Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi theo pháp luật việt nam hiện nay...

Tài liệu Quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi theo pháp luật việt nam hiện nay

.PDF
87
731
72

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KIỀU THỊ HUYỀN TRANG QUAN HÖ CHA MÑ NU¤I - CON NU¤I THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành: Luật dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Kiều Thị Huyền Trang MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI – CON NUÔI ........................................................................... 6 1.1. Khái niệm chung về nuôi con nuôi ................................................... 6 1.1.1. Khái niệm con nuôi .............................................................................. 6 1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi...................................................................... 7 1.2. Khái niệm quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi .................................. 12 1.2.1. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một quan hệ xã hội .................... 12 1.2.2. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một quan hệ pháp luật ............... 15 1.2.3. Đặc điểm quan hệ pháp luật cha mẹ nuôi – con nuôi ........................ 19 1.3. Ý nghĩa của việc thực hiện quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi ....... 22 1.3.1. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi ......................................................... 22 1.3.2. Ý nghĩa của việc thực hiện quan hệ nuôi con nuôi ............................ 24 Chƣơng 2: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI – CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH..................................................... 26 2.1. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi ........................ 27 2.1.1. Các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa cha mẹ nuôi và con nuôi ...... 27 2.1.2. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa cha mẹ nuôi và con nuôi ...... 36 2.2. Quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi .............................................................................. 43 2.2.1. Quan hệ giữa con nuôi với cha đẻ, mẹ đẻ của cha mẹ nuôi .............. 43 2.2.2. Quan hệ giữa con nuôi với các con đẻ của cha mẹ nuôi ................... 46 2.2.3. Quan hệ giữa người con nuôi với anh, chị, em ruột của cha nuôi, mẹ nuôi .................................................................................... 48 2.3. Quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi ................. 50 2.3.1. Trường hợp không có sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi ........ 50 2.3.2. Trường hợp có sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi .......... 53 2.4. Chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi ................................... 56 2.4.1. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi ................................................. 56 2.4.2. Thủ tục và đường lối giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi .......... 59 2.4.3. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi ............................ 61 Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI CON NUÔI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .................................................................................... 64 3.1. Một vài nét khái quát về thực tiễn thực hiện quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi từ khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực ................ 64 3.2. Một số vƣớng mắc, bất cập về pháp luật điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi và kiến nghị hoàn thiện ........................... 68 3.2.1. Một số vướng mắc, bất cập về pháp luật điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi ............................................................................ 68 3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện .......................................................................... 70 KẾT LUẬN .................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật dân sự BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự BVCSVGDTE Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em CUQTVQTE Công ước quốc tế về quyền trẻ em HN&GĐ Hôn nhân và gia đình Nghị định 06/2012/NĐ-CP Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều về các nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực Nghị định 158/2005/NĐ-CP Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch Nghị định 19/2011/NĐ-CP Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi Nghị quyết 01/1988/NQ-HĐTP Nghị quyết số 01/1988/NQ-HĐTP ngày 20/02/1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra ở các quốc gia và đều được pháp luật các nước điều chỉnh. Ở nước ta, nuôi con nuôi là một vấn đề nhân đạo, được Đảng và Nhà nước quan tâm sâu sắc. Trong hoàn cảnh đất nước còn phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế xã hội có nhiều khó khăn, mức thu nhập của người dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần có mái ấm gia đình, thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở nên cấp thiết trong đời sống xã hội. Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, việc nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của người nhận con nuôi. Việc nuôi con nuôi nhằm bảo đảm quyền lợi của trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, không có được sự chăm sóc, nuôi dưỡng của gia đình, người thân và qua đó góp phần làm cho xã hội ổn định. Pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi từng bước được hoàn thiện và ngày càng hướng tới việc bảo đảm tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ em được nhận làm con nuôi theo yêu cầu của pháp luật về quyền trẻ em. Việc nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và con nuôi, đồng thời làm phát sinh các quan hệ pháp lý giữa người được nhận nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi nhằm bảo đảm cho con nuôi được hòa nhập một cách tốt nhất vào môi trường gia đình của cha, mẹ nuôi, cũng như bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi. Trong quan hệ nuôi con nuôi luôn tồn tại mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ đẻ - con nuôi - cha mẹ nuôi, đây là ba chủ thể luôn có sự gắn kết, gắn bó với nhau chặt chẽ trong quan hệ nuôi con nuôi. Luật Nuôi con nuôi đã có sự điều chỉnh nhất định đối với mối quan hệ 1 giữa ba bên, tuy nhiên sự điều chỉnh của pháp luật chưa thật triệt để và còn có nhiều quy định chưa rõ ràng, có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Luật Nuôi con nuôi mới có hiệu lực chưa lâu, các quy định về quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi có nhiều điểm khác so với các quy định điều chỉnh việc nuôi con nuôi trong các văn bản pháp luật trước đây, vì vậy các quy định của Luật Nuôi con nuôi chưa được nhận thức đầy đủ và đúng đắn. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một nội dung rất quan trọng và có ý nghĩa trong Luật Nuôi con nuôi. Do đó, việc nghiên cứu quan hệ nuôi con nuôi là cần thiết. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, tôi đã chọn đề tài: “Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo pháp luật Việt Nam hiện nay”. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo pháp luật Việt Nam hiện hành, nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, bao gồm: quan hệ giữa cha mẹ nuôi – con nuôi, quan hệ giữa cha mẹ đẻ - con nuôi và quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi theo Luật Nuôi con nuôi. Nghiên cứu, phân tích các quy định của Luật Nuôi con nuôi về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi trong sự so sánh với các quy định của pháp luật trước đây về vấn đề này, đồng thời phát hiện những bất cập, hạn chế của các quy định về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo quy định của pháp luật hiện hành. 2 - Phân tích các quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ nuôi con nuôi khi việc nuôi con nuôi được công nhận theo quy định của pháp luật hiện hành. - Đánh giá việc áp dụng, thực hiện các quy định của pháp luật về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi trong thực tiễn, phát hiện những điểm chưa hợp lý, còn bất cập, chưa có tính khả thi cũng như chỉ ra những điểm chưa tương đồng với các văn bản pháp luật khác có liên quan điều chỉnh về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi trong Luật Nuôi con nuôi và một số văn bản pháp luật có liên quan. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu của đề tài - Những vấn đề lý luận về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi; - Nghiên cứu các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan và việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn; - Thực tiễn thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ nuôi con nuôi từ khi Luật nuôi con nuôi có hiệu lực đến nay.  Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài thì quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi được hiểu là quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh khi việc nuôi con nuôi được công nhận. Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi thì khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể sau: cha mẹ nuôi – con nuôi, cha mẹ đẻ - con nuôi, giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Cũng theo quy định của Luật Nuôi con nuôi thì quan hệ giữa cha mẹ nuôi – con nuôi không luôn luôn tồn tại một cách 3 độc lập với mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đã cho làm con nuôi mà điều đó còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài một cách đầy đủ đòi hỏi phải nghiên cứu không chỉ quan hệ giữa cha mẹ nuôi – con nuôi, mà còn phải nghiên cứu quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi và quan hệ giữa cha mẹ đẻ với cha mẹ nuôi theo quy định của Luật Nuôi con nuôi. Các quyền và nghĩa vụ giữa ba chủ thể này luôn có sự gắn kết, chi phối và chế ước lẫn nhau tạo thành đặc trưng của quan hệ nuôi con nuôi. Do đó, nghiên cứu về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi phải nghiên cứu đồng thời cả ba mối quan hệ qua lại này. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các quy định của Luật Nuôi con nuôi và một số văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau. Luận văn không nghiên cứu quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, nội dung nghiên cứu của đề tài còn có sự liên hệ, so sánh với các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan điều chỉnh vấn đề này như BLDS năm 2005, Luật BVCSGDTE…, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá việc áp dụng các quy định đó trong thực tế thực hiện quan hệ nuôi con nuôi. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của trẻ em nói chung và quyền của trẻ em làm con nuôi nói riêng. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp, 4 điều tra xã hội. v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra. 5. Những điểm mới của luận văn Sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính chất chuyên sâu và hệ thống về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi - một lĩnh vực hẹp nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nuôi con nuôi. Vấn đề này được điều chỉnh không chỉ bởi Luật Nuôi con nuôi mà còn được điều chỉnh bởi một số luật khác có liên quan như Luật HN&GĐ, BLDS. Luận văn phân tích một cách toàn diện, sâu sắc các khía cạnh pháp lý về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi, có sự so sánh với các quy phạm pháp luật đã có trước đây điều chỉnh vấn đề này, đồng thời đánh giá việc áp dụng các quy định đó trong thực tế. Trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những điểm còn bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi và đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em được nhận nuôi cũng như của người nhận nuôi con nuôi. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu gồm ba chương, như sau: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi Chƣơng 2: Quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo quy định của pháp luật hiện hành Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI – CON NUÔI 1.1. Khái niệm chung về nuôi con nuôi 1.1.1. Khái niệm con nuôi Con nuôi là khái niệm được dùng để phân biệt với khái niệm con đẻ. Con đẻ là người con được sinh ra từ chính người mẹ, có cùng huyết thống và mang gen di truyền của người mẹ. Khi một đứa trẻ được sinh ra mà không cùng huyết thống với người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục thì đứa trẻ đó có thể được gọi là con nuôi. Đứa trẻ được người không sinh ra mình nhận nuôi dưỡng, chăm sóc chỉ được coi là con nuôi của người nuôi dưỡng, chăm sóc khi được pháp luật công nhận trên cơ sở mong muốn xác lập quan hệ cha mẹ và con của người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc đối với đứa trẻ đó. Vì vậy, không phải bất cứ trường hợp nào việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em đều làm cho trẻ em được nhận nuôi dưỡng trở thành con nuôi của người nuôi dưỡng. Yếu tố mong muốn xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên là điều kiện quan trọng nhất để đứa trẻ được nhận nuôi trở trở thành con nuôi. Việc xác lập mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi được thực hiện trên cơ sở tình cảm, mong muốn, nhu cầu của cả hai bên, tuy nhiên chỉ được pháp luật công nhận khi việc nuôi con nuôi được đăng ký theo đúng thủ tục, quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 của Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì con nuôi được định nghĩa như sau: “Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký” [31]. Như vậy, khái niệm con nuôi bao hàm một số nội dung cơ bản như sau: - Con nuôi là người được một người độc thân hoặc một cặp vợ chồng không sinh ra nhận làm con nuôi, về nguyên tắc không có quan hệ huyết thống và không mang gen di truyền của người nhận nuôi. 6 - Con nuôi có thể có huyết thống trong phạm vi nhất định với người nhận nuôi nhưng không do người nhận nuôi sinh ra (cô, dì, chú, bác ruột nhận cháu ruột làm con nuôi). - Người được nhận nuôi chỉ được công nhận là con nuôi của người nhận nuôi khi người được nhận nuôi đáp ứng được các điều kiện của người được nhận nuôi theo quy định của pháp luật, như điều kiện về độ tuổi, ý chí, về chủ thể (ví dụ: cháu không thể trở thành con nuôi của ông bà nội hoặc ông bà ngoại). 1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi Trong xã hội, việc nuôi con nuôi là một hiện tượng khá phổ biến và thể hiện tính nhân đạo sâu sắc. Trong lịch sử xã hội loài người, việc nuôi con nuôi có thể vì các mục đích khác nhau, có thể là nhằm đáp ứng những nhu cầu, lợi ích vật chất như có thêm lao động, có người thờ tự, có người chăm sóc khi tuổi già… hay những nhu cầu, lợi ích về tinh thần, xuất phát từ lòng nhân đạo như sự cảm thông, sự chia sẻ… Ở nước ta, bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, vấn đề nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ chồng nhận con nuôi, nhất là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm con; phụ nữ đơn thân… Hiện nay, vì lợi ích tốt đẹp của trẻ em, đặc biệt là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn mà việc nuôi con nuôi được xác lập và ngày càng được khuyến khích, quan tâm một cách thích đáng. Việc nuôi con nuôi có thể được xem xét ở các góc độ: - Dưới góc độ xã hội: Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ con giữa người nuôi và người được nhận nuôi không dựa trên quan hệ huyết thống, được thiết lập trên thực tế và không phải bao giờ cũng có sự thừa nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử, hình thành trên cơ sở cá nhân “tiếp nhận những liên hệ mới mang tính chất gia đình” [18]. Trong thực tế, xuất phát từ tình yêu thương hay phong tục tập 7 quán, việc nuôi con nuôi được xác lập mà không có sự công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các hình thức nuôi con nuôi danh nghĩa, nuôi con nuôi thực tế mặc dù không được sự công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng nó vẫn tồn tại. Do đó, trong đời sống xã hội, dù được sự công nhận hay không công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì việc nuôi con nuôi vẫn được xác lập, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi vẫn tồn tại trên thực tế. Nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan nhằm thiết lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trên thực tế. - Dưới góc độ pháp lý Việc nuôi con nuôi có thể được xem xét dưới hai góc độ: nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý và nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật. + Nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý. Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế và chỉ trở thành sự kiện pháp lý khi pháp luật xác định rõ điều đó [35]. Nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ - con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi, khi giữa họ không có quan hệ huyết thống trực hệ mà được xác lập trên cơ sở quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo ý chí, nguyện vọng của các đương sự và tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về các điều kiện xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Sự kiện pháp lý nuôi con nuôi gồm các yếu tố cấu thành sau: Một là: các chủ thể có liên quan đáp ứng các điều kiện của việc nuôi con nuôi. Các chủ thể có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi bao gồm: cha mẹ nuôi (người nhận con nuôi), con nuôi (người được nhận làm con nuôi) và cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi. Điều kiện đối với mỗi chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi đều được pháp luật quy định cụ thể. Đối với người nhận con nuôi (cha mẹ nuôi), theo Điều 14 Luật Nuôi con 8 nuôi thì họ phải có đầy đủ những điều kiện về năng lực hành vi dân sự, về độ tuổi, điều kiện sức khỏe, khả năng kinh tế,…. và không thuộc những trường hợp không được nhận con nuôi như đang chấp hành hình phạt tù…. [31]. Quy định này nhằm bảo đảm cho trẻ em được nhận nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường an toàn nhất đảm bảo và tốt nhất. Đối với người được nhận làm con nuôi, Điều 8 Luật Nuôi con nuôi quy định cụ thể về độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi. Theo quy định thì người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi. Trong trường hợp người được cha dượng, mẹ kế; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi thì theo khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi quy định là người “đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi” [31]. Hai là: sự thể hiện ý chí của các chủ thể có liên quan. Quan hệ nuôi con nuôi chỉ được hình thành khi các bên có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi thể hiện ý chí trong việc cho và nhận con nuôi. Pháp luật không thừa nhận quan hệ nuôi con nuôi khi ý chí của một trong các bên không thể hiện rõ hoặc thể hiện không đúng theo quy định của pháp luật, cụ thể: - Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi. Ý chí của những người này trong việc cho trẻ em làm con nuôi phải minh bạch và xuất phát từ sự tự nguyện thật sự của bản thân họ mà không có bất cứ sự tác động, thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn hoặc một áp lực nào và không nhằm mục đích trục lợi. Nói cách khác, ý chí đó phải hoàn toàn tự nguyện, độc lập. Nội dung của ý chí đó là đồng ý cho con mình làm con nuôi của người khác. Việc cho trẻ em làm con nuôi phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em. Quy định này nhằm bảo đảm được các quyền cơ bản của trẻ em theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em là trẻ em không bị buộc phải cách ly khỏi cha mẹ đẻ, trẻ em có quyền được sống chung với cha mẹ đẻ. Sự đồng ý hay không đồng ý của cha mẹ đẻ và người giám hộ là một 9 trong những điều kiện để xác lập có hay không mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi. Sự đồng ý của cha mẹ đẻ trong việc cho con làm con nuôi của người khác chỉ hợp pháp sau khi đứa trẻ sinh ra ít nhất được 15 ngày [31, Điều 4]. - Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi. Người nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó. Ý chí, mong muốn đó của người nhận nuôi phải được thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi. - Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi. Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó” [31]. Với lứa tuổi này, đứa trẻ chưa được coi có năng lực hành vi đầy đủ. Trẻ em ở độ tuổi này phần nào đã có khả năng nhận thức nhất định về cuộc sống, có thể nhận biết và bày tỏ thái độ của mình mong muốn hay không mong muốn làm con nuôi người khác, cũng như cảm nhận phần nào đó được sự an toàn, thích nghi được hay không khi được cho làm con nuôi người khác, khi phải thay đổi môi trường sống… Do đó, pháp luật quy định đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình. Sự đồng ý làm con nuôi của đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý; Ba là: sự thể hiện ý chí của Nhà nước. Sự thể hiện ý chí của Nhà nước chính là sự thể hiện ý chí của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quan hệ nuôi con nuôi. Ý chí này được thể hiện qua việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận hay không công nhận việc nuôi con nuôi, thông qua thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi hay từ chối việc đăng kí nuôi con nuôi. Ý chí của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là bước then chốt trong việc làm phát sinh mối quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi bởi nếu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không công nhận việc nuôi con nuôi thì quan hệ 10 nuôi con nuôi sẽ không được hình thành. Việc nuôi con nuôi được công nhận tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc nuôi con nuôi [23]. Như vậy, với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi là một cấu thành sự kiện bao gồm các yếu tố cấu thành mà nếu thiếu đi một trong các yếu tố thì cấu thành đó sẽ không có hiệu lực, không làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. + Nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật Quan hệ pháp luật là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Quan hệ nuôi con nuôi là những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Là quan hệ pháp luật, nuôi con nuôi có đầy đủ các yếu tố: chủ thể, khách thể, nội dung. Chủ thể trong quan hệ pháp luật nuôi con nuôi bao gồm: cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và người con nuôi. Để được coi là chủ thể của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi thì các bên chủ thể phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện tương ứng theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi. Khách thể của quan hệ nuôi con nuôi là những lợi ích mà các bên chủ thể hướng tới. Những lợi ích đó là những lợi ích tinh thần và vật chất mà cả người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi mong muốn được hưởng và hướng tới. Đó có thể là lợi ích tình cảm của cha mẹ nuôi và con nuôi, đáp ứng điều kiện cho sự phát triển đầy đủ của đứa trẻ, đáp ứng được mong muốn của cha mẹ đẻ là con của họ sẽ có một mái ấm tốt đẹp hơn tại gia đình của cha mẹ nuôi…. Nội dung của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể do pháp luật quy định khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi, bao gồm các quyền nghĩa vụ nhân thân và quyền nghĩa vụ tài sản giữa các chủ thể. 11 1.2. Khái niệm quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi có thể hiểu từ hai góc độ: là một quan hệ xã hội và là quan hệ pháp luật. 1.2.1. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một quan hệ xã hội Với ý nghĩa là một quyền tự do dân sự của cá nhân, việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có thể được thực hiện theo những cách thức khác nhau, tuỳ theo sự lựa chọn của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Quan hệ nuôi con nuôi đã từng tồn tại một số dạng cơ bản như: nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi để khuếch trương quyền thế của gia đình, nuôi con nuôi để lấy phúc, nuôi con nuôi trên danh nghĩa và nuôi con nuôi thực tế [20]. - Nuôi con nuôi theo phong tục tập quán đã được phản ánh trong pháp luật nhà Lê qua bộ Quốc triều hình luật tại Điều 294, Điều 295. Bên cạnh đó, dân tộc Mường, Thái, Dao, Thổ, Mông, Khơ Mú đều có phong tục nhận nuôi con nuôi [33, tr.70-101]. Các quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán đã từng tồn tại từ lâu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và hiện nay vẫn còn tồn tại. Những quan hệ nhận nuôi con nuôi này được xã hội, cộng đồng thừa nhận, các bên đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của quan hệ cha mẹ và con trên thực tế, mặc dù có thể không thực hiện việc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. - Trong xã hội phong kiến, nuôi con nuôi để khuếch trương quyền thế của gia đình thường diễn ra ở những gia đình trong giới cầm quyền, nhằm mục đích được hưởng một số lớn đất đai, có thêm nguồn nhân công mà không phải trả tiền. Việc nhận nuôi con nuôi để có thêm người giúp việc trong gia đình có thể vẫn tồn tại, nhưng việc nhận nuôi con nuôi chỉ có tính chất hình thức, không có giá trị pháp lý. Giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi cũng không tồn tại quan hệ cha mẹ và con trên thực tế [20]. 12 - Nuôi con nuôi để lấy phúc. Trong thực tế đời sống, có không ít trường hợp vì mê tín mà người ta nhận nuôi một đứa trẻ, coi như con của mình để làm phúc, để có thể giảm bớt tai vạ, những điều không may mắn cho gia đình hoặc để vợ chồng có thể sinh được con của mình. Người nhận nuôi đối xử với người con nuôi như con đẻ, nhưng việc nuôi con nuôi này không được sự công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền [20]. - Nuôi con nuôi trên danh nghĩa: đây là những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống. Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là việc các bên nhận nhau là cha mẹ nuôi và con nuôi xuất phát từ tình cảm, nhưng không gắn với quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, không nhằm mục đích hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực tế. Các bên có thể đối xử với nhau, gọi nhau là cha mẹ và con, nhưng không ràng buộc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế. Việc nuôi con nuôi này không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện nào, mà chỉ tuỳ thuộc vào tình cảm, sự tự nguyện của các bên, phù hợp với cách ứng xử, chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Việc nuôi con nuôi này thường được thực hiện dưới hình thức thoả thuận bằng lời giữa các bên chủ thể. Quan hệ cha mẹ và con trong hình thức này thường chỉ tồn tại trên danh nghĩa, có ý nghĩa đối với hai bên chủ thể, mà không có ý nghĩa nhiều đối với những người khác trong gia đình của hai bên, những người xung quanh và xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội Việt Nam, hình thức nhận con nuôi hoặc nhận cha mẹ nuôi trên danh nghĩa thường hay xảy ra, vì người Việt Nam vốn có lối sống trọng tình, trọng nghĩa. Việc nhận nuôi con nuôi này chủ yếu hướng tới những giá trị đạo đức, tinh thần, nhưng không có giá trị pháp lý [20]. - Nuôi con nuôi thực tế: Nuôi con nuôi thực tế là hình thức nuôi con nuôi làm hình thành quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Việc nhận nuôi thoả mãn đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi, không 13 trái với mục đích của việc nuôi con nuôi và đạo đức xã hội. Giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha mẹ và con, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, đồng thời thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con với nhau để xây dựng một gia đình thật sự. Quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên đã được xác lập trong thực tế, được họ hàng và mọi người xung quanh công nhận nhưng không đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đây cũng là một dạng quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi không được pháp luật công nhận về mặt pháp lý, dù cho quan hệ cha mẹ và con đáp ứng đầy đủ các điều kiện về mặt chủ thể, khách thể, nội dung quan hệ. Trên thực tế, trường hợp nuôi con nuôi tồn tại mà không đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là rất phổ biến. Mặc dù quan hệ cha mẹ và con đã được xác lập trên thực tế, được họ hàng, mọi người xung quanh thừa nhận và trên cơ sở tình cảm, ý chí, nguyện vọng của cha mẹ nuôi và con nuôi, tuy nhiên lại có không ít trường hợp nhận nuôi con nuôi nhằm mục đích xấu. Mục đích xấu có thể là trục lợi cho bản thân người nhận nuôi con nuôi, hoặc nhằm mục đích tổ chức đường dây mua bán trẻ em ra nước ngoài, lợi dụng việc nuôi con nuôi để hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc lạm dụng lao động trẻ em…. Những hành vi này bị xã hội lên án kịch liệt vì trái với đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là “thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách”, hơn nữa những hành vi này còn vi phạm nghiêm trọng về quyền tự do bình đẳng của mỗi cá nhân trong xã hội, vi phạm Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, do quan hệ nhận nuôi con nuôi này chỉ xác lập giữa các bên mà không có sự tham gia của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết và bảo vệ quyền lợi cho trẻ em không được đảm bảo. Như vậy, dưới góc độ xã hội, quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi được 14 hiểu là quan hệ cha mẹ và con được xác lập và thực hiện trên thực tế giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi với các mức độ và hình thức khác nhau nhắm đáp ứng những mục đích nhất định nhưng không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không có giá trị pháp lý. 1.2.2. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một quan hệ pháp luật Quan hệ cha mẹ - con giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi là mối quan hệ đặc biệt, vì không phát sinh trên cơ sở sinh đẻ và quan hệ huyết thống mà là từ ý chí, tình cảm của các bên. Việc nhận nuôi con nuôi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận theo thủ tục luật định sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Là một quan hệ pháp luật, quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi cũng có đầy đủ các yếu tố cấu thành của một quan hệ pháp luật, gồm ba yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung. - Chủ thể của quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi gồm: cha mẹ nuôi (người nhận con nuôi) và người con nuôi (người được nhận làm con nuôi). Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi được xác lập trên cơ sở các chủ thể đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật nuôi con nuôi. Cụ thể: + Đối với cha mẹ nuôi, pháp luật quy định người nhận nuôi là cá nhân, có thể là vợ và chồng hoặc một người độc thân. Pháp luật quy định trẻ em chỉ được nuôi bởi một người độc thân hoặc cả hai người là vợ chồng [31, Điều 8, khoản 3 ]. Ðiều đó có nghĩa rằng, nếu người nhận nuôi con nuôi có chung sống như vợ chồng với một người khác mà không đăng ký kết hôn, thì trẻ em được nhận làm con nuôi chỉ có thể là con nuôi của một trong hai người. Đồng thời, Điều 5 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng quy định về thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế là những cá nhân có thể là công dân Việt Nam hoặc là người nước ngoài. Do đó, quan hệ cha mẹ và con chỉ có thể là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa cặp vợ chồng với đứa trẻ được nhận nuôi. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan