Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường ở tỉnh đồng tháp ...

Tài liệu Quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường ở tỉnh đồng tháp

.PDF
193
534
136

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VÕ THỊ TUYẾT HO A Quan hÖ gi÷a ph¸t triÓn kinh tÕ n«ng th«n vµ b¶o vÖ m«i tr­êng ë tØnh ®ång th¸p LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2016 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VÕ THỊ TUYẾT HO A Quan hÖ gi÷a ph¸t triÓn kinh tÕ n«ng th«n vµ b¶o vÖ m«i tr­êng ë tØnh ®ång th¸p LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 62 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM THỊ TÚY HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Võ Thị Tuyết Hoa MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔ NG Q UAN TÌNH HÌNH NGHIÊN C ỨU LIÊN Q UAN ĐẾN Q UAN HỆ G IỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔ NG THÔ N VÀ BẢO VỆ MÔ I TRƯỜ NG 6 1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và tổ chức quốc tế liên quan đến đề tài 6 1.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước có liên quan đến đề tài 10 1.3. Một số nhận xét rút ra từ những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra cho hướng nghiên cứu tiếp theo 25 Chương 2: C Ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ Q UAN H Ệ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG TH Ô N VÀ BẢO VỆ MÔ I TRƯỜ NG 29 2.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường 29 2.2. Thực chất và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường 39 2.3. Một số kinh nghiệm phát triển kinh tế nông thôn gắn với bảo vệ môi trường và bài học cho Đồng Tháp 55 Chương 3: THỰC TRẠNG Q UAN H Ệ GIỮA PH ÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔ N VÀ BẢO VỆ MÔ I TRƯỜ NG Ở TỈNH ĐỒNG TH ÁP G IAI ĐO ẠN 2010 – 2015 66 3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường 66 3.2. Thực trạng quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường ở Đồng Tháp giai đoạn 2010-2015 75 3.3. Những vấn đề đặt ra cần xử lý để giải quyết hài hòa quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường ở tỉnh Đồng Tháp 102 Chương 4: PHƯ Ơ NG HƯỚ NG VÀ GIẢI PHÁP NH ẰM GIẢI Q UYẾT H ÀI H Ò A Q UAN HỆ GIỮA PH ÁT TRIỂN KINH TẾ NÔ NG THÔ N VÀ BẢO VỆ MÔ I TRƯỜ NG Ở TỈNH ĐỒNG THÁP ĐẾN NĂM 2020, TẦM NH ÌN ĐẾN NĂM 2025 109 4.1. Dự báo xu hướng phát triển kinh tế nông thôn và các vấn đề môi trường phát sinh ở tỉnh Đồng Tháp thời gian tới 109 4.2. Phương hướng giải quyết hài hòa quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường ở tỉnh Đồng Tháp 117 4.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết hài hòa quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường ở tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn đến năm 2025 KẾT LUẬN 122 145 DANH MỤC CÁC CÔ NG TRÌNH Đà CÔ NG BỐ CỦA TÁC G IẢ LIÊN Q UAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KH ẢO 148 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BĐKH Biến đổi khí hậu BVMT Bảo vệ môi trường BVTV Bảo vệ thực vật CCN Cụm công nghiệp CĐHĐ Cánh đồng hiện đại CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CTR Chất thải rắn ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long HTX Hợp tác xã KCN Khu công nghiệp KHCN Khoa học công nghệ KTNT Kinh tế nông thôn NN, NT Nông nghiệp, nông thôn NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn TN&MT Tài nguyên và môi trường TNTN Tài nguyên thiên nhiên UBND Ủy ban nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Trang Bảng 3.1: Bảng 3.2: Tình hình sản xuất nông nghiệp Đồng Tháp giai đoạn 2010-2015 76 Tình hình nuôi trồng thủy sản tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2010 – 2015 76 Bảng 3.3: Diễn biến ngành chăn nuôi tỉnh Đồng Tháp giai đoạn Bảng 3.4: Bảng 3.5: 2010 – 2015 Kinh phí sự nghiệp môi trường được phân bổ qua các năm Tình hình sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật 77 83 trên địa bàn tỉnh năm 2014 90 Bảng 3.6: Kết quả phân tích chất lượng nước thải hộ chăn nuôi heo (sau bể biogas) năm 2013 92 Bảng 3.7: Kết quả phân tích chất lượng nước thải ao cá công 94 Bảng 3.8: nghiệp tỉnh Đồng Tháp tháng 11/2013 Kết quả phân tích nước thải từ các làng nghề tháng 10/2014 96 Bảng 3.9: Thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 98 Bảng 4.1: Diện tích ngập theo các kịch bản nước biển dâng không tính đến yếu tố môi trường cực đoan của tỉnh 112 Biểu đồ 3.1: Diện tích và năng suất lúa trên cánh đồng hiện đại (cánh đồng mẫu lớn, cánh đồng liên kết) qua các năm 85 Biểu đồ 3.2: Mức độ cập nhật, theo dõi thông tin liên quan đến BVMT trong phát triển KTNT của các chủ thể sản xuất ở nông Biểu đồ 3.3: thôn Mức độ tham gia hoạt động liên quan đến BVMT trong 103 phát triển KTNT 104 Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ đánh giá về nguyên nhân chế độ xử phạt còn bất cập dẫn đến ô nhiễm môi trường trong phát triển KTNT 107 1 MỞ Đ ẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường luôn có quan hệ mật thiết với nhau. KTNT tác động trực tiếp đến vấn đề BVM T và ngược lại khi môi trường được bảo vệ hay bị ô nhiễm cũng sẽ có tác động trực tiếp đến sự phát triển KTNT. Trong sản xuất nông nghiệp, tình trạng ô nhiễm môi trường, trong ngắn hạn, chúng ta khó có thể đánh giá được cũng như không nhìn thấy được những tác hại của nó. Đồng thời, người nông dân vì lợi ích trước mắt là để gia tăng về sản lượng thì họ sử dụng tuỳ tiện thuốc kích thích sinh trưởng hoặc sử dụng quá mức TNTN,... Về lâu dài, hậu quả là không thể tính toán được do càng ngày môi trường tự nhiên sẽ càng bị nguy hại trầm trọng hơn; hạn hán, lũ lụt, thời tiết thất thường không có khả năng dự báo,... Lúc đó, KTNT mà đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng một cách trực tiếp: năng xuất sẽ giảm, dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi sẽ ngày càng gia tăng, khó đối phó và kiểm soát,… Những hậu quả này, người trực tiếp gánh chịu sẽ cũng là nông dân - những người trực tiếp tham gia sản xuất. Đồng Tháp nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là một trong ba tỉnh của vùng Đồng Tháp Mười có nền nông nghiệp phát triển, là vựa lúa lớn thứ ba của Việt Nam, và trong giai đoạn phát triển vừa qua, KTNT của tỉnh đã có được những sự phát triển đáng kể, tuy nhiên trong quá trình phát triển đó, vấn đề BVM T sinh thái chưa được quan tâm thỏa đáng. Trong nông nghiệp nông thôn, việc sử dụng phân bón và thuốc BVTV đã để lại một lượng dư không nhỏ trong môi trường, do cây trồng không hấp thụ nên đã tác động đến hệ sinh thái nông nghiệp cũng như gây ô nhiễm môi trường và có thể gây đột biến gen đối với một số loại cây trồng. Ngoài ra, lượng chất 2 thải từ hoạt động trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm;… chưa được thu gom, xử lý, xả thẳng ra môi trường cũng gây ô nhiễm đất, nước mặt, nước ngầm và gây mùi khó chịu làm cho hệ sinh thái ở Đồng Tháp biến động và có chiều hướng ngày một xấu đi, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, môi trường sống và sức khỏe của con người; việc phát triển nhanh nuôi thủy sản ở các cồn, bãi ven sông Tiền, sông Hậu và sự tăng trưởng về diện tích lẫn sản lượng trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt làm gia tăng ô nhiễm nước mặt do nước thải từ các ao cá không được xử lý. Trong phát triển công nghiệp nông thôn, do sự phân bố chưa hợp lý ở một số nơi đã tạo nên nhiều điểm nóng về môi trường, điển hình như khu A của KCN Sa Đéc, KCN Trần Quốc Toản,... và việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn thấp, dẫn đến thải ra môi trường một lượng chất thải khá lớn gây ô nhiễm môi trường vì đa phần các công trình xử lý môi trường ở các khu vực này chưa được đầu tư xây dựng hiệu quả; Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề ngày càng gia tăng vì trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu, thủ công, làng nghề phân bố rải rác, thiếu tập trung như làng nghề bột kết hợp với chăn nuôi, làng nghề sản xuất gạch,... Đồng thời, môi trường nông thôn đang bị xuống cấp, tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch còn thấp; việc quản lý, xây dựng và vận hành các bãi chôn lấp rác thải hầu hết chưa tuân thủ các quy định hiện hành dẫn đến ô nhiễm nước, không khí, nước rò rỉ, thẩm thấu gây ô nhiễm môi trường nước mặt, nước ngầm, các loại khí độc hại bốc lên gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Thực tế cho thấy nếu phát triển KTNT mà chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt thì sẽ phát triển không bền vững và còn tác động xấu đến vấn đề BVMT. Khi môi trường không được bảo vệ và bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng đến phát triển KTNT. Vậy, làm thế nào để có thể cân bằng được giữa phát triển KTNT và BVMT? Để đánh giá đúng và giải quyết tốt vấn đề phát triển KTNT và BVMT nhằm phát triển NN, NT bền vững ở địa phương tỉnh Đồng Tháp, đề tài "Quan hệ giữa phát triển kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường ở tỉnh Đồng Tháp" được lựa chọn làm đề tài luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là phân tích, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT; đánh giá hiện trạng quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT ở tỉnh Đồng Tháp. Từ đó, đề xuất các định hướng và giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này, phục vụ cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, phân tích và làm rõ quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT; chỉ rõ các nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này; tìm hiểu kinh nghiệm phát triển KTNT gắn với BVMT ở một số nước và một số địa phương trong nước, từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho Đồng Tháp trong giải quyết mối quan hệ này; Thứ hai, khái quát tình hình phát triển KTNT của tỉnh Đồng Tháp; phân tích thực trạng quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT ở tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2010-2015 và rút ra những vấn đề cần giải quyết trong quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT ở tỉnh Đồng Tháp; Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT ở tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới nhằm phát triển nông thôn một cách bền vững và có hiệu quả trong điều kiện ứng phó với BĐKH và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án tập trung nghiên cứu tác động qua lại giữa phát triển KTNT và BVMT, dựa vào tư liệu thực tiễn ở một tỉnh là Đồng Tháp. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án + Phạm vi về nội dung: Kinh tế nông thôn bao gồm các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp nông thôn và dịch vụ nông thôn. Tuy nhiên, luận án không nghiên cứu toàn diện các lĩnh vực của KTNT mà chỉ lựa chọn những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến BVM T, chủ yếu là lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp 4 nông thôn, cụ thể: về nông nghiệp sẽ nghiên cứu về nông-lâm-ngư nghiệp; về công nghiệp ở nông thôn sẽ tập trung nghiên cứu về công nghiệp chế biến và làng nghề nông thôn. Về BVMT, luận án không nghiên cứu môi trường chung chung mà chủ yếu nghiên cứu BVMT sinh thái. + Phạm vi về không gian: Luận án nghiên cứu quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT và nghiên cứu cụ thể trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. + Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu quan hệ giữa KTNT và BVM T ở tỉnh Đồng Tháp từ năm 2010 đến năm 2015, các giải p háp đưa ra cho thời kỳ đến năm 2025. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kế thừa một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan đến NN, NT, môi trường và BVMT. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: + Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là phương pháp chủ yếu của Kinh tế chính trị được tác giả sử dụng trong luận án ở các phần như: Xác định đối tượng, phạm vi nghiên cứu; chương 1; chương 2; chương 3 để gạt bỏ những vấn đề riêng lẻ, những biểu hiện ngẫu nhiên nhằm tìm ra bản chất của vấn đề nghiên cứu. + Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong việc thu thập, xử lý, phân tích các số liệu thống kê để xem xét các mối quan hệ giữa các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tác động có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Đối với đề tài này, nguồn số liệu thống kê được thu thập chủ yếu từ cơ quan quản lý các cấp của tỉnh như: Cục Thống kê, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Sở Công Thương, Sở TN&M T và một số sở, ngành, huyện và cơ sở. + Phương pháp phân tích - tổng hợp: Từ những số liệu và tài liệu đã được xử lý, luận án sử dụng phương pháp này để phân tích, tổng hợp các kết quả phân tích, các đánh giá riêng lẻ để tìm ra mối quan hệ nhân quả, xu hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu trong tương lai, từ đó đề xuất những giải pháp thích hợp và có hiệu quả. 5 + Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: thông tin được tác giả thu thập bằng cách phát phiếu phỏng vấn dưới dạng bảng hỏi cho nhiều đối tượng từ cán bộ ở các Sở, Ban, Ngành đến các cán bộ ở cơ sở và đặc biệt là các chủ thể sản xuất ở nông thôn nhằm nắm tình hình thực tiễn một cách trực tiếp. Ngoài ra, luận án chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn; phương pháp hệ thống và so sánh. 5. Đóng góp mới của luận án - Về lý luận: + Phân tích và làm rõ hơn những vấn đề về sự cần thiết và thực chất của quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT; + Hệ thống và phân tích những kinh nghiệm về phát triển KTNT gắn với BVMT của một số quốc gia trên thế giới và của một số địa phương trong nước (có điều kiện tự nhiên tương đồng với địa bàn nghiên cứu của luận án), qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho tỉnh Đồng Tháp. - Về thực tiễn: + Phân tích ảnh hưởng qua lại (tích cực và tiêu cực) giữa phát triển KTNT và BVMT ở tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2010-2015; rút ra những vấn đề cần giải quyết trong quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT ở tỉnh Đồng Tháp. + Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT ở tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới nhằm phát triển KTNT của tỉnh Đồng Tháp nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung một cách bền vững. 6. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết. 6 Chương 1 TỔN G QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜ NG 1.1. C ÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA C ÁC TÁC G IẢ NƯỚ C NGO ÀI VÀ TỔ C HỨC Q UỐC TẾ LIÊN Q UAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Những bàn luận về vai trò của nông nghiệp, mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên - Bộ Tư bản của C.Mác và Ph.Ăngghen là một tác phẩm đồ sộ nghiên cứu về kinh tế, trong đó, ở Tập 25 phần II [53], đã đề cập đến vai trò của nông nghiệp trong phần thứ sáu về sự chuyển hóa của lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của sản xuất nông nghiệp là cơ sở của mọi xã hội. "Năng suất lao động nông nghiệp vượt quá nhu cầu cá nhân của người lao động là cơ sở của mọi xã hội" [53, tr.490]. Năng suất lao động nông nghiệp là cái cơ sở tự nhiên không phải chỉ riêng cho lao động thặng dư trong lĩnh vực của bản thân ngành nông nghiệp mà còn là cái cơ sở tự nhiên để biến tất cả các ngành lao động khác thành những ngành độc lập và do đó, là cái cơ sở tự nhiên cho giá trị thặng dư được tạo ra trong các ngành đó. Bất cứ giá trị thặng dư nào cũng thế, cả tương đối lẫn tuyệt đối, đều dựa vào một năng suất lao động nhất định nào đó. Năng suất lao động ấy, mức năng suất ấy được dùng làm điểm xuất phát phải có trước hết là trong lao động nông nghiệp [53, tr.490-491]. Đồng thời, ở Tập 23, trong chương XXIV của phần thứ bảy về quá trình tích lũy ban đầu, khi nghiên cứu về ảnh hưởng ngược lại của cuộc cách mạng nông nghiệp đối với công nghiệp, C.Mác cũng khẳng định trong nông nghiệp, mặc dù số người cày cấy ruộng đất có giảm đi, ruộng đất vẫn mang lại số sản phẩm như trước hay nhiều hơn trước vì sự cải tiến các phương pháp canh tác, sự hiệp tác rộng lớn hơn, sự tích tụ các tư liệu sản xuất và công nhân làm thuê trong nông nghiệp phải làm việc căng thẳng hơn [52, tr.1036]. - Trong tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844", C.Mác cho rằng: "Con người trực tiếp là thực thể tự nhiên… với tư cách là thực thể tự nhiên, 7 hơn nữa lại là thực thể tự nhiên sống" [50, tr.233] và "con người không chỉ là thực thể tự nhiên, nó là thực thể tự nhiên có tính chất người, nghĩa là thực thể tồn tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài" [50, tr.234]. Đặc biệt, giới tự nhiên - cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại [50, tr.135]. Qua đó có thể thấy, C.Mác đã đề cập đến mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên, con người sống và tồn tại phải dựa vào tự nhiên, môi trường. Vì thế, con người không thể tách khỏi giới tự nhiên. C.Mác còn chỉ rõ, đời sống của con người không những được duy trì nhờ vào giới tự nhiên mà giới tự nhiên còn là nguồn gốc của đời sống con người. Do đó, mọi tác động lên giới tự nhiên - môi trường đều có nghĩa là tác động đến thân thể con người. Con người làm tổn hại giới tự nhiên nghĩa là làm tổn hại chính bản thân mình [50, tr.180]. - Tác phẩm "Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người" của Ph.Ăngghen [51, tr.641-658], đã cho chúng ta thấy quan điểm của ông về quan hệ giữa lao động sản xuất và môi trường tự nhiên. Với một tác phẩm nhỏ nhưng đã để lại cho chúng ta những bài học rất lớn và có ý nghĩa thiết thực. Trong tác phẩm, Ph.Ăngghen gọi môi trường tự nhiên là giới tự nhiên và nhấn mạnh đến vai trò của giới tự nhiên đối với con người. Để tiến hành lao động, con người không thể không nhờ đến môi trường tự nhiên. "Lao động bắt đầu cùng với việc chế tạo ra công cụ" [51, tr.648]. Công cụ đầu tiên là những công cụ săn bắt, đánh cá đến những công cụ hiện đại sau này cũng từ giới tự nhiên. Từ đó, con người ngày càng thống trị giới tự nhiên và "bắt giới tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình" [51, tr.654]. Ông cho rằng việc cải tạo tự nhiên để phục vụ con người là một tiến bộ xã hội nhưng nếu không theo quy luật thì sẽ bị tự nhiên trả thù, gây những tác dụng phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên. Có thể thấy, con người là một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên sản sinh ra được và con người cũng tác động trở lại tự nhiên, cải biến tự nhiên. Trong giới tự nhiên, không có cái gì xảy ra một cách đơn độc, hiện tượng này tác động đến hiện tượng khác và ngược lại. Ông cho rằng, chúng ta cũng không nên quá tự hào về những 8 thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta. Mỗi một thắng lợi, trước hết là đem lại cho chúng ta những kết quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhưng đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thì nó lại gây ra những tác dụng hoàn toàn khác hẳn, không lường trước được, những tác dụng thường hay phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên đó… Vì thế, không thể thống trị giới tự nhiên như kẻ xâm lược mà phải nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng những quy luật đó một cách chính xác. Ph.Ăngghen cũng khẳng định, chúng ta cần quan tâm cả lợi ích gần và hậu quả xã hội, những hậu quả tự nhiên xa xôi của hoạt động sản xuất để có thể chi p hối và điều tiết được những hậu quả đó. Đồng thời, muốn tiến hành sự điều tiết ấy cho tốt thì không chỉ đơn thuần dựa vào nhận thức mà "cần phải có sự chuyển biến hoàn toàn trong phương thức sản xuất đã tồn tại cho đến nay và trong chế độ xã hội hiện tại" [51, tr.657]. Bởi vì, tất cả các phương thức sản xuất cũ chỉ nhằm đạt được những hiệu quả có ích gần nhất và trực tiếp nhất mà không chú ý đến những hậu quả xa, sau này mới xuất hiện. Điển hình những nhà tư bản riêng lẻ sản xuất và trao đổi chỉ để thu lợi nhuận trước mắt đã dẫn đến hậu quả sau này: cạn kiệt tài nguyên, khủng hoảng kinh tế. Qua nghiên cứu quan điểm của C.M ác và Ph.