Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và vận dụng vào công ...

Tài liệu Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và vận dụng vào công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay

.DOC
14
746
71

Mô tả:

Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và vận dụng vào công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ⃰ ⃰ ⃰⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ ⃰ TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI:QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Tùng Lâm Hà Nội,2015 1 MỤC LỤC A.LỜI NÓI ĐẦU 4 B.NỘI DUNG 6 I. Lý luận chung về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức. 6 1.Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức. 6 2.Ý thức tác động trở lại vật chất. 7 3.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 9 II. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. 9 1.Để xây dựng xã hội chủ nghĩa phải nhận thấy nguyên lý ‘vật chất quyết định ý thức’ là phải xuất phát từ thực tế khách quan và hành động theo nó. 10 2.Để xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải hiểu sâu sắc vai trò của ý thức tác động quay trở lại vật chất. 12 C.PHẦN KẾT LUẬN 15 D.PHẦN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 2 A.LỜI NÓI ĐẦU Vật chất – ý thức là mối liên hệ nền tảng cho mọi mối liên hệ khác trong “thế giới” tự nhiên – kinh tế - xã hội... Vì thế, nghiên cứu lý luận về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đóng vai trò hết sức quan trọng, làm nền tảng và kim chỉ nam cho việc nghiên cứu các quy luật vận động chung nhất của toàn bộ thế giới tự nhiên, kinh tế, xã hội, con người. Triết học duy vật biện chứng tiến bộ vfa thành công khác biệt với các trường phái triết học khác, thật sự trở thành môn khoa học của các môn khoa học khác là do triết học duy vật biện chứng đã đưa ra luận điểm khoa học nhất, đúng đắn nhất về mối liên hệ vật chất – ý thức. Xét cho cùng, mọi hoạt động của con người đều nằm trong quỹ đạo của các quy luật tự nhiên – kinh tế - xã hội. Một hành động “hợp quy luật” hay “trái quy luật” suy cho cùng là có tuân thủ đúng quy luật trong mối liên hệ vật chất – ý thức hay không. Một “hành động” hợp quy luật sẽ mang lại các kết quả tích cực, sẽ làm cho sự vật phát triển tích cực và ngược lại, một “hành động” trái quy luật sẽ làm cho sự vật phát triển tiêu cực, thậm chí là gây ra thất bại, đổ vỡ. Đảng và nhà nước ta luôn coi tư tưởng Triết học Mác - Lê Nin là kim chỉ nam cho mọi hành động. Do nhiều các nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau nên khó tránh khỏi những bước thăng trầm. Song, về tổng thể, nhờ vận dụng sáng tạo đúng đắn tư tưởng triết học Mác – Lê Nin vào tình hình cụ thể của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau mà Đảng đã đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đáng chú ý là những thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (đánh đuổi đế quốc Pháp và Mỹ) và cuộc cách mạng XHCN – xây dựng đất nước, đáng chú ý là công cuộc đổi mới của đất nước. 3 B.NỘI DUNG I. Lý luận chung về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức. Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức. 1. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức Theo V.I.Lênin, vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Từ định nghĩa trên của Lênin đã khẳng định vật chất là thực tại của khách quan vào bộ não của con người thông qua tri giác và cảm giác,những gì cơ bản nhất của con người. Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; ý thức là sự phản ánh của vật chất. Thứ nhất, phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có sự ra đời của ý thức. Phải có thế giới xung quanh tự nhiên và xã hội bên ngoài con người tạo ra được ý thức, hay nói cách khác ý thức là sự tương tác giữa bộ não con người và thế giới khách quan. Đi vào thực tế, nếu một người nào đó sinh ra mà bộ não không hoạt động được hay không có bộ não thì không thể có ý thức được. Cũng như câu chuyện hai bé gái được phát hiện sống trong rừng cùng bầy sói, bị tách khỏi xã hội loài người thì hành động của hai bé sau khi trở về xã hội cũng chỉ giống như những con sói. Tức là hoàn toàn không có được ý thức khi không được tiếp xúc với xã hội. 4 Thứ hai, là phải có lao động và ngôn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý thức. Nhờ có lao động mà các giác quan của con người phát triển, phản ánh tinh tế hơn đối với hiện thực. Ngôn ngữ là cầu nối để trao đổi kinh nghiệm, tình cảm, là phương tiện để thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận thấy rằng nguồn gốc của xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức. Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi theo. Ví dụ : Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh về công nghệ thông tin còn yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dạy còn thiếu. Nếu như nền cơ sở vật chất được đáp ứng trong giảng dạy thì trình độ công nghệ thông tin của học sinh nhất định sẽ tốt hơn và phát triển rất nhiều. Qua ví dụ đã khẳng định điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó, và cảm giác tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất còn không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Qua khái niệm về vậy chất đã khắc phục được những quan điển siêu hình máy móc trước đó, định hướng đối với khoa học cụ thể, giúp cho các nhà khoa học có sơ sở lý luận giải thích những nguyên nhân của các biến cố xã hội và tìm các phương án tối ưu để thúc đẩy xã hội chủ nghĩa phát triển. 2.Ý thức tác động trở lại vật chất Trước hết, ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Nó là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu thương, tâm trạng, cảm xúc, ý chí, tập quán, truyền thống, thói quen quan điểm, tư tưởng, lý luận, đường lối, chính sách, kế hoạch, 5 mục đích, biện pháp, phương hướng. Các yếu tố tinh thần này đều tác động trở lại vật chất một cách mạnh mẽ. Ví dụ: Nếu tinh thần của học sinh không tốt thì thành tích học tập sẽ rất kém. Nếu tâm trạng người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng thì dân tộc ta cũng không thể giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nếu không có lý luận chính trị thì cũng không có phong trào cách mạng. Vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người và ý thức không phụ thuộc hoàn toàn vào vật chất mà ý thức có tính độc lập tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở lại vật chất. Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo vật chất. Khi phản ánh đúng hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới quan. Ví dụ : Hiểu được tính chất hóa học của hiđrocacbon, cấu trúc phân tử của chúng để tạo nên các vật chất Polime, từ đó con người tạo ra các nhà máy sản xuất các loại nhựa tổng hợp, tơ sợi nhân tạo…đủ các kích cở, chủng loại theo dây chuyền một cách nhanh chóng chứ không phải bằng phương pháp thủ công như xa xưa. Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới quan. 6 Ví dụ: Nhà máy thủy điện Sông Tranh II huyện Bắc Trà My – Quảng nam là một ví dụ điển hình, từ việc không khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn là nhận thức về tính chất chưa đầy đủ vì vậy khi hoạt động chưa được bao lâu đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho người dân địa phương. 3.Mối liên hệ giữa vật chất và ý thức Trong mối quan hệ này vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh đối với vật chất. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên không chỉ quyết định nội dung mà cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức. Ý thức là một hiện tượng xã hội chỉ có ở con người. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn lịch sử, chịu sự chi phối của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. Thông qua hoạt động thực tiễn mà ý thức con người phát triển ở những trình độ khác nhau, giúp con người hoàn thiện chính bản thân mình bởi sự sống là một sự hoàn thiện cho nhau. II. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. 7 1. Để xây dựng nước ta phát triển về mọi mặt phải nhận thấy nguyên lý vật chất quyết định ý thức là phải xuất phát từ thực tế khách quan và hành động theo nó. Trước thời kì đổi mới, khi cơ sở vật chất còn chưa có chúng ta nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn nên đã phải trả giá. Ở thời kì này chúng ta phát triển quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xất mà không nhìn thấy vai trò của lực lượng sản xuất. Sau chiến tranh, vẫn còn một số bộ phận được coi là sâu mọt của đất nước thì tỏ ra lo ngại, và lợi dụng nhà nước gặp lúc khó khăn để kích động, lôi kéo quần chúng, móc nối với các thế lực phản động bên ngoài gây rối loạn trong nước. Những tệ nạn như ma túy, lưu manh, mại dâm vẫn còn măm me trong từng ngóc ngách của xã hội làm nhiều người thất nghiệp, đình trệ sự phát triển của xã hội. Trong lúc đó, trước tình hình được giải phóng, quần chúng nhân dân rất phấn khởi nhanh chóng bắt tay xây dựng chế độ mới thành một đát nước nông nghiệp với số dân tham gia vào ngành tới hơn 90%. Nhưng chúng ta vẫn xây dựng các nhà máy công nghiệp trong khi lực lượng sản suất chưa phát triển, thêm vào đó là sự phân công không hợp lí về quản lý nhà nước của xã hội, Quyền lực quá tập trung vào Đảng và Nhà nước, quản lý quá nhiều các mặt của đời sống xã hội, thực hiện quá cứng nhắc làm cho toàn xã hội thiếu sức sống, thiếu năng động và sáng tạo. Các giám đốc thời kì này chỉ đến ngồi chơi xơi nước và cuối tháng lĩnh lương, các công nhân, nông dân làm đúng giờ quy định nhưng hiệu quả không cao. Ở đây, chúng ta đã xem nhẹ thực tế phức tạp khách quan của thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, là quá trình lịch sử lâu dài và trải qua nhiều chặng đường. 8 Từ đây chúng ta phải có cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa và cơ sở vật chất phát triển. Chúng ta phải xây dựng lực lượng sản suất phù hợp với quan hệ sản xuất. Chúng ta có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng không thể bỏ qua những tính quy luật chung của quá trình từ sản suất nhỏ đến sản xuất lớn. Chúng ta phải biết kế thừa và phát triển tích cực những kết quả của công nghiệp tư bản như thành tựu khoa học – kĩ thuật và công nghệ - môi trường, là cơ chế thị trường với nhiều hình thức cụ thể tác động vào quá trình phát triển. Để thay đỏi toàn diện nền kinh tế lạc hậu của nước nhà, Đảng xác định là phải phát triển nền kinh tế đa thành phần để tăng sức sống và năng động cho nền kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển các quan hệ hàng hóa và tiền tệ, tự do buôn bán, các thành phần kinh tế tự do kinh doanh và phát triển theo khuôn khổ của pháp luật, được bình đẳng trước pháp luật song song với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền kinh tế thị trường ở nước ta còn nhiều yếu kém và gặp nhiều khó khăn, biểu hiện ở số lượng và chủng loại hàng hóa quá nghèo nàn, khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu còn quá nhỏ,chi phí sản xuất lại quá cao dẫn đến giá thành cao, nhưng chất lượng mặt hàng lại kém. Nhiều loại thị trường quan trọng còn ở trình độ sơ khai hoặc mới đang trong quá trình hình thành như: Thị trường vốn. thị trường chứng khoán, thị trường sức lao động. Đường lối đổi mới năm 1986 được đưa ra lần đầu vào đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12 năm 1986) là đường lối đổi mới tư duy lý luận về xã hội chủ nghĩa nhằm làm cán bộ và nhân dân nhận thức đúng xã hội chủ nghĩa, nhận ra được nguyên nhân của những lạc hậu, sai lầm về lý luận và thực tiễn trong xây dựng xã hôi chủ nghĩa. Đổi mới tư duy là sự đổi mới toàn diện nhận thức. Đặc biệt là về kinh tế, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm, coi việc đưa ra những giải pháp đúng đắn là quan trọng nhất. 9 Dưới áp lực của thực tiễn khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chúng ta cũng cần mở rộng giao lưu kinh tế nước ngoài, nhanh chóng hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, AFTA và các hiệp định song phương đồng thời phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Muốn vậy, ta phải đa phương hóa và đa dạng hóa hình thức và đối tác, phải quán triệt trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, Phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc dân nhằm khai thác tìm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên đất nước, tăng xuất nhập khẩu, thu hút vốn kĩ thuật, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển cơ sở hạ tầng cũng là một trong chủ trương quan trọng của Đảng. Để làm để làm điều này thì chúng ta cần giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính và tiền tệ, giá cả, phát triển các thị trường quan trọng như thị trường chứng khoán và lao động…Nhà nước cần hạn chế việc can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà nên tập trung tốt các chức năng tạo môi trường, hướng dẫn, hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp nước ngoài. Tránh tình trạng giấy tờ phức tạp rắc rối, trên bảo dưới không nghe làm cho quá trình giải tỏa mặt bằng gặp nhiều khó khăn. Với các chủ trương trên ta nhận thấy vai trò quyết định của vật chất với ý thức, đó cũng là bài học quan trọng của Đảng “mọi đường lối chủ trương phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. 2. Để xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải hiểu sâu sắc vai trò của ý thức tác động trở lại vật chất. 10 Một trong những chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước là phải lấy chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam định hướng cho sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mac – Lênin là thự thống nhất giưa chủ nghĩa Mac – Lênin và thực tiễn của đất nước Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa Mac – Lênin đúng đắn và hiệu quả nhất. Muốn hiểu sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cần nắm vững chủ nghĩa Mac – Lênin, nhất là phép biện chứng duy vật và phải nghiên cứu, nắm vững thực tiễn. Chúng ta phải tập trung suy nghĩ về hai mặt: Một là, về mục tiêu, lý tưởng, đạo đức lối sống. Đây là yếu tố cơ bản nhất chi phối mọi suy nghĩ, hành động của chúng ta quyết định phẩm chất của người cán bộ, đảng viên trong điều kiện chuyển biến của thế giới và tình hình trong nước. Tư tưởng của Bác khẳng định mỗi người chúng ta phải nâng cao đạo đức cách mạng, đạo đức công dân và đạo đức của người cộng sản. Cụ thể, chúng ta phải “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, luôn vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh vì lợi ích của cá nhân và cộng đồng. Kiên quyết và nghiêm khắc chống chủ nghĩa thực dụng với các biểu hiện tính đa dạng trong nền kinh tế thị trường mở cửa, thật sự góp phần đẩy lùi nạn tham nhũng và tệ nạn xã hội, ngăn chặn sự thoái hóa biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hai là, về yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, mỗi người trên cương vị trách nhiệm của mình, phải hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả, chất lượng cao, vì vậy, chúng ta phải đề cao ý chí phấn đấu, phấn đấu không mệt mỏi, Không sợ hy sinh, gian khổ, đồng thời phải ra sức trau dồi tri thức. Nâng cao tri thức khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là nâng cao trình độ lý luận về chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tri thức về khoa học tự 11 nhiên, đặc biệt là mũi nhọn về khoa học công nghệ hiện đại. Phải nắm vững phương pháp nhận thức và hành động của Bác, bám sát cơ sở, thâm nhập dân chúng, đánh giá đúng khó khăn thuận lợi, thực trạng và triển vọng. Tự nội lực, vì dân và thực sự dựa vào dân, thực hiện dân chủ lắng nghe và tâm trạng ý kiến của dân và tìm ra chính sách, biện pháp, nguồn vốn sức mạnh vật chất và tinh thần, trí tuệ để vượt qua khó khăn và thách thức. Phấn đấu tốt hai mặt trên là chúng ta đã thực sự quán triệt được tư tưởng Hồ Chí Minh và làm theo di chúc của người, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng mà Người đã chỉ đường để xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Vai trò ý thức tác động lại vật chất cũng phải được hiện rõ ở khía cạnh phát huy tính năng động và tích cực đối với vai trò trung tâm của con người, một số giải pháp cho vấn đề này: Một là, đổi mới hệ thống chính trị dân chủ hóa đời sống xã hội nhằm phát huy đầy đủ tính tích cực và quyền làm chủ của nhân dân. Hai là, đổi mới cư chế quản lý, hoàn thiệ hệ thống chính sách xã hội phù hợp có ý nghĩa then chốt trong việc phát huy tính tích cực của người lao động như: Cơ chế quản lý mới phải thể hiện rõ bản chất của một cơ chế dân chủ, và cơ chế này phải lấy con người làm trung tâm, vì con người, hướng tới con người là phát huy mọi nguồn lực. Cơ chế quản lý mới phải xây dựng đội ngũ quản lý có năng lực và phẩm chất tốt, thành thạo nghề về nghiệp vụ. Ba là, đảm bảo lợi ích của người lao động là động lực mạnh mẽ của quá trình nâng cao tính tích cực của con người: Cần quan tâm đúng mức đến lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế của người lao động đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ hoạt động sáng tạo như ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, nghĩ ngơi. Cũng 12 cần có chính sách đảm bảo và kích thích phát triển về mặt tinh thần, thể chất cho nhân dân, tăng cường xây dựng hệ thống cơ chế chính sách phù hợp để giải quyết tốt vấn đề ba lợi ích tập thể, và lợi ích xã hội nhằm đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của người lao động. Đảng và nhà nước cũng cần khắc phục thái độ trông chờ và ỷ lại vào hoàn cảnh bằng cách nhanh chóng cổ phần hóa các công ty nhà nước để tạo sự năng động, sáng tạo trong hoạt động cũng như cạnh tranh, nhất là trong thời kì hội nhập hiên nay. Đảng cũng phải cương quyết giải thể các công ty làm ăn thua lỗ như: Tổng công ty sành sứ Việt Nam, tổng công ty nhựa, tổng công ty rau quả…để tránh việc nhà nước bỏ vốn vào nhừng lại luôn phải bù lỗ cho các công ty này. Ngoài ra, chúng ta cần năng cao trình độ nhận thức tri thức khoa học cho nhân dân nói chung và đặc biệt đầu tư cho ngành giáo dục. Chúng ta cần xây dựng chiến lược giáo dục, đào tạo, với những giải pháp mạnh mẽ phù hợp để mở rộng quy mô chất lượng ngành đào tạo, đối với nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo, cải tiến nội dung chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với từng đối tượng, trường lớp ngành nghề. Kết hợp giữa việc nâng cao dân trí, phổ cập giáo dục với việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động để đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiêp công nhiệp hóa, hiện đại hóa. Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp trên sẽ kích thích tính năng động và tài năng sáng tạo của người lao động ở nước ta. Sự nghiệp đất nước ngày càng phát triển thì tính tích cực và năng động của con người ngày càng tăng lên một cách hàng hợp với quy luật. C. PHẦN KẾT LUẬN Nói tóm lại, vật chất và ý thức có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó vật chất là cái có trước là thực tại khách quan quyết định ý thức: 13 còn ý thức là cái có sau chịu sự ảnh hưởng của vật chất nhưng cunhx có tác đọng ngược trở lại vật chất, cải tạo vật chất. Mối tác động này được thực hiện thông qua hoạt đọng thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng trong hoạt động thực tiễn của con người. Trong thời kì đổi mới của nước ta khi chuyển nền kinh tế tập trung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Với chủ trương này chúng ta đã giành được một số tháng lợi to lớn, tuy nhiên vẫn còn một số thiếu sót, đặc biệt ở khâu hành động. Đề ra chủ trương là vấn đề quan trọng nhưng thực hiện nó mới là một vấn đề thật sự khó khăn. D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê-Nin 2009 2. Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII 3. Thời báo kinh tế Việt Nam 4. “Chiến lược kinh doanh”, NXB Hà Nội, 2001 5. C.Mac và Ph. Ăngghen toàn tập. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng