1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ khách quan và chủ quan là quan hệ bao trùm giữa hiện thực đang được con người nhận thức và cải tạo với bản thân con người – chủ thể của hoạt động đó. Với phát triển năng lực sư phạm của giáo viên, nhận thức và giải quyết đúng đắn quan hệ này có ý nghĩa quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng phát triển nguồn lực giáo viên ở mỗi nhà trường, trong đó có nhà trường quân đội.
Trường Quân sự Quân khu 3 là trung tâm đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cho lực lượng vũ trang Quân khu 3 và bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng – An ninh cho cán bộ chủ chốt của các sở, ban, ngành (gọi là đối tượng 2) các tỉnh, thành phố thuộc địa bàn 9 tỉnh của Quân khu 3, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Quốc phòng – An ninh và xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Hiện nay, nhiệm vụ của Nhà trường tăng, yêu cầu về chất lượng đào tạo ngày càng cao, Nhà trường đang được Bộ Quốc phòng đầu tư xây dựng trở thành 1 trong 6 trường trọng điểm của hệ thống các nhà trường quân đội. Theo đó, việc phát triển nguồn lực đội ngũ nhà giáo, mà trước hết là phát triển năng lực sư phạm của giáo viên luôn là nhiệm vụ trực tiếp, xuyên suốt và có ý nghĩa quyết định đến nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của Nhà trường. Để phát triển năng lực sư phạm của giáo viên, vấn đề cơ bản đặt ra là phải nhận thức và giải quyết đúng quan hệ khách quan và chủ quan trong quá trình phát triển đó, tận dụng được các điều kiện khách quan thuận lợi và phát huy cao nhất vai trò của nhân tố chủ quan để phát triển, hoàn thiện năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay.
Thời gian qua, các chủ thể của quá trình phát triển năng lực sư phạm ở Trường Quân sự Quân khu 3 cơ bản đã có chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, giải quyết đúng đắn quan hệ khách quan và chủ quan trong quá trình phát triển năng lực sư phạm của giáo viên. Tuy nhiên, ở những thời điểm khác nhau, vẫn còn tình trạng các chủ thể chưa quan tâm đúng mức đến việc tạo dựng những điều kiện khách quan thuận lợi, chưa phát huy tốt tính năng động chủ quan của giáo viên trong phát triển năng lực sư phạm. Nhiều giáo viên còn chưa tận dụng được những điều kiện khách quan thuận lợi của Nhà trường để phát triển năng lực sư phạm, còn có những biểu hiện thụ động, trông chờ, ỷ lại. Một trong những nguyên nhân của những yếu kém trên là do sự nhận thức, giải quyết quan hệ khách quan và chủ quan của các chủ thể tham gia vào quá trình phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 còn có những bất cập nhất định.
Hiện nay, những điều kiện khách quan đang có sự biến đổi nhanh chóng, thường xuyên có các tác động đa chiều và phức tạp đến quá trình phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3. Bên cạnh đó, nhân tố chủ quan của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 cũng đang có những biến đổi tương ứng, đòi hỏi các chủ thể của quá trình phát triển phải nhận thức đúng đắn, kịp thời và giải quyết một cách khoa học mối quan hệ trên. Do vậy, nghiên cứu, làm rõ: “Quan hệ khách quan và chủ quan trong phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn cấp bách đặt ra để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục – đào tạo của Nhà trường.
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1
3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ KHÁCH
QUAN VÀ CHỦ QUAN TRONG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN Ở
10
1.1.
TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 3
Quan niệm về năng lực sư phạm và phát triển năng lực
10
1.2.
sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3
Thực chất, đặc điểm quan hệ khách quan và chủ quan
trong phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở
Chương 2
Trường Quân sự quân khu 3
TÌNH HÌNH, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT QUAN HỆ
23
KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN TRONG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN Ở
2.1.
TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 3 HIỆN NAY
Tình hình nhận thức và thực tiễn giải quyết quan hệ khách
42
quan và chủ quan trong phát triển năng lực sư phạm của
2.2.
giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay
Giải pháp cơ bản giải quyết quan hệ khách quan và chủ
42
quan trong phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở
Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
62
81
83
87
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ khách quan và chủ quan là quan hệ bao trùm giữa hiện thực đang
được con người nhận thức và cải tạo với bản thân con người – chủ thể của hoạt
động đó. Với phát triển năng lực sư phạm của giáo viên, nhận thức và giải quyết
đúng đắn quan hệ này có ý nghĩa quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng
phát triển nguồn lực giáo viên ở mỗi nhà trường, trong đó có nhà trường quân đội.
Trường Quân sự Quân khu 3 là trung tâm đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên
môn kỹ thuật cho lực lượng vũ trang Quân khu 3 và bồi dưỡng kiến thức Quốc
phòng – An ninh cho cán bộ chủ chốt của các sở, ban, ngành (gọi là đối tượng 2)
các tỉnh, thành phố thuộc địa bàn 9 tỉnh của Quân khu 3, nhằm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ Quốc phòng – An ninh và xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu theo
hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Hiện nay, nhiệm vụ
của Nhà trường tăng, yêu cầu về chất lượng đào tạo ngày càng cao, Nhà trường
đang được Bộ Quốc phòng đầu tư xây dựng trở thành 1 trong 6 trường trọng điểm
của hệ thống các nhà trường quân đội. Theo đó, việc phát triển nguồn lực đội ngũ
nhà giáo, mà trước hết là phát triển năng lực sư phạm của giáo viên luôn là nhiệm
vụ trực tiếp, xuyên suốt và có ý nghĩa quyết định đến nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo của Nhà trường. Để phát triển năng lực sư phạm của giáo viên, vấn đề cơ
bản đặt ra là phải nhận thức và giải quyết đúng quan hệ khách quan và chủ quan
trong quá trình phát triển đó, tận dụng được các điều kiện khách quan thuận lợi và
phát huy cao nhất vai trò của nhân tố chủ quan để phát triển, hoàn thiện năng lực sư
phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay.
Thời gian qua, các chủ thể của quá trình phát triển năng lực sư phạm ở
Trường Quân sự Quân khu 3 cơ bản đã có chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức,
giải quyết đúng đắn quan hệ khách quan và chủ quan trong quá trình phát triển
năng lực sư phạm của giáo viên. Tuy nhiên, ở những thời điểm khác nhau, vẫn
4
còn tình trạng các chủ thể chưa quan tâm đúng mức đến việc tạo dựng những điều
kiện khách quan thuận lợi, chưa phát huy tốt tính năng động chủ quan của giáo
viên trong phát triển năng lực sư phạm. Nhiều giáo viên còn chưa tận dụng được
những điều kiện khách quan thuận lợi của Nhà trường để phát triển năng lực sư
phạm, còn có những biểu hiện thụ động, trông chờ, ỷ lại. Một trong những nguyên
nhân của những yếu kém trên là do sự nhận thức, giải quyết quan hệ khách quan
và chủ quan của các chủ thể tham gia vào quá trình phát triển năng lực sư phạm
của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 còn có những bất cập nhất định.
Hiện nay, những điều kiện khách quan đang có sự biến đổi nhanh chóng,
thường xuyên có các tác động đa chiều và phức tạp đến quá trình phát triển năng
lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3. Bên cạnh đó, nhân tố
chủ quan của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 cũng đang có những biến
đổi tương ứng, đòi hỏi các chủ thể của quá trình phát triển phải nhận thức đúng
đắn, kịp thời và giải quyết một cách khoa học mối quan hệ trên. Do vậy,
nghiên cứu, làm rõ: “Quan hệ khách quan và chủ quan trong phát triển năng
lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay” là vấn đề có
ý nghĩa lý luận, thực tiễn cấp bách đặt ra để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên và chất lượng giáo dục – đào tạo của Nhà trường.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Lý luận khách quan và chủ quan cũng như vận dụng mối quan hệ đó vào giải
quyết quan hệ khách quan và chủ quan trong những lĩnh vực cụ thể của đời sống xã
hội, hoạt động quân sự là vấn đề đã được nhiều tác giả đề cập tới. Tuy nhiên, tùy từng
góc độ tiếp cận khác nhau mà khách quan, chủ quan, mối quan hệ khách quan và chủ
quan được tập trung khai thác, lý giải và vận dụng ở những mức độ khác nhau.
* Liên quan đến phương pháp luận trong hoạt động quân sự có công
trình khoa học của các tác giả: Nguyễn Tính – Phùng Lộc, “Những vấn đề
phương pháp luận của lý luận và thực tiễn quân sự” (sách dịch Liên Xô) [39];
Đinh Tích Quân (chủ biên) “Một số vấn đề về phương pháp quân sự” [35].
5
Các công trình này dựa trên cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật và
chủ nghĩa duy vật lịch sử để luận giải một số vấn đề phương pháp luận quân sự
Việt Nam. Theo đó, đã làm rõ khách quan: là một phạm trù triết học, dùng để chỉ
tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào chủ thể, là cái mà
chủ thể phải tính đến, sử dụng vào hoạt động của mình. Nội dung khách quan bao
gồm quy luật khách quan, điều kiện khách quan và khả năng khách quan. Chủ
quan: là một phạm trù triết học chỉ tất cả những gì tồn tại bên trong chủ thể, thuộc
về chủ thể hoặc được chủ thể sử dụng như một bộ phận hữu cơ của mình trong
hoạt động để đạt được mục đích. Những nhân tố cấu thành chủ quan bao gồm tri
thức, tình cảm, ý chí, năng lực tổ chức hành động của chủ thể. Làm rõ vai trò quan
trọng của khách quan và chủ quan trong sự phát triển lý luận và hoạt động thực
tiễn quân sự, đưa ra khái niệm khách quan trong hoạt động quân sự, chủ quan
trong hoạt động quân sự, từ đó làm rõ mối quan hệ khách quan – chủ quan đối với
người chỉ huy quân sự được biểu hiện trong chiến đấu, trong huấn luyện và trong
xây dựng, quản lý đơn vị.
Các tác giả cũng đã luận giải giá trị của việc nhận thức bản chất của khách
quan và chủ quan đối với cán bộ quân sự khi đi vào giải quyết quan hệ khách quan
– chủ quan trong hoạt động quân sự, nhấn mạnh đến việc giúp cho người chỉ huy
quân sự phát huy cao độ tính năng động chủ quan, khắc phục khó khăn và trở ngại
khách quan, đồng thời biết xuất phát từ thực tế khách quan đề ra chủ trương hành
động đúng đắn, tránh được bệnh chủ quan, duy ý chí.
* Liên quan đến quan hệ khách quan và chủ quan trong những lĩnh
vực cụ thể của hoạt động quân sự có công trình khoa học của các tác giả: Lê
Văn Quang, “Mối quan hệ khách quan và chủ quan trong sự hình thành năng
lực sư phạm quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam” [34]; Vũ Quang Xá,
“Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong nâng cao
năng lực công tác đảng, công tác chính trị của cán bộ chính trị phân đội hiện
nay” [46]; Phạm Văn Nhuận, “Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan trong phát triển bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân
6
Việt Nam hiện nay” [32]; Ngô Xuân Cát, “Quan hệ giữa khách quan và chủ quan
trong phát triển nhân cách của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu binh
chủng hợp thành cấp trung đoàn, sư đoàn ở Học viện Lục quân hiện nay” [2].
Các công trình trên luận giải sự thống nhất biện chứng giữa khách quan
và chủ quan theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, làm rõ khách quan,
chủ quan trong quá trình hình thành và phát triển của một lĩnh vực nghiên cứu
cụ thể, mà ở đây là trong hình thành năng lực sư phạm quân sự của học viên
đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu binh chủng hợp thành cấp trung đoàn, sư
đoàn ở Học viện Lục quân; năng lực công tác đảng – công tác chính trị của
cán bộ chính trị phân đội; bản chất giai cấp công nhân và nhân cách người cán
bộ, học viên trong quân đội. Cũng trên cơ sở lý luận về sự thống nhất biện
chứng giữa khách quan và chủ quan, các tác giả có cách tiếp cận mới về cặp
phạm trù điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Theo đó, điều kiện khách
quan được quan niệm: là tổng thể các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tồn tại
bên ngoài chủ thể, độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực,
thường xuyên tác động, quy định mỗi hoạt động có mục đích xác định của
chủ thể. Còn nhân tố chủ quan, được quan niệm: là tất cả những yếu tố, đặc
trưng hợp thành phẩm chất và năng lực nhận thức của chủ thể được huy động
vào những hoạt động cụ thể cụ thể dưới sự chi phối, thúc đẩy của nguồn gốc –
động lực nội tại, tạo nên tính năng động, sáng tạo trong quá trình cải biến điều
kiện khách quan, thực hiện mục tiêu xác định do chủ thể đặt ra. Từ các quan
niệm đó, các tác giả đi vào nghiên cứu quan hệ giữa khách quan và chủ quan,
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động tự giác của các chủ
thể. Làm rõ vai trò to lớn của khách quan, điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan, sự chuyển hóa giữa chúng trong: hình thành năng lực sư phạm quân
sự, năng lực công tác đảng – công tác chính trị của cán bộ chính trị phân đội,
bản chất giai cấp công nhân và nhân cách người cán bộ, học viên trong quân
đội. Từ đó, làm căn cứ để đề xuất một số giải pháp cơ bản ở những lĩnh vực
và phạm vi cụ thể mà mỗi đề tài bàn đến.
7
* Liên quan đến nhân tố chủ quan và phát huy vai trò của nhân tố chủ
quan có công trình của các tác giả: Lương Việt Hải,“Nhân tố chủ quan trong cơ
chế vận dụng và trong hoạt động của các quy luật xã hội” [16]; Hồ Văn Thông,
“Một số vấn đề nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong thực tiễn [37]; Đinh
Xuân Khuê, Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo
dục và đào tạo ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay [20]; Nguyễn Văn Kiều,
Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam trong hoạt động hậu cần quân đội hiện nay [21].
Kết quả nghiên cứu của các công trình đã làm rõ vị trí, vai trò của nhân tố
chủ quan trong hoạt động thực tiễn; trong vận dụng quy luật xã hội; trong giáo dục
và đào tạo ở Trường sĩ quan Lục quân 2 và trong hoạt động hậu cần quân đội. Từ
đó, đặt ra đòi hỏi con người phải nhận thức đầy đủ và vận dụng có hiệu quả các
vấn đề có liên quan để phát huy tốt tính năng động chủ quan của các chủ thể. Chỉ
ra, các chủ thể tham gia vào mỗi hoạt động ở mức độ khác nhau, nhưng không
được thủ tiêu khách quan, tính khách quan của quy luật xã hội; của quá trình giáo
dục – đào tạo và trong hoạt động hậu cần quân đội. Chỉ ra sự tác động trở lại của
nhân tố chủ quan tới khách quan, điều kiện khách quan, các quy luật xã hội thông
qua việc con người nhận thức và cải biến những điều kiện khách quan theo những
phạm vi xác định.
Như vậy, những công trình và bài viết nêu trên đã đề cập và khai thác nhiều
góc độ khác nhau, trong đó đã nghiên cứu, luận giải các vấn đề có liên quan đến
khách quan, chủ quan và điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan, mối quan hệ
giữa chúng, từ đó vận dụng vào giải quyết quan hệ khách quan và chủ quan
trong từng phạm vi xác định. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách cơ bản, hệ thống về quan hệ khách quan và chủ quan trong phát triển năng
lực sư phạm của giáo viên nhà trường quân đội nói chung, ở Trường Quân sự
Quân khu 3 nói riêng. Do đó, tác giả lựa chọn và tập trung làm rõ vấn đề này
dưới góc độ triết học để luận giải quan hệ khách quan và chủ quan trong phát
triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay.
8
Đồng thời, đánh giá đúng tình hình nhận thức và thực tiễn giải quyết quan hệ đó
của các chủ thể, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết quan hệ
khách quan và chủ quan trong phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở
Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp cơ bản giải quyết quan hệ khách quan và chủ quan trong quá trình phát
triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận chứng, làm rõ thực chất, đặc điểm quan hệ khách quan và chủ quan trong
phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3.
Phân tích, đánh giá đúng tình hình nhận thức và thực tiễn giải quyết quan
hệ khách quan và chủ quan trong phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở
Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản giải quyết quan hệ khách quan và chủ
quan trong phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân
khu 3 hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề quan hệ khách quan và
chủ quan trong phát triển năng lực sư phạm của giáo viên.
* Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề được giới hạn nghiên cứu ở giáo viên của Trường Quân sự Quân
khu 3, số liệu nghiên cứu, khảo sát từ năm 2007 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ khách quan và chủ quan, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
9
đội ngũ cán bộ, giáo viên. Các nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương,
Tổng cục Chính trị liên quan đến công tác giáo dục và đào tạo. Tác giả có kế
thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài
nghiên cứu của các nhà khoa học.
* Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn hoạt động sư phạm của đội ngũ giáo
viên ở Trường Quân sự Quân khu 3, cùng các báo cáo liên quan đến công tác giáo
dục và đào tạo của Nhà trường; Nghị quyết lãnh đạo của Thường vụ Đảng ủy Nhà
trường; các số liệu điều tra xã hội học của tác giả đối với giáo viên, lãnh đạo, chỉ
huy các cấp và học viên của Nhà trường.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trực tiếp là phương pháp luận
trong giải quyết mối quan hệ khách quan và chủ quan. Ngoài ra, luận văn
còn sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên
ngành và khoa học chuyên nghành: phương pháp điều tra, khảo sát xã hội
học; thống kê và so sánh; lịch sử và lôgíc; phương pháp phân tích và tổng
hợp; tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; phương pháp chuyên gia; phương
pháp giáo dục học đại học, giáo dục học quân sự...
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý
luận và thực tiễn về quan hệ khách quan và chủ quan trong phát triển năng lực sư
phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 hiện nay. Trên cơ sở đó nâng
cao chất lượng nguồn lực giáo viên ở Nhà trường.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong các
trường quân sự quân khu – quân đoàn và các học viện, nhà trường trong quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận và kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN
TRONG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN
Ở TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 3
1.1. Quan niệm về năng lực sư phạm và phát triển năng lực sư phạm
của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3
1.1.1. Quan niệm về năng lực sư phạm
Khái niệm năng lực đã được nhiều chuyên ngành khoa học tiếp cận dưới
những góc độ khác nhau. Tâm lý học quan niệm, năng lực là “tập hợp các tính
chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo
thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định” [4, tr. 160]. Xã
hội học, năng lực được hiểu là tài năng; tài năng này kết hợp với phẩm chất đạo
đức tạo nên tài và đức của con người. Dưới góc độ triết học, có nhiều quan niệm
cho rằng, “năng lực là tổng hoà các yếu tố vật chất và tinh thần tạo cho con
người khả năng nhận thức và hành động trong cải biến hoàn cảnh sống của
mình” [18, tr. 19]. Đó là “tổng hợp các yếu tố chủ quan của chủ thể đáp ứng yêu
cầu hoạt động nào đó, bảo đảm cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao” [38, tr. 21].
Tiếp cận trên cho thấy, đã có nhiều quan niệm khác nhau về năng lực.
Tâm lý học nhấn mạnh vai trò của các phẩm chất tâm lý trong năng lực; xã
hội học nghiên cứu năng lực với tính cách là bộ phận của năng lực cá nhân
trong xã hội; còn triết học đã xem xét năng lực từ khía cạnh bản chất của nó
trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần,
nhấn mạnh yếu tố chủ quan trong mối quan hệ biện chứng với cái khách
quan. Song, tựu chung các quan niệm đều thống nhất năng lực là “khả năng,
điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”
[5, tr. 1172], luôn gắn với con người và hoạt động của con người; là sản phẩm
của nhận thức và hoạt động thực tiễn; là sự thống nhất hữu cơ các yếu tố chủ
quan của chủ thể; là khả năng của con người, cộng đồng người trong hoạt
động; là điều kiện bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả cao.
11
Từ các quan niệm khác nhau đó, có thể quan niệm: năng lực là tổng
hoà các yếu tố hợp thành khả năng và điều kiện bên trong để chủ thể sử dụng mang
lại hiệu quả cao trong hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn của mình.
Về thực chất, năng lực là khả năng của con người đối với hoạt động nhất
định, khả năng hiểu biết và thực hiện một hoạt động nào đó. Năng lực của con
người tồn tại ở yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần, ở sức mạnh đã có và sức mạnh
tiềm năng. Mỗi yếu tố có vị trí, vai trò trong việc tạo nên khả năng và điều kiện
nội tại căn bản để chủ thể hoạt động đạt được hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên,
tư chất, vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Tư chất, là các yếu tố về điều kiện sức khoẻ; về năng khiếu, tố chất mang
tính bẩm sinh, gắn với những thuộc tính về giọng nói, trí nhớ, khả năng diễn đạt,
tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách của cá nhân. Để có năng lực đối với hoạt động
nào đó, nếu chủ thể có tư chất phù hợp với hoạt động thì khi được đào tạo, khả
năng sẵn có của họ sẽ có điều kiện phát triển tốt, giúp họ nhanh chóng hình thành
được năng lực đáp ứng với yêu cầu của hoạt động. A.G.Côvaliov đã khẳng định:
"Tư chất là cơ sở tự nhiên đầu tiên của năng lực, chúng còn chưa phát triển nhưng
sẽ bộc lộ ra trong những thử thách đầu tiên của hoạt động" [3, tr. 97]. Còn theo
B.G.Ananhiev: “Tố chất trở thành năng lực thực sự chỉ được thể hiện trong chính
hoạt động và thông qua hoạt động” [dẫn theo 42, tr. 31]. Các luận điểm trên cho
thấy, không có sự đối lập tư chất với năng lực, mà tư chất là cơ sở tự nhiên, là tiền
đề vật chất, sinh học của sự phát triển năng lực.
Vốn tri thức là những hiểu biết, kết quả phản ánh tích cực, sáng tạo hiện
thực khách quan thông qua hoạt động của chủ thể nhận thức; là sự lĩnh hội
những kinh nghiệm loài người tích luỹ được trong quá trình lao động sản
xuất, đấu tranh cách mạng và hoạt động tư duy. Trong cấu trúc năng lực, vốn
tri thức chiếm vị trí nền tảng, là cơ sở hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Vốn tri thức
của mỗi người không phải là đơn nhất, bất biến, mà mang tính phức hợp và
thường xuyên biến đổi. Hệ thống tri thức bao gồm: những lý thuyết, học thuyết
12
khoa học, khái niệm, phạm trù, quy luật, quy tắc; những tri thức phản ánh
những đối tượng, sự vật, hiện tượng, quá trình hoạt động đang diễn ra trong
thực tiễn cuộc sống, những tri thức thực hành...
Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nhất định trên cơ
sở tri thức có được. Kỹ xảo là khả năng thực hiện một cách tự động hoá một
thao tác hay một công việc nhất định, nó thể hiện sự thành thạo trong hoạt động
của con người. Kỹ năng được lặp đi, lặp lại nhiều lần trở thành hoạt động tự
động hoá – kỹ xảo. Vì vậy, có thể nói kỹ năng, kỹ xảo là tri thức và sự thuần
thục trong hoạt động, nó là thành phần rất quan trọng của năng lực. Hay nói
cách khác, năng lực được thể hiện ở kỹ năng, kỹ xảo. Mỗi một lĩnh vực hoạt
động cụ thể, đòi hỏi phải có kỹ năng, kỹ xảo hành động phù hợp.
Các yếu tố cấu thành năng lực tồn tại trong một thể thống nhất, biện
chứng. Mỗi yếu tố có một vị trí, vai trò riêng, nếu thiếu một trong các yếu tố
ấy đều ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực của con người. Đồng thời, tuỳ thuộc
vào yêu cầu đòi hỏi của từng lĩnh vực hoạt động cụ thể mà vai trò của các yếu
tố đó khác nhau. Nhưng cho dù ở lĩnh vực nào, yếu tố tri thức luôn giữ vai trò
quyết định đến sự hình thành và phát triển của năng lực. Trong lĩnh vực quân
sự, do tính chất đặc thù của nó, nên bên cạnh tính quyết định rất cao của yếu
tố tri thức, các yếu tố về kỹ năng, kỹ xảo hoạt động, thì yếu tố tư chất cũng
trở nên đặc biệt quan trọng.
Cấu thành năng lực vừa có yếu tố thuộc về cái vốn có, bẩm sinh, tiềm ẩn
bên trong chủ thể, vừa có các yếu tố là sản phẩm của quá trình nghiên cứu, học
tập, rèn luyện tích cực của từng chủ thể, giúp cho chủ thể đạt kết quả cao ở từng
lĩnh vực nhất định. B.M.Chieplôv viết: “Vấn đề không chỉ ở chỗ năng lực được
biểu hiện trong hoạt động, mà còn ở chỗ nó được hình thành trong hoạt động đó”
[dẫn theo 42, tr. 24]. Cái vốn có, bẩm sinh về năng lực (tư chất) của con người có
thể do sự đột biến gien mà thành. Nhưng lưu ý, dù cái vốn có, cái bẩm sinh phát
triển tốt đến đâu cũng chỉ là cơ sở, là điều kiện thuận lợi để năng lực phát triển.
Nếu không được tiếp tục trau dồi về tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, không
13
tích cực tham gia vào hoạt động thực tiễn thì không thể phát triển năng lực được.
Vì lẽ đó, A.G.Côvaliov khẳng định: “Dạy học và giáo dục có vai trò đặc biệt
trong sự phát triển năng lực” [3, tr. 112].
Do luôn gắn với chủ thể, với hoạt động nhất định nên năng lực có tính
phong phú, muôn vẻ. Xã hội càng phát triển thì năng lực của con người trong
xã hội càng có tính chuyên biệt cao, gắn với chuyên môn, nghiệp vụ, chức
trách, nhiệm vụ của mỗi người, trong mỗi lĩnh vực hoạt động xã hội. Mỗi con
người, ngoài năng lực chung còn có các năng lực riêng: năng lực hoạt động
chính trị; năng lực lãnh đạo – chỉ huy; năng lực quản lý; năng lực nghiên cứu
khoa học; năng lực hoạt động nghệ thuật; năng lực sư phạm...
Năng lực sư phạm là một loại năng lực chuyên biệt – năng lực nghề
nghiệp, phản ánh sự tương thích giữa những yếu tố chủ quan của chủ thể
với những yêu cầu do nghề nghiệp sư phạm đặt ra, được thể hiện trong xu
hướng, tài nghệ và phong cách sư phạm của người giáo viên. Năng lực sư
phạm là khả năng, sự vững vàng và chuyên sâu về kiến thức chuyên môn;
sự linh hoạt, nhạy bén trong ứng xử các tình huống sư phạm với tư cách là
chủ thể dạy học và giáo dục, có năng khiếu về sư phạm, phong cách mẫu
mực và mô phạm cao.
Năng lực sư phạm bị quy định bởi nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố
chủ quan của chủ thể, nhưng trình độ tri thức và sự trải nghiệm thực tiễn
nghề nghiệp sư phạm là quan trọng nhất, có vai trò chi phối các yếu tố khác.
Một trong những đặc điểm làm cho năng lực sư phạm không giống với các
loại năng lực khác là sự thâm nhập lẫn nhau giữa năng lực với phẩm chất.
Nói đến năng lực sư phạm đã hàm chứa trong đó phẩm chất chính trị, nhân
cách, đạo đức, văn hóa. Các phẩm chất đó thẩm thấu vào quan điểm, hành vi
và tự nó có sức thuyết phục, hỗ trợ cho các kỹ năng hoạt động nghề nghiệp,
tạo thành năng lực nhà sư phạm. Những nhà sư phạm giỏi, tài năng luôn là
những người có thái độ chính trị đúng đắn, nhân cách trong sạch và đạo đức
phù hợp với chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội.
14
Với tiếp cận trên, có thể quan niệm: Năng lực sư phạm là tổng hoà các
yếu tố tư chất, vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất nhân cách, đạo đức
hợp thành phẩm chất nghề nghiệp sư phạm, được giáo viên huy động vào
hoạt động giảng dạy nhằm đạt được hiệu quả cao.
1.1.2. Năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3
Đứng chân trên địa bàn thị xã Chí Linh (tỉnh Hải Dương), Trường Quân
sự Quân khu 3 có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo cán bộ, nhân viên
chuyên môn kỹ thuật và bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng – An ninh đối
tượng 2 cho cán bộ các tỉnh (thành phố) thuộc địa bàn 9 tỉnh của Quân khu.
Được thành lập ngày 10 tháng 4 năm 1946, là một trong những trường ra đời
sớm của Quân đội ta. Tổ chức, biên chế của Nhà trường gồm: Ban Giám hiệu,
4 phòng, 6 khoa và 5 tiểu đoàn.
Trải qua 66 năm, Nhà trường đã đào tạo được hàng vạn cán bộ và nhân
viên chuyên môn kỹ thuật cho lực lượng vũ trang quân khu, quân đội. Nhà
trường được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý.
Ngày 17 tháng 3 năm 2005, Nhà trường được Nhà nước phong tặng danh hiệu
cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” trong thời kỳ chống Mỹ cứu
nước, tô thắm thêm truyền thống “Đoàn kết, nghiêm túc, tự lực tự cường,
khắc phục khó khăn, dạy tốt, học tốt”.
Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của Nhà trường có đóng góp to lớn của
đội ngũ giáo viên. Thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo, đồng thời thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà trường thành trường trọng
điểm của Quân đội, một trong những vấn đề quan trọng của Nhà trường là không
ngừng phát triển nguồn lực con người. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến phát triển
nguồn lực đội ngũ giáo viên, “nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa” [9, tr. 77] với trọng tâm là phát triển năng lực sư
phạm – yếu tố có vai trò quyết định đến hiệu quả lao động sư phạm của giáo viên.
Giáo viên Trường Quân sự Quân khu 3 là những sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng, cơ bản đã có trình độ đại học,
15
được đào tạo giáo viên hoặc đã được dự lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm ở các trường trong và ngoài quân đội; là những cán bộ, sĩ quan có năng
khiếu sư phạm được lựa chọn từ các đơn vị trong và ngoài Quân khu. Họ có
nhiệm vụ trực tiếp huấn luyện, giảng dạy (sau đây gọi chung là giảng dạy) các
môn thuộc lĩnh vực khoa học quân sự và khoa học xã hội nhân văn. Đặc điểm
cơ bản của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 3: có sự đan xem giữa giáo
viên giàu kinh nghiệm, đã qua thực tiễn chiến đấu, thực tiễn lãnh đạo chỉ huy
đơn vị với giáo viên trẻ, kinh nghiệm thực tiễn còn ít. Có sự không đồng đều
về trình độ đào tạo và đa dạng về tâm lý lứa tuổi. Giáo viên không chỉ đảm
nhiệm giảng dạy các nội dung theo đúng chuyên ngành, mà còn thường xuyên
phải kiêm nhiệm giảng dạy các nội dung khác nhau, của các chuyên ngành khác
nhau. Giáo viên Nhà trường có tính biến động cao, thường xuyên có sự luân
chuyển vị trí theo yêu cầu nhiệm vụ giáo dục – đào tạo ở từng giai đoạn nhất
định của Nhà trường. Đồng thời, đặc điểm đối tượng giảng dạy của giáo viên hết
sức đa dạng, có trình độ nhận thức, thực tiễn trải nghiệm xã hội và quân đội khác
nhau, phân tán trên nhiều địa điểm đóng quân của Nhà trường và địa bàn Quân
khu. Ngoài ra, giáo viên Trường Quân sự Quân khu 3 còn có đặc điểm là trưởng
thành và phát triển ở nhiều đơn vị khác nhau, đại đa số được xuất thân từ nhiều
vùng quê, song chủ yếu có xuất thân từ các địa phương trên địa bàn của Quân
khu 3, có văn hóa đa dạng, phong phú, có truyền thống hiếu học. Địa bàn sinh
sống và công tác của giáo viên Nhà trường có sự đan xen giữa các dân tộc, tôn
giáo và tín ngưỡng khác nhau. Điều này dẫn đến sự đan xen về tâm lý, tình cảm,
phong cách, lối sống, suy nghĩ và hành động trong giáo viên ở Nhà trường.
Bàn đến năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu
3, nghĩa là nói đến năng lực nghề nghiệp chuyên biệt trong thực hiện nhiệm
vụ giảng dạy của giáo viên đối với các đối tượng khác nhau theo mục tiêu yêu
cầu giáo dục – đào tạo của Nhà trường ở từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Theo đó, có thể quan niệm: năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân
16
sự Quân khu 3 là tổng hòa các yếu tố về tư chất, vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
và phẩm chất nhân cách của nhà sư phạm, hợp thành khả năng, điều kiện bên
trong bảo đảm cho hoạt động sư phạm của người giáo viên đạt hiệu quả cao,
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của Nhà trường.
Cấu trúc năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu
3 bao gồm các yếu tố cơ bản: tư chất, vốn tri thức, kỹ năng và kỹ xảo, phẩm
chất nhân cách, tính mô phạm.
Tư chất của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 3 là những yếu tố thuộc
về sức khỏe, trí nhớ, khả năng diễn đạt, giọng nói, tính cách cá nhân... phù hợp
với hoạt động sư phạm. Những yếu tố đó của giáo viên ở Nhà trường được yêu
cầu cao. Bởi vì, hoạt động giảng dạy của giáo viên Nhà trường là hoạt động có
cường độ lớn với nhiều nội dung: chính trị, quân sự, hậu cần, kĩ thuật... Hoạt
động của họ không chỉ diễn ra trên giảng đường mà còn diễn ra trên thao trường,
bãi tập với địa hình phức tạp như đồi, núi, rừng, sông; không chỉ diễn ra trong
điều kiện ban ngày mà còn cả ban đêm, trong điều kiện thời tiết khí hậu hết sức
phức tạp và khắc nghiệt của miền Bắc. Nếu giáo viên không có sức khoẻ tốt,
không có tố chất thông minh, nhanh nhạy, linh hoạt thì không thể đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ. Chỉ khi nào họ có một cơ thể khoẻ mạnh, có sức chịu đựng,
sự bền bỉ, dẻo dai; có bộ óc tỉnh táo, thông minh, sáng tạo, họ mới có thể hoàn
thành nhiệm vụ giảng dạy, mọi khả năng của họ mới được phát huy, năng lực
sư phạm mới có điều kiện thuận lợi để phát triển.
Vốn tri thức của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 là tất cả những
hiểu biết của người giáo viên đã được tích lũy trong quá trình học tập, nghiên
cứu khoa học ở các học viện, nhà trường trước đó và được củng cố, bổ sung,
phát triển trong thực tiễn hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở đơn vị
và trong Nhà trường. Vốn tri thức đó bao gồm: tri thức khoa học cơ bản, tri
thức khoa học cơ sở, tri thức khoa học chuyên ngành và các tri thức khoa học
sư phạm chung như tâm lý học quân sự, giáo dục học quân sự, phương pháp
huấn luyện – giáo dục, tổ chức huấn luyện – giáo dục và thực tiễn quân sự, đặc
17
biệt là sự trải nghiệm trong hoạt động sư phạm của họ. Những tri thức tự nhiên,
xã hội, đặc biệt là tri thức chính trị, quân sự mà giáo viên tích luỹ được vừa là
cơ sở, điều kiện, vừa là công cụ cho hoạt động giảng dạy hiện tại. Bởi vì, nó
định hướng chính trị, động cơ, thái độ, trách nhiệm và quy mô trình độ, khả
năng, phương pháp truyền thụ của giáo viên. V.I.Lênin viết: “ Người ta chỉ có
thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết
tất cả kho tàng tri thức nhân loại đã tạo ra” [23, tr. 362].
Kỹ năng, kỹ xảo của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 là các kỹ
năng, kỹ xảo sư phạm: kỹ năng thiết kế chương trình, nội dung giảng dạy; kỹ
năng tổ chức hoạt động thực tiễn giảng dạy; kỹ năng truyền đạt kiến thức và
trau dồi kỹ xảo cho học viên; kỹ năng giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ, kỹ năng
nắm bắt trình độ, tâm lý học viên... Những kỹ năng đó được lặp đi, lặp lại, trở nên
thành thục, có tính chính xác cao nhưng ít phải huy động đến ý thức của chủ thể –
nghĩa là kỹ năng đã thành kỹ xảo. Để có thể giảng dạy các đối tượng ở Nhà
trường, mỗi giáo viên phải nắm vững định hướng chính trị, thành thạo các kỹ
năng, kỹ xảo trong giảng dạy các môn khoa học xã hội, khoa học quân sự, hậu
cần, kĩ thuật, đặc biệt là kỹ năng, kỹ xảo của các môn kỹ thuật, chiến thuật, điều
lệnh, thể lực. Bên cạnh đó, họ phải có kỹ năng truyền đạt kiến thức và trau dồi kỹ
xảo cho học viên, đó là khả năng của người giáo viên trong trang bị cho học viên
những kiến thức chính trị và quân sự, giữ vững sự gắn bó chặt chẽ giữa những
kiến thức ấy với các hoạt động thực tiễn. Khi lên lớp, họ truyền đạt kiến thức cho
học viên quyền bằng cách trình bày vấn đề súc tích, có trình tự và hấp dẫn, phù
hợp với trình độ, đặc điểm tư duy của từng đối tượng học viên. Đồng thời, họ phải
có kỹ năng tìm hiểu học viên, phát hiện và giải quyết đúng đắn, linh hoạt những
vấn đề thực tiễn mới nảy sinh trong hoạt động giảng dạy.
Năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường quân sự Quân khu 3 không
giống với các loại năng lực khác ở chỗ, có sự thâm nhập lẫn nhau giữa năng
lực với phẩm chất nhân cách nhà giáo. Khi tiến hành các hoạt động giảng dạy,
giáo viên không chỉ cần nắm vững tri thức chuyên môn, thành thạo về kỹ
năng giảng dạy mà cần phải là người có phẩm chất nhân cách, đạo đức và
18
tính mô phạm cao. Chính những yếu tố này góp phần tạo ra uy tín, vị thế của
giáo viên, giúp cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao.
Như vậy, năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 3 là
tổng hoà những thuộc tính tự nhiên và giá trị xã hội của cá nhân, đáp ứng yêu cầu
hoạt động giảng dạy các đối tượng ở Nhà trường. Năng lực đó được biểu hiện ở
mức độ vững vàng và chuyên sâu về kiến thức, sự thành thục kỹ năng, kỹ xảo
giảng dạy; tính mô phạm trong phẩm chất nhân cách của giáo viên; sự hứng thú,
say mê trong hoạt động sư phạm của giáo viên.
Nguồn tuyển chọn giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 không khác
nhiều so với các trường quân sự quân khu trong quân đội. Bên cạnh số nhiều
giáo viên đã được đào tạo cơ bản, đã qua đào tạo giáo viên, thì vẫn còn một số
không nhỏ giáo viên chưa qua đào tạo cơ bản, chưa được đào tạo giáo viên,
nhiều giáo viên mới chỉ qua những lớp tập huấn nghiệp vụ sư phạm ở những
cấp độ khác nhau. Số giáo viên qua chiến đấu hoặc trải nghiệm thực tiễn cấp
trung, sư đoàn ngày càng ít, giáo viên tuổi đời, tuổi quân và số năm giảng dạy
chưa nhiều đang ngày càng chiếm tỷ lệ đáng kể ở các khoa giáo viên trong
Nhà trường. Trong khi đó, giáo viên nhiều khi phải giảng với cường độ lớn,
kiêm nhiệm nhiều nội dung, đối tượng giảng dạy ngày càng đa dạng, yêu cầu
giáo dục ngày càng cao, đề án đăng ký mở ngành đào tạo trình độ Cao đẳng ở
Nhà trường đang thành hiện thực, công việc xây dựng thành trường trọng điểm
đang được đẩy mạnh, rất cần có đội ngũ giáo viên ngang tầm với những nhiệm
vụ đó. Để có được đội ngũ giáo viên có năng lực sư phạm đáp ứng yêu cầu giảng
dạy các đối tượng hiện có tại Nhà trường, cũng như thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ giáo dục được giao, thì cần phải phát triển năng lực sư phạm của giáo
viên thông qua thực tiễn giảng dạy, qua đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng ở Nhà
trường. Đồng thời, cần có sự nỗ lực học tập, rèn luyện, tích luỹ kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo, đặc biệt là tri thức chuyên ngành và nghiệp vụ sư phạm của giáo
viên. Hồ Chí Minh cho rằng: “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do
tự nhiên mà có, mà phần lớn do công tác, do luyện tập mà có” [28, tr. 280],
nghĩa là phải thông qua quá trình phát triển.
19
1.1.3. Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự
Quân khu 3
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, phát triển là quá trình vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện của sự vật, hiện tượng. Phát triển là một dạng đặc biệt của vận
động, quá trình phát triển sẽ xuất hiện những tính quy định mới cao hơn về chất,
nhờ vậy mà làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật
cùng chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Trong lĩnh vực xã hội, phát
triển vẫn tuân theo quy luật khách quan, nhưng bao giờ cũng thông qua hệ
thống các hoạt động có mục đích của con người nhằm tác động hợp quy luật
vào đối tượng, làm cho đối tượng vận động đi lên đúng hướng. Theo đó, phát
triển năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu 3 là hoạt
động có mục đích và tác động hợp quy luật của các chủ thể nhằm hoàn thiện
các yếu tố cấu thành năng lực sư phạm của người giáo viên, để đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu giáo dục – đào tạo của Nhà trường. Với quan niệm này, phát
triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 nổi lên
một số dấu hiệu đặc trưng cơ bản sau đây:
Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Trường Quân sự Quân
khu 3 luôn là một quá trình có tính mục đích và tính kế hoạch . Bởi vì, quá
trình phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Nhà trường nhằm xây
dựng, hoàn thiện đội ngũ nhà giáo có đủ phẩm chất và năng lực sư phạm
đáp ứng yêu cầu giáo dục – đào tạo ngày càng phát triển của Nhà trường.
Thực chất là làm cho tư chất sư phạm, vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phẩm
chất nhân cách, đạo đức, tính mô phạm của giáo viên phát triển đáp ứng
với yêu cầu giảng dạy của từng đối tượng cụ thể; đồng thời đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục – đào tạo ở Nhà trường.
Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Nhà trường không phải
là hoạt động diễn ra riêng lẻ, mang tính tự phát mà là hoạt động có tổ
chức và được diễn ra theo kế hoạch, theo tiêu chuẩn xây dựng đội ngũ
20
giáo viên trong nhà trường quân đội. Hình thức phát triển năng lực sư
phạm của giáo viên ở Nhà trường hết sức đa dạng và phong phú, có thể
thông qua thực tiễn giảng dạy; qua nhận xét, đánh giá, góp ý chuyên môn;
qua bồi dưỡng giáo viên ở tổ, khoa; qua tổ chức những lớp tập huấn tại
Nhà trường hoặc cử đi tham dự các lớp tập huấn nghiệp vụ sư phạm do
trên tổ chức, đi đào tạo giáo viên, đào tạo Sau đại học...
Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên được diễn ra trong không
gian của Trường Quân sự Quân khu 3, với toàn bộ những đặc trưng, đặc
điểm riêng có của Nhà trường, mà theo đó trở thành điều kiện khách quan
tác động trực tiếp đến quá trình phát triển năng lực sư phạm họ. Đó là
không gian của một Nhà trường với bề dày truyền thống 66 năm xây dựng
và trưởng thành, luôn “Đoàn kết, nghiêm túc, tự lực, tự cường, khắc phục
khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ”; là không gian của một trường quân sự
quân khu luôn “chính quy và mẫu mực”, thường xuyên được Bộ Tư lệnh
Quân khu 3 quan tâm, ưu tiên đầu tư về mọi mặt, đặc biệt là cơ sở vật chất,
trang thiết bị, phương tiện phục vụ nhiệm vụ giảng dạy. Ngoài ra, phát triển
năng lực sư phạm của giáo viên Nhà trường diễn ra trong không gian của
một trường quân sự quân khu với những yêu cầu nhiệm vụ mang tính đặc
thù; diễn ra dưới những tác động đa chiều từ những biến đổi kinh tế – xã
hội địa bàn đóng quân; có môi trường, mục tiêu, đối tượng giáo dục và đào
tạo đa dạng, phong phú; có chất lượng nguồn lực giáo viên và chất lượng
đầu vào của học viên không ngừng tăng... Không gian đó phản ánh đặc
điểm của quá trình phát triển năng lực sư phạm ở Trường Quân sự Quân
khu 3 mang những nét riêng biệt, không giống với phát triển năng lực sư
phạm ở các nhà trường quân đội khác, đặc biệt là các học viện, nhà trường
trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Phát triển năng lực sư phạm đội ngũ giáo viên ở Trường Quân sự
Quân khu 3 gắn với vai trò tích cực, chủ động của các chủ thể tác động và
chủ thể người giáo viên. Chủ thể tác động đến phát triển năng lực sư phạm
21
của giáo viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 là: Đảng ủy, Ban Giám hiệu
Nhà trường, các cơ quan chức năng và cấp ủy, chỉ huy các khoa giáo viên.
Trong đó, chủ thể tác động là Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường và cấp
ủy, chỉ huy các khoa giáo viên có vai trò quyết định đến việc đề ra chủ
trương, biện pháp, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển năng lực
sư phạm của giáo viên. Sự phát triển đó còn là quá trình tự thân, luôn gắn
với vai trò quyết định của chủ thể người giáo viên. Đội ngũ giáo viên vừa
với tư cách là đối tượng được tiếp nhận những tác động của các chủ thể
khác, vừa với tư cách là chủ thể tự phát triển, chuyển hoá những tác động
của các chủ thể khác thành động lực bên trong cho sự phát triển năng lực
sư phạm của mình.
Sự phát triển năng lực sư phạm của giáo viên ở Nhà trường diễn ra một
cách hợp quy luật, từ sự tích lũy dần về lượng các yếu tố cần thiết của năng
lực sư phạm, đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của
năng lực sư phạm. Khi ấy tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và các phẩm chất sư phạm
của giáo viên ở tầm cao hơn, toàn diện và hoàn thiện hơn, giúp cho hoạt động
sư phạm của giáo viên diễn ra có hiệu quả hơn. Ở đây, sự phát triển năng lực
sư phạm của giáo có thể qua tự học, tự nghiên cứu khoa học, đọc tài liệu, soạn
bài, hoặc có thể qua từng tiết giảng, bài giảng, nội dung giảng, đối tượng
giảng cụ thể. Điều này cũng có nghĩa: phát triển năng lực sư phạm của giáo
viên ở Trường Quân sự Quân khu 3 tuân theo con đường biện chứng duy
vật. Đó là quá trình tích lũy dần về lượng, chuyển hóa về chất; quá trình
đấu tranh của các mặt đối lập trong khách quan và chủ quan; quá trình
phủ định biện chứng, lọc bỏ cái không giá trị, không tiến bộ, không tích
cực, không phù hợp với xu thế vận động phát triển của quá trình đào tạo ở
Trường Quân sự Quân khu 3...
Phát triển năng lực sư phạm của giáo viên Trường Quân sự Quân khu
3 mang tính toàn diện, nhưng tập trung vào các yếu tố, các khâu, các bước
- Xem thêm -