Ăngghen về vai trò của nông nghiệp, mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, nhiều vấn đề được rút ra trong giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế nói chung và KTNT nói riêng với môi trường sinh thái: Thứ nhất, nông nghiệp nói riêng, KTNT nói chung có vị trí, vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Năng suất lao động trong phát triển KTNT có thể ngày càng tăng nếu biết hợp tác sản xuất với quy mô lớn và cải tiến phương pháp canh tác trong sản xuất nông nghiệp. Thứ hai, con người cũng là một thực thể tự nhiên và giới tự nhiên là thành phần môi trường đặc biệt quan trọng trong đời sống của con người, nó bao quanh con người. Vì thế, chúng ta không nên đối lập giữa con người và môi trường tự nhiên. Thứ ba, trong quan hệ giữa con người và giới tự nhiên, con người cần nắm vững quy luật tự nhiên để chinh phục nó một cách hài hòa nhất, đừng tác động vào tự nhiên một cách thô bạo. Con người phải BVMT tự nhiên; áp dụng những tiến bộ 9 khoa học, công nghệ vào việc BVMT theo hướng đáp ứng yêu cầu của hiện tại và tính đến yếu tố lợi ích lâu dài. Nếu vì lợi ích trước mắt mà tác động xấu đến giới tự nhiên - môi trường, thì tất yếu con người sẽ chịu sự tác động ngược trở lại, phải gánh chịu hậu quả nặng nề từ sự "trả thù" của môi trường tự nhiên. Đây là những nghiên cứu rất bổ ích mà nghiên cứu sinh có thể tham khảo trong quá trình thực hiện luận án. 1.1.2. Những bàn luận về mô hình phát triển nông nghiệp nhằm hướng tới thích ứng với các mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường - Tác giả Andy Hall và Kumuda Dorai với nghiên cứu "The greening of agriculture - agricultural innovation and sustainable growth" (Nông nghiệp xanh Đổi mới và phát triển nông nghiệp bền vững) [112] đã đề cập về vai trò của nông nghiệp trong một thời đại với những thách thức về môi trường và nhu cầu mới đang đặt ra là trong phát triển nông nghiệp phải bảo vệ đa dạng sinh học, giảm nhẹ BĐKH,… Tác giả cho rằng công nghệ là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành các tiêu chí xanh trong nông nghiệp. Sự thay đổi kỹ thuật liên quan đến vấn đề thâm canh trong nông nghiệp sẽ có những thách thức về môi trường, nhưng nó cũng sẽ là một yếu tố chính của chiến lược để giải quyết những vấn đề phát triển bền vững. Thay đổi công nghệ là động lực chính đằng sau tăng năng suất nông nghiệp trên toàn thế giới. Đồng thời, các tổ chức xã hội và thị trường là lực lượng lớn trong việc thúc đẩy nền nông nghiệp xanh. Sự hợp tác giữa khu vực công và tư nhân đang là vấn đề quan trọng trong việc theo đuổi một chương trình nông nghiệp xanh. Cần học hỏi phát triển nền nông nghiệp xanh từ nhiều nước và quốc tế hóa chuỗi giá trị nông nghiệp. - Trong báo cáo của Candice Stevens (Cựu Cố vấn Phát triển bền vững OECD) về "Agriculture and Green Growth" (Nông nghiệp và tăng trưởng xanh) [113], ông đã nêu về tầm quan trọng của tăng trưởng xanh cho khu vực nông nghiệp và những cân nhắc quan trọng trong việc giải quyết những thách thức về môi trường trong nông nghiệp. Ông cho rằng sự xuất hiện của các khái niệm về tăng trưởng xanh đánh dấu một sự thay đổi trong sự tiến bộ kinh tế, một cách tiếp cận trong đó nhấn mạnh sự phát triển bền vững với môi trường. Nếu như trong mô hình kinh tế truyền thống, BVMT có xu hướng như là một gánh nặng kinh tế hoặc làm chậm sự 10 tăng trưởng thì ở các mô hình tăng trưởng xanh luôn đề cao vấn đề bảo vệ và bảo tồn tài nguyên môi trường trong phát triển kinh tế của quốc gia và toàn cầu. Tương lai kinh tế tăng trưởng sẽ suy giảm nếu các mô hình tăng trưởng xanh không được đặt đúng chỗ. Bên cạnh đó, việc thực hiện tăng trưởng xanh phụ thuộc vào chính sách dài hạn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và BVMT. Các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp nên tham gia vào việc thực hiện chính sách tăng trưởng xanh. Đồng thời, ở các nước đang phát triển cần đặt mục tiêu chính của việc p hát triển sao cho không gây gánh nặng quá mức về khả năng chịu đựng của môi trường. - Raymond Auerbach, Gunnar Rundgren and Nadia El-Hage Scialabba với nghiên cứu về "Organic agriculture: African experiences in resilience and sustainabilit" (Nông nghiệp hữu cơ: Kinh nghiệm châu Phi trong sự phục hồi và bền vững) [111] cho thấy, nông nghiệp hữu cơ có thể có lợi cho nền kinh tế và hệ sinh thái ở châu Phi, nơi đói và suy thoái dai dẳng tồn tại. Thực hành nông nghiệp hữu cơ sẽ làm tăng năng suất, đảm bảo an ninh lương thực, cung cấp khả năng phục hồi trong thời gian khắc nghiệt như hạn hán và mưa lớn. Nghiên cứu tập trung vào các nội dung như: lồng ghép nông nghiệp hữu cơ vào chương trình nghị sự phát triển châu Phi; các hệ thống chăn nuôi dựa vào cộng đồng kết hợp quản lý trên phạm vi toàn diện; tăng cường sự phát triển sinh thái; kiến thức về hộ sản xuất nhỏ;… Kinh nghiệm nghiên cứu cho thấy khi quay về phương thức canh tác tự nhiên truyền thống, nông dân sẽ không phải tốn tiền mua thuốc và phân hóa học, đồng thời có thể đa dạng hóa mùa vụ và canh tác theo hướng bền vững. Hơn nữa, nếu nông sản được chứng nhận là thực phẩm hữu cơ, người trồng có thể xuất khẩu với giá cao hơn nông sản bình thường. Các mô hình phát triển nông nghiệp theo hướng gắn với BVM T như: nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ sẽ là những giải pháp hữu hiệu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa phát triển KTNT và BVMT nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển NN, NT bền vững. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích mà luận án quan tâm. 1.2. C ÁC C Ô NG TRÌNH NGHIÊN C ỨU C ỦA CÁC TÁC G IẢ TRONG NƯỚ C C Ó LIÊN Q UAN ĐẾN ĐỀ TÀI Nông nghiệp, nông thôn và môi trường là những vấn đề lớn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Vì vậy, trên lĩnh vực này đã có nhiều cơ quan, nhiều tổ chức và 11 nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và có nhiều công trình liên quan được công bố. Nhìn chung, các công trình tập trung vào hai hướng chính. Một là, bàn về NN, NT hay BVMT; Hai là, bàn về phát triển NN, NT bền vững trong đó có đề cập đến tác động qua lại giữa phát triển KTNT và BVM T. Sau đây là tổng quan tình hình nghiên cứu trên các hướng đó. 1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và bảo bệ môi trường Cuốn: "Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay" của Đoàn Xuân Thủy và các cộng sự [95] đã phân tích, đánh giá mức độ phù hợp của các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở nước ta thời gian qua so với y êu cầu của thông lệ quốc tế, đặc biệt là các quy định của WTO và đề xuất các giải p háp để vừa tiếp tục hoàn thiện các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo hướng phù hợp với các cam kết quốc tế, vừa thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hiện đại, tạo cơ sở bền vững cho giải quyết vấn đề nông dân và nông thôn trong thời gian tới. Cuốn: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai sau" của Đặng Kim Sơn [87] đã nêu bật thực trạng các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn với những thành tựu cũng như những khó khăn vướng mắc còn tồn tại; từ đó, đề xuất những định hướng và kiến nghị chính sách nhằm đưa nông nghiệp, nông dân, nông thôn ngày càng phát triển. Trong đề xuất định hướng, tác giả đã đề cập mô hình phát triển công nghiệp hóa trước đây, các nước thường chấp nhận việc huy động cao độ nguồn tài nguyên từ nông nghiệp; Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH đều tập trung vào mục tiêu kinh tế, môi trường bị đặt xuống vị trí thứ yếu nên đã dẫn đến những thách thức mới của quá trình CNH: bần cùng hóa nông dân, vắt kiệt tài nguyên nông thôn, môi trường đã bị phá đến mức giới hạn; Bên cạnh đó, cũng có những cơ hội: KHCN phát triển nhanh, vốn đầu tư linh động và dồi dào, thị trường mở rộng, trình độ dân trí tăng,… Từ đó, quan điểm phát triển mới hiện nay với mục tiêu của sự nghiệp phát triển NN, NT là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn thông qua phát triển bền vững nền sản xuất hàng hóa lớn có hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, xây dựng nông thôn mới văn minh, kinh tế phát triển, chính trị dân chủ, kết cấu hạ tầng hiện đại, môi trường sinh thái cân bằng, bản sắc dân tộc p hong phú. 12 Cuốn: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới" của Lê Quang Phi [62] chủ yếu đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH NN, NT ở nước ta và nêu một số kinh nghiệm Đảng lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT. Trong đó, tác giả đã khẳng định, đối với mọi quốc gia, khai thác nguồn lực, tiềm năng to lớn trong khu vực này, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, KTNT luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với các quốc gia đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra kinh nghiệm xây dựng, phát triển nền kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy dù công nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân khác có được coi trọng bao nhiêu nhưng nông nghiệp còn lạc hậu, thì sự lạc hậu ấy sẽ dẫn đến những thiệt hại lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, sớm hay muộn cũng buộc xã hội phải khắc phục, có như vậy mới đảm bảo cho sự phát triển bình thường của nền kinh tế đất nước. Cuốn: "Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về m ôi trường" của Nguyễn Thị Thơm, An Như Hải [92], đã khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường; quan tâm phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapor, M alaysia, Phillipin về sử dụng chế tài xử phạt vi phạm pháp luật BVM T, xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường, sử dụng biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và huy động cộng đồng tham gia và BVMT để rút ra bài học cho Việt Nam; từ đó, đề xuất một số giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách BVMT, tăng cường chế tài xử phạt vi phạm pháp luật BVMT, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường các cấp,… nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam trong thời gian tới. Bài: "Thực trạng và các giải pháp chủ động ứng phó với BĐKH; đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường" của Trần Quốc Toản [96, tr.7-26] đã nhìn nhận tổng quát về công tác ứng phó với BĐKH và bảo vệ tài nguyên, môi trường để đưa ra những vấn đề lớn đang đặt ra và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, thực hiện đồng bộ giữa các lĩnh vực và nhiệm vụ, giải pháp riêng cho từng lĩnh vực ứng phó với BĐK H, BVMT và tài nguyên. 13 Cuốn: "Một số vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường trong bối cảnh BĐKH ở nước ta" của Nguyễn Danh Sơn [88, tr.131-154] đã tập trung chỉ ra một số nhận thức mới về BVMT: tăng trưởng xanh, kinh tế xanh, xã hội cacbon thấp, chất lượng tăng trưởng xanh, an ninh môi trường, an ninh sinh thái,…; định nghĩa về vốn tự nhiên là đất đai, không khí, nước, các sinh vật sống trong sinh quyển cung cấp cho con người các hàng hóa và dịch vụ hệ sinh thái cần thiết để tồn tại và khẳng định, phát triển với tính chất xanh không thay thế cho phát triển bền vững mà là một cách thức thực hiện PTBV trong đó nhấn mạnh nhiều hơn đến khía cạnh TN&M T. Cuốn: "Những tác động của yếu tố văn hóa - xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Hoàng Hữu Bình và các cộng sự [9] đã tập trung phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của một số yếu tố van hóa - xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình CNH, HĐH đất nước, theo 5 hướng chủ yếu: tác động của văn hóa vùng và văn hóa tộc người, tác động của tôn giáo và tín ngưỡng, tác động của tri thức dân gian, tác động của đói nghèo và công cuộc xóa đói giảm nghèo, tác động của di dân. Trong quá trình phân tích các tác động của từng thành tố, cuốn sách cũng đã đề cập đến một số khía cạnh như: mức độ tác động, tác động trực tiếp hay gián tiếp, biểu hiện của sự tác động và từ đó đề xuất các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình CNH, HĐH từ góc nhìn văn hóa - xã hội. Cuốn: "Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện hội nhập WTO" của Vũ Văn Phúc, Trần Thị Minh Châu [65], đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn và thực trạng chính sách hỗ trợ nông dân của N hà nước trong điều kiện hội nhập WTO ở Việt Nam; từ đó, đánh giá tác động của các chính sách và đề xuất một số giải pháp đổi mới chính sách để giúp nông dân Việt Nam vững bước tiến vào thị trường thế giới. Cuốn: "Nông dân dựa vào đâu?" của Trung tâm tri thức doanh nghiệp quốc tế [101] đã đề cập cụ thể những vấn đề thiết thực đối với sự phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống của nông dân, đặc biệt ở vùng ĐBSCL; phân tích những khó khăn, thách thức trong nông nghiệp và đời sống của người nông dân, hạn chế của khu vực nông thôn như: ngành nông nghiệp thường xuyên gắn với "thiên tai, mất
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan