khí đốt. Nếu năm 1992, Udơbêkixtan còn phải nhập của Nga gần 5 triệu tấn
sản phẩm dầu mỏ thì 5 năm qua từ 1995- 2000 đã trở thành một trong sè Ýt
nước tự túc được về năng lượng. Năm 1997, nước này đã xuất khẩu 2 triệu
tấn sản phẩm dầu mỏ. Công nghiệp hóa dầu cũng phát triển nhanh. Công suất
2,5 triệu tấn ở thành phố Bukharan, nhà máy lọc dầu ở Phergana năm 1997
được sửa chữa đã nâng công suất lên đến 12 triệu tấn. Udơbêkixtan còn nhận
đảm bảo toàn bộ nhu cầu về khí đốt cho Tatginixtan (gần 1 tỷ m3)
Quốc gia này được coi là nước có điều kiện thuận lợi nhất trong khu vực,
thu hót tổng vốn đầu tư nước ngoài đến hơn 6 tỷ USD [23; 377].
Tuốcmênixtan: Giáp Cadắctan, Udơbêkixtan, Apganixtan, Iran, biển
Caxpi.
Thủ đô: Asơkhabat
Thñ ®«: As¬khabat
Diện tích: 448.100 km2, 90% diện tích là sa mạc. Dân số là 4518000
người.
Có các dân téc người chính: Người Tuốcmen, người Nga, người
Udơbêdi...
Quốc gia này có trữ lượng khí thiên nhiên đứng thứ 5 thế giới, trữ
lượng dầu mỏ cũng chiếm vị trí đáng kể.
Nhìn chung các nước Cộng hòa khu vực Trung Á đều là quốc gia giàu
về tài nguyên thiên nhiên, đa dạng về văn hóa, sắc téc. Đây là lợi thế to lớn
trong quá trình giao lưu, hội nhập với thế giới. Nhất là trong xu thế toàn cầu
hóa, khu vực hóa như hiện nay.
1.2. Khái quát về quan hệ Liên Xô, Trung Á và Trung Quốc trong
thời kỳ chiến tranh Lạnh.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai (1939- 1945) cùng với tiềm lực và ưu thế
to lớn về kinh tế, chính trị, mỹ ra sức củng cố vị thế của mình, vươn lên năm
lấy vai trò lãnh đạo hệ thống tư bản chủ nghĩa, mở rộng phạm vi ảnh hưởng
của mình ra nhiều khu vực, trở thành đối trọng với Liên Xô- đứng đầu hệ
thống xã hội chủ nghĩa. Mỹ đã xúc tiến thành lập các liên minh chính trị-
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
quân sự song phương và đa phương như liên minh Mỹ- Nhật (1951), khối
SEATO (1954), khối Batđa (1955 đổi là CENTO). Ngoài ra, phía Hoa Kỳ
còn cho xây dựng hàng loạt các căn cứ quân sự, rải quân, trang bị vũ khí ra
khắp thế giới, nâng cao ảnh hưởng và vị trí của Mỹ trên trường quốc tế.
Là nước đi đầu trong chiến tranh thế giới thứ hai, hậu thuẫn đắc lực, người
“anh cả” tài ba của phe xã hội chủ nghĩa, Liên Xô một mặt củng cố vị trí, ảnh
hưởng của mình tại khu vực các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, mặt khác,
thực thi chính sách đối ngoại mở cửa, quan hệ giao lưu với nước ngoài.
Châu Á- nơi 3/4 lãnh thổ của Liên Xô nhanh chóng trở thành mục tiêu
hàng đầu của nước này. Việc tăng cường giúp đỡ và ủng hộ to lớn về kinh tế,
chính trị, quân sự cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập, ổn định của nhân
dân châu Á là hoạt động thường xuyên, hiệu quả của Matxcơva. Do đó, vị thế
và vai trò của Liên Xô ở châu Á ngày càng được mở rộng và tăng cường.
Là nước lớn nhất châu Á, cùng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà
Liên Xô đã chọn lùa, Trung Quốc có nhiều lợi Ých tương đồng với quốc gia
này. Điều này dễ hiểu vì sao ngay trong thời kỳ chiến tranh Lạnh- cuộc chiến
tranh hao người tốn của hơn bất cứ cuộc chiến tranh nào- quan hệ Xô- Trung
vẫn thắm đượm tình hữu nghị. Khi mà hai cực Xô- Mỹ luôn căng thẳng, đối
đầu thì quan hệ Liên Xô- Trung Quốc lại trở nên tốt đẹp, hòa dịu.
Trung Quốc có đường biên giới với Liên Xô dài 8000 km, do đó Bắc Kinh
chiếm vị trí hàng đầu trong chính sách đối ngoại hướng châu Á của Liên Xô.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, chính Liên Xô đã giúp đỡ to lớn cả
vật chất, tinh thần cho phong trào cách mạng của Trung Quốc dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc. Nhất là giai đoạn Trung Quốc đấu tranh
giải phóng dân téc, Liên Xô đã không ngần ngại ủng hộ lực lượng quân đội,
trang bị vũ khí cho các căn cứ Đông Bắc Trung Quốc củng cố tiềm lực của
mình. [7; 19]
Ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời tuyên bố đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi to lớn mà nhân dân Trung Quốc
đạt được này có một phần không nhỏ công lao của người anh cả Liên Xô.
Ngay sau khi tuyên bố thành lập, Liên Xô đã công nhận chính phủ Cộng hòa
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Trung Hoa, thiết lập quan hệ ngoại giao thân thiện giữa hai nước chính thức
tháng 1/1950.
Không lâu sau, ngày 14/2/1950, tại Matxcơva, Liên Xô và Trung Quốc đã
ký “Hiệp ước hữu nghị, liên minh và tương trợ” có hiệu lực trong 30 năm.
Nội dung chính nhằm chống nguy cơ phục hồi chủ nghĩa đế quốc ở Nhật
Bản, tập trung trong 6 điều khoản. Một số điều khoản quan trọng:
Điều 1: Hai bên thi hành mọi biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn tái diễn
xâm lược và vi phạm hòa bình từ phía Nhật hoặc bất cứ nước nào khác có thể
hợp tác với Nhật, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp trong các hành động xâm
lược. Trong trường hợp một bên bị tấn công bởi Nhật hay bất kỳ nước nào
khác liên minh với Nhật thì bên kia lập tức giúp đỡ về quân sự và bằng mọi
biện pháp có thể.
Điều 2: Mỗi bên sẽ không tham gia vào liên minh nào để chống bên kia và
cũng không tham gia vào bất cứ liên hiệp nào, không có một hành động hay
biện pháp nào chống lại bên kia.
Điều 5: Hai bên sẽ củng cố các quan hệ kinh tế và văn hóa với nhau, giúp
đỡ kinh tế và tiến hành hợp tác kinh tế với nhau khi cần thiết.
Thực hiện đúng các điều khoản đã ký kết trên, trong 10 năm (1950- 1959),
Liên Xô đã cung cấp vốn và công nghệ giúp Trung Quốc khôi phục, mở rộng,
xây dựng mới trên 400 cơ sở công nghiệp và nhiều hạng mục công trình
khác. Liên Xô đã đưa sang giúp Trung Quốc hơn 11.000 chuyên gia ở các
lĩnh vực như: khoa học, kỹ thuật, đào tạo đại học, y tế, văn hóa, hơn 3000
chuyên gia và 11.000 sinh viên Trung Quốc được gửi sang đào tạo ở Liên
Xô.
Liên Xô còn cho Trung Quốc vay những khoản tín dụng trị giá 300 triệu
USD với lãi suất 1%/năm để nước này thanh toán những thứ mà Liên Xô
cung cấp cho Trung Quốc như thiết bị máy móc, nhà máy phát điện, nhà máy
luyện kim, chế tạo cơ khí, thiết bị hầm mỏ để sản xuất than, quặng sắt, thiết
bị xe lửa, vận tải... Đổi lại, Trung Quốc thanh toán cho Liên Xô bằng nguyên
liệu, chè, vàng, đô la Mỹ. [25; 5-6]
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Cùng với việc tăng cường các hoạt động hợp tác về kinh tế, hiệp ước XôTrung năm 1950 còn khẳng định liên minh Xô- Trung trong lĩnh vực an ninh,
chính trị và củng cố quốc phòng. Hai nước sẽ cùng phối hợp hành động nếu
một trong hai bị tấn công. Mặt khác, phía Matxcơva còn cam kết sẽ tiếp tục
đấu tranh giành quyền hợp pháp của Trung Quốc tại Liên Hợp quốc.
Để củng cố thêm một bước hợp tác an ninh- quân sự, Liên Xô đã chủ
động cử một đoàn không quân sang giúp Trung Quốc bảo vệ vùng trời của
nước này. Năm 1952, khi cuộc chiến tranh Triều Tiên đang bước vào giai
đoạn căng thẳng, Liên Xô lại tiếp tục giúp Trung Quốc để Trung Quốc giúp
Bắc Triều Tiên tiến hành chiến tranh.
Rõ ràng, những sự giúp đỡ, những mối giao lưu của hai chính phủ XôTrung được bắt đầu ngay trong thời kỳ chiến tranh Lạnh và ngày càng được
hai nước bồi đắp, nuôi dưỡng.
Năm 1952, Liên Xô đã chuyển giao cho Trung Quốc tuyến đường sắt
Trường Xuân, hải cảng Lữ Thuận và Đại Liên, ký hiệp định kinh tế cung cấp
thêm cho Trung Quốc khoản tín dụng 520 triệu Rúp với lãi suất ưu đãi. Cùng
với việc làm này, Liên bang Xô viết còn trao thêm cho doanh nghiệp Trung
Quốc cổ phần mà mình có được trong các công ty liên doanh Trung- Xô, giúp
Trung Quốc xây dựng thêm 15 xí nghiệp công nghiệp. Một tín hiệu đặc biệt
quan trọng trong lịch sử Trung Quốc là được sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung
Quốc đã nghiên cứu và cho xây dựng lò phản ứng hạt nhân đầu tiên vào năm
1955 [26; tr 13-14]
Nhân dịp kỷ niệm 3 năm ngày hai nước ký hiệp ước, Tổng thống S.Taline
đã gửi một bức điện sang Trung Quốc chúc mừng mối quan hệ láng giềng,
hữu nghị tốt đẹp giữa hai chính phủ thời gian qua. Đáp lại, chủ tịch Trung
Quốc Mao Trạch Đông đã bày tỏ “lòng biết ơn sâu sắc” đối với “sự giúp đỡ
thực sự vô tư của chính phủ và nhân dân Liên Xô” đối với Trung Quốc [28;
11]. Trong báo cáo kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, phó Thủ tưởng kiêm Chủ
nhiệm ủy ban kế hoạch, Lý Phú Xuân đã nói: “chóng ta phải tập trung cố
gắng của chúng ta vào xây dựng công nghiệp, bao gồm 694 công trình trên
hạng ngạch, trong đó cốt lõi là 156 công trình do Liên Xô thiết kế cho chóng
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
ta và sẽ là nền móng đầu tiên của công cuộc hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội
của Trung Quốc (...), lò hạt nhân và xây dựng công nghiệp cả kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (...). Về 156 công trình này, Liên Xô giúp chúng ta từ đầu
đến cuối của toàn bộ quá trình, từ thăm dò địa chất, lùa chọn đại điểm xây
dựng, thu thập số liệu để thiết kế, cung cấp thiết bị, chỉ đạo xây dựng, lắp đặt
và đưa vào sản xuất chế tạo các sản phẩm mới” [14; 7]
Từ thành tựu trên, nhân dân Trung Quốc cũng như chính phủ Mao Trạch
Đông đã không ngần ngại bày tá: “Các đề án thiết kế của Liên Xô sử dụng
rộng rãi phần lớn những thành tựu kỹ thuật hiện đại nhất, tất cả những thiết
bị do Liên Xô cung cấp cho chóng ta đều thuộc loại tốt nhất và tối tân nhất.
Giai cấp công nhân Liên Xô vĩ đại và chính phủ Liên Xô vĩ đại đang đặt ưu
tiên hàng đầu cung cấp cho chóng ta những thiết bị tốt nhất. Chính phủ và
nhân dân Trung Quốc xin nhiệt liệt cảm ơn sự giúp đỡ to lớn, lâu dài, toàn
diện, và vô tư của Liên Xô. Để củng cố và thúc đẩy công cuộc công nghiệp
hóa đất nước, chúng ta phải củng cố và phát triển hơn nữa liên minh kinh tế
và hợp tác hữu nghị với Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, do đó, thúc
đẩy sự tiến bộ kinh tế chung của phe xã hội chủ nghĩa và tăng cường các lực
lượng hòa bình và dân chủ” [14; 6-7].
Tính đến năm 1959, Liên Xô đã viện trợ cho Trung Quốc 1tỷ 250 nghìn
USD, riêng năm 1958, được sự giúo đỡ của Liên Xô, Trung Quốc đã xây
dựng được 47 xí nghiệp công nghiệp [14; 10].
Những biến chuyển tốt đẹp giữa hai nước đã dẫn đến thông cáo tháng
8/1958 về quan hệ Nhà nước và Đảng giữa Liên Xô và Trung Quốc “đang
ngày càng phát triển tốt đẹp và trở nên ngày càng vững chắc hơn”. Hai Đảng
sẽ “đấu tranh không khoan nhượng chống lại chủ nghĩa xét lại- mối đe dọa
chủ yếu của phong trào cộng sản” [14; 10- 11]
Quan hệ ngày càng tốt đẹp giữa Liên Xô- Trung Quốc đã tăng thêm sức
mạnh cho hệ thống xã hội chủ nghĩa, trở thành một liên minh chống lại Mỹ
đảm bảo cho nền hòa bình, an ninh thế giới.
Có thể thấy, hai quốc gia, hai dân téc cũng như nhân dân hai nước từ lâu
đã có mối quan hệ hữu nghị, sâu sắc. Liên Xô cũng đánh giá rất cao quan hệ
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
này: “Trong quan hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc, Đảng ta luôn luôn
được chỉ đạo bởi thực tế là tình hữu nghị của hai dân téc vĩ đại, sự gắn bó
giữa hai đảng chúng ta là những đảng lớn nhất trong phong trào cộng sản
quốc tế, có tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của
những mục tiêu chung giữa chúng ta” [14; 12].
Quan hệ Xô- Trung ngày càng bền thắm, hữu hảo thì càng vấp phải sự cản
trở của nhiều thế lực bên ngoài. Đến những năm 60 của thế kỷ XX, giữa hai
nước nổi lên những bất đồng, mâu thuẫn làm cho quan hệ Xô- Trung bắt đầu
có những dấu hiệu rạn nứt. Từ mâu thuẫn trong mục tiêu, tư tưởng, đường lối
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đến vấn đề tranh chấp lãnh thổ
dẫn tới hệ quả xung đột biên giới Xô- Trung cuối năm 1969. Từ đây, quan hệ
Xô- Trung có chiều hướng xấu đi. Những bất đồng khó có thể hòa giải, nhất
là trong việc dẫn dắt, chỉ đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế
giới. Lúc này, Liên Xô rút chuyên gia về nước, còn Trung Quốc tuyên bố hủy
bỏ các công việc theo những dự án, những hợp đồng đã ký kết giữa hai nước.
Ngày 20/11/1965, Trung Quốc đã dùng những lời lẽ gay gắt để trả lời thư
từ phía Liên Xô: “Giữa hai đảng chúng ta không thể hòa hợp được, không
còn điều gì để liên kết” [14; 16]. Căng thẳng hơn, từ đầu tháng 6 đến giữa
tháng 8/ 1969, Trung Quốc đã 488 lần gây xung đột biên giới với Liên Xô.
Nguy hiểm là tháng 2/1972, Trung Quốc đã ký với Mỹ “Thông cáo Thượng
Hải” công khai bắt tay Mỹ để chống lại Liên Xô trong cuộc đua chiến tranh
Lạnh.
Suốt thập niên 70, quan hệ Xô- Trung hầu như không được cải thiện vì
Trung Quốc vẫn tiếp tục chiến lược ngoại giao liên kết với Mỹ, coi mình là
quốc gia siêu cường, “nước lớn”, cùng Mỹ thao túng khu vực châu Á- Thái
Bình Dương. Điều này trực tiếp đe dọa nền hòa bình, an ninh của Liên Xô và
các nước đồng minh.
Đến những năm 80, khi cục diện chiến tranh Lạnh có xu hướng hòa dịu
hơn, sau nhiều lần Liên Xô đề nghị nối lại vòng đàm phán, Trung Quốc và
Liên Xô đã bình thường hoá quan hệ. Tại sao lúc này Liên Xô lại chủ động
hòa giải với Trung Quốc, muốn có được tình hữu nghị truyền thống tốt đẹp
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
của hai quốc gia từ trước? Thời điểm này Liên Xô đang lâm vào khủng hoảng
trầm trọng do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973. Nền
kinh tế trong nước trì trệ, có dấu hiệu suy thoái, uy tín trên trường quốc tế
giảm sút nghiêm trọng... Cùng với mong muốn đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng, giới lãnh đạo Liên Xô buộc phải điều chỉnh chính sách đối
ngoại của mình, trước tiên là với Trung Quốc. Để thực hiện tốt nhiệm này,
Liên Xô đã có những bước đi tích cực đầy thiện chí. Đầu tiên là việc bình
thường hóa quan hệ, không chỉ trong lĩnh vực an ninh- chính trị mà còn cả
trong lĩnh vực kinh tế, đến việc thừa nhận Trung Quốc là nước “xã hội chủ
nghĩa, một cường quốc” [23; 1-15]
Bên cạnh công nhận vai trò ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực châu
Á- Thái Bình Dương cũng như thế giới, Liên Xô còn bày tỏ thái độ hợp tác
thân thiện với Trung Quốc trong những vấn đề quốc tế có liên quan đến hai
nước như: vấn đề hòa bình ở Cămpuchia, ở Apganixtan, ở Triều Tiên...
Ngoài ra, chính phủ Liên Xô cũng nhượng bộ đáng kể trong việc chủ động
rút quân khỏi lãnh thổ Apganixtan trên đất Mông Cổ để dễ dàng đàm phán
với Trung Quốc về tranh chấp biên giới mà không vấp phải cản trở nào.
Như vậy, sau gần hai thập kỷ đối đầu, căng thẳng, Trung Quốc và Liên Xô
dần nối lại quan hệ hữu nghị, dù bước đi này còn rất thận trọng, dè dặt và
những ảnh hưởng từ quá khứ còn chưa nguôi ngoai. Chuyến thăm chính thức
Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Gioocbachốp tháng 5
năm 1989 đã đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình bình thường hóa quan
hệ giữa hai chính phủ. Tại đây, hai nước đã đưa ra khẩu hiệu: “khép lại quá
khứ, hướng tới tương lai” và tuyên bố chung khẳng định “tôn trọng chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không tấn công nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, chung sống hòa
bình” [10;1-5]
Thỏa thuận này được coi là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quan hệ Xô- Trung,
mở đường cho sự hợp tác kinh tế- thương mại giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Mặc dù cuối thập kỷ 80 cả Liên Xô và Trung Quốc đều phải đối phó với
những khó khăn trong nước song quan hệ Xô- Trung tiếp tục được cải thiện
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
đáng kể. Tháng 5 năm 1991, nhận lời mời của chính phủ Liên Xô, Tổng bí
thư Đảng cộng sản Trung Quốc đã sang thăm chính thức nước này. Hai bên
đã cùng nhau ký kết nhiều thỏa thuận quan trọng về hợp tác kinh tế- thương
mại Xô- Trung, về an ninh biên giới, cam kết kiềm chế các hoạt động quân sự
ở khu vực biên giới hạ lưu sông A-mua.
Tóm lại, trong suốt thời kỳ chiến tranh Lạnh, quan hệ Xô- Trung tuy có
lúc hòa dịu, khi căng thẳng song cả hai nước, hai chính phủ đều cùng đồng
lòng, hiệp sức vì mục tiêu chung, hòa bình, ổn định và phát triển lâu dài.
Những bước thăng trầm đó phải chăng là thử thách để tôi luyện thêm tình
đoàn kết, hòa hợp giữa hai quốc gia, làm nền tảng cho mối quan hệ giai đoạn
sau càng bền vững, tốt đẹp, hiệu quả?
Trung Á nằm án ngữ con đường huyết mạch từ Đông sang Tây, được
thành lập từ hàng nghìn năm trước với tên goi nổi tiếng “con đường tơ lụa”.
Bằng con đường “vàng” này mà việc giao lưu thông thương hàng hóa của các
nhà buôn quốc tế từ vùng Mãn Châu (Trung Quốc) tới Ên Độ và khu vực
Tiểu Á diễn ra từ rất sớm, trở nên vô cùng tấp nập từ đầu công nguyên.
Các nước Trung Á càng trở nên quan trọng hơn khi mà cách đây không
lâu người ta thăm dò và ước tính nguồn tài nguyên dự trữ dầu mỏ và khí đốt
phong phú, chỉ đứng sau khu vực Trung Đông được coi là “rốn dầu” của thế
giới. Những thuận lợi này giải thích vì sao Trung Á từ trước tới nay là tiêu
điểm của các vấn đề quốc tế đan xen, chồng chéo nhau, thậm chí đối lập
nhau.
Là quốc gia có hệ thống đường biên giới dài tiếp giáp với các nước
Trung Á, Trung Quốc không thể “làm ngơ” trước một khu vực “nổi tiếng”
vậy. Ngay trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, nhất là từ sau khi nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa thành lập (1/10/1949) Trung Quốc đã đặt quan hệ ngoại
giao với khu vực này.
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Khóa luận tốt nghiệp
Thu
Phan Thị Hoài
Chương 2
QUAN HỆ LIÊN BANG NGA- TRUNG QUỐC- KHU VỰC TRUNG Á
SAU CHIẾN TRANH LẠNH (1992- 2007)
2.1 Những cơ sở của quan hệ hợp tác Nga- Trung Quốc- Trung Á
Thế kỷ XX đã chứng kiến biết bao sự biến động lớn lao của lịch sử làm
thay đổi cục diện thế giới. Cuối những năm 80 cuộc chiến tranh Lạnh chấm
dứt. Cùng với sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta, thế giới bước vào thời kỳ
quá độ của xu thế đa cực hóa. Mặc dù, trong bối cảnh hiện nay, xu hướng
trên được xác định rõ ràng, nhưng thể chế “nhất siêu, đa cường” vẫn tiếp tục
duy trì. Thậm chí, mối quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô chuyển từ đối đầu sang
đối thoại song sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước nhằm tìm kiếm vị trí
quốc tế siêu cường cho mình vẫn tồn tại và đang trên đà phát triển. Mục đích
lớn nhất cũng là tư tưởng xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Mỹ
những năm qua là ra sức ngăn chặn sự trỗi dậy của các quốc gia và tăng
cường ảnh hưởng đến các khu vực trên thế giới nhằm mọi biện pháp duy trì
trật tự thế giới đơn cực. Bằng mọi hình thức, mọi phương tiện hiện có, Mỹ
đang chạm tay tới khắp thế giới.
Ngược lại với Mỹ, những siêu cường khác mà tiêu biểu là Liên minh
châu Âu, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ên Độ... đều hướng tới một thế giới đa
cực, thực hiện chính sách ngoại giao tăng cường hợp tác quốc tế, thực hiện
chủ nghĩa đa phương, phản đối kịch liệt xu thế đơn phương của Mỹ. Chính sự
vân động và trào lưu phát triển đó đã đẩy chủ nghĩa đơn phương mà Mỹ đang
ra sức củng cố đi vào bế tắc, ngõ cụt. Tuy nhiên, Mỹ không dễ dàng từ bỏ
tham vọng và những toan tính của mình. Vì thế, trong lòng thế giới đang tồn
tại âm ỉ mâu thuẫn gay gắt. Những mối quan hệ chồng chéo Êy tác động đến
các nước và các mối quan hệ đa phương, song phương không dễ gì hóa giải.
Đặc biệt là sự chi phối của các nước lớn mà nổi lên quan hệ Trung- Nga.
Trong giai đoạn đầu tiếp quản những cơ sở mà Liên Xô để lại, nền
kinh tế, chính trị, xã hội Nga bị khủng hoảng nghiêm trọng. Nước Nga kế
- Xem thêm -