Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan điểm của phranxi bêcơn về vai trò của tri thức khoa học và vấn đề phát triể...

Tài liệu Quan điểm của phranxi bêcơn về vai trò của tri thức khoa học và vấn đề phát triển kinh tế tri thức trong thời đại hiện nay

.PDF
201
1
115

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phranxi Bêcơn (Francis Bacon, 1561 – 1626) là nhà triết học duy vật Anh, người sáng lập chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và đồng thời là bố đẻ của khoa học thực nghiệm tự nhiên hiện đại. Các Mác viết: “Người bố đẻ chính tông của chủ nghĩa duy vật Anh và của toàn bộ khoa học thực nghiệm hiện đại là Bêcơn” (63, 195). Là đại biểu tiêu biểu của nền triết học Tây Âu cận đại, Phranxi Bêcơn được xem là người đồng sáng lập tinh thần triết học mới cùng với nhà triết học người Pháp, Rơnê Đềcáctơ (René Descartes, 1596 – 1650). Phranxi Bêcơn thực sự để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử triết học nói riêng và lịch sử tư tưởng nói chung với phong cách tư duy mới, thể hiện bước phát triển tất yếu của tư duy con người trước những biến đổi lớn lao của thực tiễn. Nước Anh, cũng như toàn thể châu Âu ở thế kỷ XVI – XVII, diễn ra những sự thay đổi bước ngoặt trong phương thức sản xuất, dẫn đến những sự biến chuyển trong đời sống tinh thần xã hội. Đó là thời đại nối tiếp tinh thần văn hoá Phục hưng, đấu tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến và giáo hội, từng bước hình thành phương thức sản xuất mới với vai trò lịch sử của giai cấp tư sản, đêm trước của các cuộc cách mạng tư sản. Phranxi Bêcơn, từ đỉnh cao của một nhà chính trị, vị thế của một nhà tư tưởng, triết gia, bằng vốn sống và kinh nghiệm của mình, bằng năng lực nhạy bén và sáng suốt của mình, đã thâu tóm được những biến đổi của thời đại và đưa ra những phương án cải cách đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cuộc sống. Ông là người đầu tiên lên tiếng đòi trả lại phẩm giá cho khoa học đã bị chìm lấp trong đêm trường trung cổ bởi thần học. Ngay từ rất sớm, (1592), khi đang còn ở nấc thang danh vọng của sự nghiệp chính trị, Phranxi Bêcơn đã đưa ra một lời hứa, được coi là mục đích của cuộc đời ông, đó chính là 2 việc cải tổ sinh hoạt khoa học, nhằm xác định vai trò, mục đích của khoa học là hướng đến phục vụ cuộc sống thực tiễn của con người. Ông đã thực hiện một chương trình đồ sộ để Đại phục hồi khoa học (Instauratio Magna Scientarum / The Great Instauration). Theo ông, nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt đến tri thức khoa học. Tri thức khoa học phải được đưa từ trên tháp ngà xuống với đời thường, đảm đương nhiệm vụ thực tiễn, trang bị cho con người ngọn đuốc trí tuệ, thâm nhập vào cõi bí hiểm của tự nhiên. Để đạt đến tri thức khoa học, là tri thức đối lập với tri thức kinh viện xa rời thực tiễn, giáo điều, trống rỗng, Phranxi Bêcơn chỉ ra những sai lầm, ngẫu tượng (Idola / Idols) trong nhận thức và sự cần thiết phải xoá bỏ chúng ra khỏi lý trí của con người. Trên cơ sở làm sạch lý trí, Phranxi Bêcơn đưa ra phương pháp nhận thức khoa học mới – phương pháp thực nghiệm khoa học qui nạp (The Inductive Scientific Empirical Method), hướng dẫn con người đạt đến tri thức hữu dụng, thứ tri thức biến thành sức mạnh, giúp con người khẳng định quyền lực của mình trước tự nhiên. Trong triết học Phranxi Bêcơn, tinh thần phê phán và tinh thần khám phá gắn kết với nhau: phê phán hình thức tri thức trung cổ và các ngẫu tượng trong nhận thức, phục hồi vị trí của tri thức khoa học trong đời sống xã hội. Tinh thần phê phán và khám phá của triết học Phranxi Bêcơn đã ảnh hưởng sâu rộng đến nền triết học Anh và Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII. Đặc biệt, tuyên bố của ông “Tri thức là sức mạnh” đã trở thành tuyên ngôn của thời đại. Đoạn tuyệt với triết học kinh viện và các hình thức tri thức trung cổ, các nhà khoa học và triết học hướng sự nghiên cứu của mình vào việc phục vụ nhu cầu thực tiễn. Những phát minh khoa học ra đời được ứng dụng rộng rãi, nhằm nâng cao sức sản xuất xã hội. Các tổ chức, thiết chế khoa học (Institutions of Sciences) được thiết lập. Tri thức khoa học từng bước giúp con người nhận thức giới tự nhiên, chinh phục tự nhiên, khẳng định quyền lực 3 con người trước tự nhiên. Với vai trò mở đường cho tinh thần triết học mới, Phranxi Bêcơn đã tạo ra một thời đại sôi động và cách mạng trong triết học, trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống lại trật tự phong kiến và giáo hội và những uy quyền tư tưởng trung cổ. Khẳng định của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học trong đời sống xã hội suốt mấy thế kỷ qua vẫn tiếp tục được triển khai bởi các trào lưu triết học ở phương Tây. Thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ như hệ quả tất yếu của sự phát triển tư tưởng của nhân loại trong việc đề cao tri thức khoa học, trí tuệ con người. Sự phát triển xã hội gắn liền với những thành tựu to lớn của khoa học kỹ thuật và công nghệ thể hiện năng lực tư duy và sức sáng tạo vô tận của con người. Sau gần 400 năm, tinh thần triết học Phranxi Bêcơn được chứng minh một cách trọn vẹn ở thời đại của chúng ta – thời đại kinh tế tri thức. Vào thập niên năm mươi của thế kỷ XX, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã khẳng định một thời đại mới, thời đại mà khoa học thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, góp phần to lớn vào sự phát triển của xã hội. Làn sóng văn minh, trí tuệ đang lan toả toàn cầu, kéo theo nó là sự ra đời nền kinh tế tri thức. Điều đó càng chứng tỏ giá trị bền vững của tư tưởng Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học. Tri thức khoa học đang dường như trở thành một thứ quyền lực tối thượng trong xã hội ngày nay. Vì thế, việc tìm hiểu quan điểm của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học trong đời sống xã hội hết sức có ý nghĩa đối với chúng ta trong bối cảnh xây dựng và phát triển kinh tế tri thức. Trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những giá trị tư tưởng của nhân loại theo tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta nghiên cứu tư tưởng của Phranxi Bêcơn với mục đích làm rõ quan điểm của ông về tri thức khoa học và vai trò – sức mạnh của nó trong thực tiễn cải tạo tự nhiên và phát triển xã hội. Qua đó, chúng ta làm rõ được ý nghĩa to lớn của tri thức khoa học và khả năng vận dụng những thành quả trí 4 tuệ của con người vào quá trình xây dựng một xã hội lý tưởng, giàu mạnh dựa trên quyền lực của tri thức, gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay. Từ nhận thức trên, tác giả chọn đề tài “Quan điểm của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học và vấn đề phát triển kinh tế tri thức trong thời đại hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình. Nghiên cứu sinh cũng nhận thấy rằng trong cương lĩnh cải tổ tri thức khoa học, để khoa học thực hiện sứ mệnh của mình là khẳng định quyền lực của con người trước tự nhiên, thúc đẩy sự phát triển xã hội, Phranxi Bêcơn chưa thể tiếp cận đầy đủ quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm thực tiễn, do đó những ý tưởng của ông được triển khai theo từng tác phẩm và chỉ mang tính thông điệp, hơn là những nội dung cụ thể về vai trò tri thức khoa học trong việc phát triển kinh tế, trong quản lý xã hội, trong chính trị, trong văn hoá, trong giáo dục. Tính chất cụ thể và sâu rộng về vai trò của tri thức khoa học được tiếp tục làm rõ ở các thời đại sau, đặc biệt là ở chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phranxi Bêcơn là đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII – XVIII. Do đó, các công trình nghiên cứu về lịch sử triết học phương Tây phần lớn đều đề cập đến thân thế, sự nghiệp, các tác phẩm và tư tưởng triết học của ông. Các tác giả đều ghi nhận công lao to lớn của Phranxi Bêcơn trong việc bảo vệ và phát triển khoa học đúng với chức năng và nhiệm vụ của nó. Tại các nước châu Âu và Mỹ, di sản tư tưởng của ông đã được khai thác, tìm hiểu từ nhiều góc độ khác nhau, trong đó có quan điểm của Phranxi Bêcơn về khoa học, vai trò của tri thức khoa học trong đời sống xã hội. Triết học của Phranxi Bêcơn nói chung, quan điểm của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học nói riêng, được tìm hiểu theo hai hướng. Hướng thứ nhất, công bố rộng rãi các tác phẩm nguyên bản kèm theo giới thiệu một 5 cách tổng thể, khái quát và súc tích nội dung, giá trị và hạn chế lịch sử của triết học Phranxi Bêcơn; Hướng thứ hai, thực hiện các chuyên khảo về Phranxi Bêcơn, phân tích từng vấn đề trong học thuyết của Phranxi Bêcơn. Hai hướng nghiên cứu này về Phranxi Bêcơn diễn ra song song với nhau từ trước tới nay trên thế giới. Trước hết, có thể kể đến một số công trình về Phranxi Bêcơn của các tác giả ngoài nước như Fulton H. Anderson với tác phẩm Francis Bacon – His career and his thought, (Los Angeles, University of Southern California Press, 1962), tác giả Loren Eiseley (1973) với The Man Who Saw Through Time, (New York, Scribners), tác giả B.Farrington (1999) với Francis Bacon – Philosopher of Industrial Science, (New York), tác giả J.Fourastié (1957) với A.Laleuf. Revolution ql’Quest, Pari, tác giả Stephen Gaukroger (2001) với Francis Bacon and the Transformation of Early-morden Philosophy, (Cambridge, U.K, New York, Cambridge University Press), tác giả Paolo Rossi (1968) với Francis Bacon: from Magic to Science, (Trans, Sacha Rabinovitch, Chicago, University of Chicago Press), tác giả Brian Vikers (1978) với Francis Bacon, (Harlow, UK, Longman Group), Vikers, Brian, Ed (1996) với Francis Bacon, (New York, Oxford University Press), Charles Whitney (1986) với Francis Bacon and Mordenity, New Haven, CN, Yale University Press… Trong cuốn Francis Bacon – Philosopher of Industrial Science, (New York), tác giả B.Farrington đã giải thích mục đích chính của Phranxi Bêcơn chủ yếu là vấn đề thực tiễn và khoa học công nghiệp, thể hiện giá trị to lớn của tư tưởng triết học của Phranxi Bêcơn trong vấn đề phát triển xã hội. Fulton H. Anderson trong tác phẩm Francis Bacon – His career and his thought trình bày khá công phu về cuộc đời hoạt động và nghiên cứu của Phranxi Bêcơn, danh tiếng và những năm tháng ngồi ở vị trí quan trọng của một nhà chính trị, một số 6 những công trình của Phranxi Bêcơn, đặc biệt là The New Organon tức Công cụ mới. Đây là một tác phẩm được phát hành nhân kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Phranxi Bêcơn, như là một sự tri ân đối với người đã có ảnh hưởng trực tiếp đến thời đại của mình và là người mở đường cho tinh thần triết học mới của thời đại mới – thời đại triết học và khoa học hướng đến thực tiễn, thể hiện vai trò và sức mạnh của mình trong thực tiễn. Tác giả Paolo Rossi vào năm 1968 phát hành cuốn Francis Bacon: From Magic to Science. Trong tác phẩm này, tác giả đã bàn về tư tưởng và hoạt động của Phranxi Bêcơn trong bối cảnh tác động của môi trường văn hoá Tây Âu cũng như sự ảnh hưởng trở lại của tư tưởng Phranxi Bêcơn với xã hội. Tác giả đã kiểm nghiệm sự ảnh hưởng của truyền thống không tưởng và huyền thoại đối với Phranxi Bêcơn và vị trí của ông trong truyền thống ấy, như là một nhà tự nhiên học, một nhà duy vật và những khuôn mẫu chính trị – đạo đức trong sự giải thích đầy say mê mang tính không tưởng của Phranxi Bêcơn. Loren Eiseley (1973) viết The Man Who Saw Through Time được xem như là sự tri ân của một người Mỹ đối với Phranxi Bêcơn. Trong cuốn sách được viết trau chuốt của mình, Loren Eiseley nhấn mạnh rằng, hơn tất cả những người cùng thời đại, Phranxi Bêcơn đã diễn giải quan điểm về vũ trụ như là một vấn đề có thể giải quyết, xem xét, suy tính trong hành trình của con người, hay hơn là xem vũ trụ như là một cấu trúc hoàn chỉnh có giới hạn và bất biến, không thể lý giải. Ông ca ngợi Phranxi Bêcơn với tư cách là người mang lại một cách nhìn nhận mới về thế giới với tinh thần đầy khám phá, phát hoang để tìm đến những vùng đất mới, mà trước hết là sự thay đổi về cách tư duy. Charles Whitney (1986) với Francis Bacon and Mordenity đã có sự nghiên cứu nhiều mặt về Phranxi Bêcơn một cách công phu mặc dầu vẫn 7 dừng lại ở mức độ khái quát những vấn đề mà Phranxi Bêcơn khởi xướng. Tác giả nhận định Phranxi Bêcơn đã làm cuộc cách mạng trí tuệ, kết nối quá khứ và hiện tại bằng bản lĩnh và tinh thần của một phong cách mới. Đây là một tác phẩm có giá trị trong việc tiếp cận với tư tưởng của Phranxi Bêcơn. Tác giả Will Durant, với lối viết theo phong cách kể chuyện, đã nhắc đến Phranxi Bêcơn như một huyền thoại về lòng say mê khoa học, trong Câu chuyện triết học (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2000). Đặc biệt, Các Mác trong “Gia đình thần thánh” đã nhận định về Phranxi Bêcơn với vai trò là người mở đường cho khoa học tự nhiên hiện đại, cho thấy Phranxi Bêcơn là một triết gia có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của khoa học và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Sau C.Mác, nhà tương lai học Anvin Tốphlơ (Anvil Toffler) là người ủng hộ, cổ súy cho những quan điểm tích cực, tiên phong mang tính thực tiễn của Phranxi Bêcơn. Ông nhiều lần nhắc đi nhắc lại tinh thần triết học của Phranxi Bêcơn “Tri thức là sức mạnh”. Trong tác phẩm “Thăng trầm quyền lực” tác giả Anvin Tốphlơ cũng đã nhiều lần nhắc đến mối liên hệ lịch sử giữa Phranxi Bêcơn và thời đại ngày nay - thời đại kinh tế tri thức. Tương tự, trong tác phẩm “Cú sốc tương lai”, Anvin Tốphlơ đã trích dẫn câu nói được xem như tuyên ngôn của Phranxi Bêcơn “Tri thức là sức mạnh” và nhấn mạnh đặc tính thời đại của tri thức “Tri thức là biến đổi”. Tác giả cũng đã tiếp cận những tác phẩm gốc tiếng Anh quan trọng chứa đựng nguyên tác của Phranxi Bêcơn đóng vai trò nền tảng cho luận án gồm : “The English Philosophers from Bacon to Mill”(The Modern Library, 1939), “The Works of Lord Bacon” (London, 1995), “From Descartes to Kant của T.V.Smith và Marjorie (1994)”. Một số tài liệu bằng tiếng Nga viết về Phranxi Bêcơn như tác phẩm Bí mật của “Átlantích mới”của Ph. Bêcơn của Putilov S. trong t/c “Người cùng 8 thời” (Путилов С. Тайны «Новой Атлантиды» Ф. Бэкона // Наш современник, № 2. С.171-176, 1993). Đặc biệt quan trọng là quyển “F.Bacon, Tác phẩm, gồm 2 tập (Фрэнсис Бэкон, Сочинения в двух томах. Москва, Мысль, 1971 - 1972) in nhiều tác phẩm quan trọng của Phranxi Bêcơn như Đại phục hồi khoa học, Công cụ mới, Về phẩm giá và sự phát triển của khoa học… Trong đó, tác giả J.P.Mikhalencô (1975) với Ph.Bêcơn và học thuyết của ông (Ю. П. Михаленко: Ф.Бэкон и его учение; Издательство “Наука”, Москва, 1975) đã có nhiều phân tích sắc sảo về Phranxi Bêcơn và đánh giá cao vai trò tư tưởng triết học của ông. Tại Việt Nam tư tưởng triết học của Phranxi Bêcơn được xem xét trong dòng chảy của lịch sử triết học phương Tây thế kỷ XVII – XVIII, mà Phranxi Bêcơn và Rơné Đềcáctơ là những người mở đường. GS.TS Nguyễn Hữu Vui trong Lịch sử triết học (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998), trình bày khái quát tư tưởng triết học của Phranxi Bêcơn về thế giới quan, nhận thức luận, phương pháp luận. Tác giả đề cập đến học thuyết ảo tượng (ngẫu tượng) của Phranxi Bêcơn và việc xây dựng phương pháp mới của ông – phương pháp qui nạp khoa học. Tác giả Lê Tôn Nghiêm trong “Lịch sử triết học Tây phương” do nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2000 cũng nhấn mạnh dấu ấn của Phranxi Bêcơn trong lịch sử tư tưởng phương Tây nói riêng và nhân loại nói chung. Trong cuốn “Lịch sử thế giới cổ trung đại” do Bộ giáo dục và Đào tạo ấn hành năm 2004, tư tưởng triết học Phranxi Bêcơn được xem như điểm xuất phát cho công cuộc cải tổ môi trường tri thức ở Anh đêm trước của cách mạng tư sản 1640 – 1642. Trong cuốn “Đại cương lịch sử triết học phương Tây” (Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh), PGS.TS Đỗ Minh Hợp và PGS.TS Nguyễn Thanh cùng TS. Nguyễn Anh Tuấn bằng cách tiếp cận lôgíc – lịch sử đã phân tích tư 9 tưởng triết học Phranxi Bêcơn trong mối liên hệ với thời đại tư bản chủ nghĩa, đồng thời nhấn mạnh dấu ấn Phranxi Bêcơn trong tư tưởng hiện đại. Trước đó, vào những năm sáu mươi của thế kỷ trước, vai trò của Phranxi Bêcơn, Rơné Đềcáctơ và nhiều nhà tư tưởng cận đại được nhắc đến, chẳng hạn trong cuốn “Lịch sử triết học – triết học thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa” (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960). Những nghiên cứu của PGS.TS Đinh Ngọc Thạch về lịch sử triết học phương Tây trong cuốn “Đại cương lịch sử triết học phương Tây” (Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1993) và các chuyên đề triết học sau đại học chuyên triết góp phần nhìn nhận Phranxi Bêcơn không chỉ từ góc độ người sáng lập triết học cận đại, mà còn từ góc độ sâu xa của thuyết kỹ trị hiện đại. Bên cạnh những tác phẩm bàn về tư tưởng triết học Phranxi Bêcơn là những tài liệu nghiên cứu về kinh tế tri thức của rất nhiều tác giả trong nước và trên thế giới. Có thể kể đến những báo cáo tranh luận tại các Hội thảo về kinh tế tri thức, những bài viết đăng trên các tạp chí khoa học, diễn đàn, Internet…và các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học… Trong đó, ở Việt Nam đã có rất nhiều tác giả có uy tín nghiên cứu về kinh tế tri thức, như GS Đặng Hữu với cuốn “Kinh tế tri thức – Thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam”, Đặng Hữu (2002), “Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng sản; Hoàng Thu Hòa (2001), Kinh tế tri thức – Vấn đề và giải pháp; Lưu Ngọc Trịnh (2002), Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức trên thế giới (Nxb. Giáo dục, Hà Nội)... Trong các công trình nghiên cứu về Phranxi Bêcơn đã nêu ở trên, việc xem xét quan điểm của Phranxi Bêcơn về tri thức khoa học, ảnh hưởng của quan điểm đó đến thế giới hiện đại chưa được đề cập, phân tích có hệ thống. Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu của các tác giả về Phranxi Bêcơn, luận án đi sâu vào nghiên cứu quan điểm của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức 10 khoa học và vấn đề phát triển kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay, với tư cách là một công trình nghiên cứu độc lập. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích của luận án: Thông qua việc trình bày, phân tích và làm sáng tỏ quan điểm của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học, luận án chỉ ra ảnh hưởng và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng Phranxi Bêcơn đối với sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong thời đại ngày nay. Để đạt được mục đích trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ sau: - Phân tích điều kiện lịch sử và những tiền đề dẫn đến sự hình thành tư tưởng triết học Phranxi Bêcơn nói chung và quan điểm của Phranxi Bêcơn về tri thức khoa học nói riêng. - Phân tích, làm rõ nội dung và ý nghĩa của Dự án “Đại phục hồi khoa học” của Phranxi Bêcơn, phê phán tri thức kinh viện và các ngẫu tượng của nhận thức, làm rõ phương pháp luận khoa học của Phranxi Bêcơn, khái quát và vạch ra ý nghĩa của tác phẩm “Átlantích mới”, qua đó thể hiện tư tưởng của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học trong đời sống xã hội. - Rút ra ý nghĩa của quan điểm “Tri thức là sức mạnh” do Phranxi Bêcơn xây dựng, từ đó nêu lên mối liên hệ lịch sử giữa quan điểm về tri thức của Phranxi Bêcơn trong dòng chảy tư tưởng của nhân loại và sự phát triển kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay, làm rõ tính tất yếu và những vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức, phân tích và trình bày những điều kiện, tiền đề, thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm phương pháp phân 11 tích và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp, lôgíc và lịch sử, hệ thống và cấu trúc, so sánh, đối chiếu, lý luận thống nhất với thực tiễn… 5. Đóng góp mới của luận án Thứ nhất, với sự nghiên cứu các tác phẩm gốc của Phranxi Bêcơn bằng tiếng Anh và tiếng Nga, luận án đã góp phần giới thiệu tư tưởng của Phranxi Bêcơn nói chung và hệ thống hoá toàn bộ tư tưởng của ông về vai trò của tri thức khoa học và làm rõ quan điểm nổi tiếng “Tri thức là sức mạnh” của Phranxi Bêcơn. Thứ hai, thông qua trình bày, phân tích toàn bộ tư tưởng của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học, luận án đã chỉ ra được giá trị, ảnh hưởng và ý nghĩa của tư tưởng Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển xã hội, đặc biệt là đối với sự phát triển kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay. Thứ ba, từ luận giải về tính tất yếu của phát triển kinh tế tri thức trên thế giới và ở Việt Nam, luận án đã góp phần làm rõ những điều kiện, tiền đề, thực trạng và các giải pháp cho vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Thứ tư, qua phương pháp nghiên cứu lôgíc – lịch sử, luận án đã chỉ rõ dòng chảy tư tưởng xuyên suốt về vai trò của của tri thức khoa học đối với sự phát triển xã hội trong lịch sử tư tưởng nhân loại theo tinh thần kế thừa và phát triển. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn Về ý nghĩa lý luận, trên cơ sở trình bày và phân tích quan điểm của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học trong đời sống xã hội thông qua dự án “Đại phục hồi khoa học”, học thuyết về ngẫu tượng, về phương pháp luận qui nạp khoa học, về “Átlantích mới”, luận án góp phần làm rõ hệ thống triết học của ông. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị đối với việc 12 tìm hiểu lịch sử triết học phương Tây thế kỷ XVII – XVIII, triết học Anh nói chung và tư tưởng của Phranxi Bêcơn nói riêng. Đặc biệt, từ mối liên hệ giữa tư tưởng Phranxi Bêcơn với quá trình hiện thực hóa vai trò của tri thức khoa học, mà đỉnh cao là sự ra đời nền kinh tế tri thức, luận án làm sáng tỏ thêm qui luật kế thừa và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Luận án cung cấp những luận cứ cho vấn đề phát triển kinh tế tri thức. Đồng thời, những nghiên cứu của luận án về vai trò của tri thức khoa học và những vấn đề lý luận về kinh tế tri thức có thể góp phần tạo lập cơ sở cho những chiến lược, sách lược phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Về ý nghĩa thực tiễn, luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trong thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế tri thức trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, mà nổi bật là quan điểm về sự ứng dụng thành quả trí tuệ con người vào việc xây dựng xã hội văn minh, phát triển dựa trên quyền lực tri thức. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu luận án bao gồm 3 chương, 8 tiết. 13 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHRANXI BÊCƠN 1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHRANXI BÊCƠN Quá trình phát triển của lịch sử triết học xét đến cùng là do những điều kiện kinh tế – xã hội qui định và phụ thuộc vào trình độ tri thức của từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Các dòng triết học trong lịch sử, dù là triết học phương Đông hay phương Tây, đều luôn có mối liên hệ nội tại khách quan. Triết học phương Tây trong lịch sử phát triển của mình thể hiện tính qui luật kế thừa và phát triển một cách đa dạng và đặc sắc. Từ sự phát triển rực rỡ của triết học thời kỳ Hy Lạp – La Mã, đến sự thống trị uy quyền của thần học trung cổ, sự trở về với những giá trị văn hoá cổ đại của triết học Phục hưng, hay tinh thần tiên phong, khám phá của triết học cận đại, cho đến các trào lưu triết học hiện đại sau này, tất cả đều để lại những dấu ấn đậm nét và ảnh hưởng đến sự phát triển của đời sống văn hoá tinh thần nói riêng và xã hội nói chung. Ở thời kỳ của Phranxi Bêcơn, nước Anh đang trong quá trình chuyển biến từ trung cổ sang cận đại, nghĩa là trong đời sống xã hội đang diễn ra quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản. Tuy nhiên, trong trường học, triết học trung cổ vẫn đang ngự trị làm nặng nề, khô cứng đời sống tư tưởng, tinh thần của xã hội lúc bấy giờ. Thế giới quan triết học thống trị trong sự phát triển tinh thần của xã hội phong kiến là chủ nghĩa kinh viện. Chủ nghĩa kinh viện mang tính tôn giáo thần bí, các nhà triết học chủ yếu là các nhà thần học. Họ đều lấy việc chứng minh sự tồn tại của Thượng đế, thần thánh làm nhiệm vụ 14 trung tâm. Sự hưng thịnh và suy vong của triết học kinh viện gắn liền với toàn bộ tiến trình lịch sử ở Tây Âu thế kỷ IX – XV, và có ảnh hưởng to lớn đến nội dung tư tưởng của thời đại với tư cách là một nền chuyên chính tinh thần như nhận định của Ph.Ăngghen. Hai vấn đề chi phối toàn bộ nội dung của triết học kinh viện là quan hệ giữa tri thức và niềm tin và cuộc tranh luận xoay quanh khái niệm phổ biến (universia hay genera). Những tên tuổi tiêu biểu cho triết học kinh viện trung cổ như Xcốt Erigơn (Scot Erigène, 810 – 877), Tômát Đaquin (Thomas D’Aquin, 1225 – 1274), Đunxcốt (Duns Scotus, khoảng 1265 – 1308)… Thế kỷ XIII là đỉnh cao của triết học kinh viện, nhưng đồng thời cũng báo hiệu sự sụp đổ của nó. Ngay vào thời điểm ấy đã xuất hiện nhiều nhà khoa học thực sự chống lại những cơ sở xã hội của chế độ phong kiến nói chung, ý thức hệ nói riêng. Tiêu biểu cho tinh thần phê phán là Rôgơ Bêcơn (Roger Bacon, khoảng 1241 – 1292), Guyliam Ốccam (William O’cam, 1300 – 1350)… Theo nhận định của Phranxi Bêcơn, triết học kinh viện trung cổ không có gì khác hơn là sự lặp lại buồn chán những chân lý đã chết, sự mô phỏng và tán dương theo ý đồ của những cây đại thụ về tư tưởng mà không hề có bất kỳ phát hiện nào có giá trị thực tiễn. Chính thực tiễn sinh hoạt tinh thần của xã hội lúc bấy giờ đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành tư tưởng triết học của Phranxi Bêcơn, với vai trò là người mở đường cho phong cách tư duy mới. Cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, nước Anh, cũng như toàn Tây Âu, diễn ra những thay đổi mang tính bước ngoặt trong lịch sử. Trước hết là sự biến đổi trong phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất tư bản, hình thành từ trong lòng xã hội phong kiến, từng bước trở thành phương thức sản xuất thống trị. Sự ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa gắn với nhu cầu phát triển khoa học, kỹ thuật, cải tiến công cụ sản xuất. Đồng hồ cơ khí và máy hơi 15 nước là hai chỉ số quan trọng của nền sản xuất, với vị trí phát triển hàng đầu của cơ học. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với khả năng tạo ra thị trường kinh tế thống nhất, đã làm tan rã những cát cứ phong kiến lâu đời thời trung cổ, góp phần phá vỡ các quan hệ xã hội lỗi thời, làm đơn giản hoá môi trường giao tiếp, kích thích tính sáng tạo của cá nhân, tạo nên hệ biến thái mới trong đánh giá hoạt động của con người, xác lập những giá trị, những chuẩn mực phù hợp với thời đại đang biến đổi nhanh chóng. Có thể khẳng định rằng bằng việc thúc đẩy nhanh hơn tiến trình lịch sử – xã hội, thời đại tư bản trở thành thời đại năng động nhất, biện chứng nhất so với các thời đại đã qua. Cùng với sự biến đổi của phương thức sản xuất là quá trình hình thành các nhà nước chuyên chế tập quyền, mở đường cho sự xác lập hàng loạt các quốc gia tư sản hiện đại sau này, góp phần thúc đẩy quá trình giao lưu, hợp tác về kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc với hiệu quả cao hơn trước, đẩy mạnh khả năng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, nước Anh cũng không nằm ngoài xu hướng vận động đó. Tại Anh, từ cuối thế kỷ XV đã xuất hiện bước chuyển biến mở đường cho quan hệ tư bản chủ nghĩa, mà điển hình là phong trào khoanh chiếm đất. Phong trào này đến cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII càng diễn ra quyết liệt. Điều đó xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu: thứ nhất, cuối thế kỷ XVI, công nghiệp đã có những phát triển nhất định, làm cho nhu cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp ngày càng gia tăng, dẫn đến giá cả các loại nguyên liệu và lương thực tăng cao; thứ hai, đến đầu thế kỷ XVII, giữa địa tô theo tập quán phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch ngày càng lớn. Các địa chủ thấy rằng, đem ruộng đất cho các nhà tư bản nông nghiệp thuê, có lợi hơn là tiến hành bóc lột phong kiến đối với nông dân. Kết quả là từ nửa sau thế kỷ XVI, nước Anh trở thành quốc gia điển hình về tích luỹ tư bản nguyên thuỷ và hình thành nền kinh tế tư bản chủ 16 nghĩa ở nông thôn tại nước Anh. Những địa chủ tiến hành việc khoanh chiếm đất, hoặc là họ đứng ra kinh doanh nông trường theo dạng tư bản chủ nghĩa, hoặc là đem số đất đó cho các nhà tư bản nông nghiệp thuê, đều trở thành những người có mối liên hệ trực tiếp với tư bản chủ nghĩa, tức họ trở thành giai cấp tư sản. C.Mác gọi những địa chủ quí tộc dạng này là tầng lớp “quí tộc mới”, để phân biệt với quí tộc phong kiến. Bên cạnh lĩnh vực nông nghiệp, các ngành công thương nghiệp cũng diễn ra nhiều sự thay đổi. Ngành công nghiệp dệt len nỉ – một ngành công nghiệp “dân tộc” của nước Anh, từ thế kỷ XVI đã xuất hiện nhân tố tư bản chủ nghĩa. Nhiều ngành sản xuất đã sử dụng các hình thức công trường thủ công và dần dần mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của công trường thủ công, cũng như sự tăng trưởng của mậu dịch đối ngoại, đã thúc đẩy ngành tài chính phát triển theo. Mặc dù công thương nghiệp của Anh không phát triển lắm, nhưng sự phát triển chung của chủ nghĩa tư bản tại Anh, nếu so với các nước châu Âu, thì thành tựu của nó to lớn hơn nhiều. Điều này là do mức độ xâm nhập nông nghiệp của chủ nghĩa tư bản ở Anh rất cao mà các quốc gia khác không bằng. Về xã hội, sự biến động về kinh tế dẫn đến những thay đổi to lớn về mặt cơ cấu giai cấp, đặc biệt là ở nông thôn. Tầng lớp quí tộc mới có khuynh hướng tư sản hoá chiếm vị trí đặc biệt trong cơ cấu chính trị - xã hội của nước Anh ở đêm trước cách mạng tư sản. Tầng lớp này được hưởng những đặc quyền và địa vị giống như tầng lớp quí tộc phong kiến cũ, nhưng địa vị kinh tế cao hơn rất nhiều. Nếu so sánh với giai cấp tư sản công thương nghiệp, tầng lớp quí tộc mới cũng tỏ ra ưu thế hơn, vì hầu hết đều được giữ các vị trí quan chức tại địa phương. Ruộng đất của tầng lớp quí tộc mới không còn mang tính phong kiến, mà chuyển dần sang tính chất tư sản. Kinh tế của các nhà quí tộc mới luôn hỗ tương thích hợp với công nghiệp tư bản 17 chủ nghĩa, vì quyền lợi của họ hoàn toàn nhất trí với quyền lợi của giai cấp tư sản. Vì có những thành phần quí tộc mới kiêm nhiệm việc kinh doanh công thương nghiệp, cũng như vì thành phần những quí tộc mới luôn được bổ sung từ giới thương gia, cho nên giữa quí tộc mới và giai cấp tư sản đã trở thành khối đồng minh. Những nghị viên quốc hội thuộc thành phần quí tộc mới ở Hạ viện lúc bấy giờ cũng là người phát ngôn đại biểu cho giai cấp tư sản. Trong sự liên minh giữa giai cấp tư sản và quí tộc mới, địa vị của giới quí tộc mới bao giờ cũng hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, những quí tộc phong kiến không tham gia phong trào khoanh chiếm đất vẫn tiếp tục kinh doanh theo kiểu phong kiến, tức là dựa vào sự bóc lột phong kiến đối với nông dân. Mặc dù về kinh tế, những quí tộc cũ này bị suy sụp, nhưng về mặt chính trị họ vẫn là người trong giai cấp thống trị. Số phận của họ luôn gắn chặt với chế độ phong kiến. Do vậy, cùng với tầng lớp tăng lữ trong giáo hội quốc giáo, họ thuộc tập đoàn phản động nhất nước Anh. Trước tình trạng bóc lột của giai cấp địa chủ, đời sống của những người nông dân hết sức khốn khó. Yêu cầu bức xúc của họ là huỷ bỏ ngay chế độ phong kiến và nhận lại đất đai đã bị khoanh chiếm. Những công nhân làm thuê trong các công trường thủ công sống nghèo khó và người lao động ở thành thị cũng luôn bị áp bức về mặt chính trị của chế độ chuyên chế. Vì thế, các cuộc đấu tranh của người lao động liên tiếp nổ ra. Trong khi đó, giai cấp tư sản Anh ngày càng lớn mạnh, mà trước hết là những nhà tư bản nông nghiệp và những nhà tư bản công thương thành phố. Theo đà phát triển của công trường thủ công, thế lực của giai cấp tư sản công nghiệp bắt đầu vươn lên, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Nhìn chung, xã hội nước Anh cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII đã diễn ra những biến đổi mang tính cách mạng, báo trước sự sụp đổ của chế độ chuyên chế phong kiến, tạo tiền đề cho cuộc cách mạng tư sản Anh 1640. 18 Chính những biến đổi trong đời sống kinh tế, xã hội đã tác động đến sinh hoạt tinh thần tại Anh. Mặc dầu nước Anh theo tín ngưỡng Thiên chúa giáo rất sớm, nhưng đến thế kỷ XVI đã diễn ra phong trào cải cách tôn giáo dưới chủ trương của vua Henry VIII. Trong cuộc cải cách tôn giáo này, vua Henry đã cắt đứt mối quan hệ giữa các giáo hội của nước Anh với Giáo hoàng La Mã, lập ra giáo hội quốc giáo nước Anh. Về mặt giáo lý, quốc giáo Anh cơ bản giống với Thiên chúa giáo. Nhưng, thay vì quyền lực tối cao thuộc về Giáo hoàng La Mã thì nay thuộc về nhà vua nước Anh. Tầng lớp quí tộc mới thuộc giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh, dần dần cảm thấy quốc giáo không có lợi cho sự phát triển của họ. Để chống lại quốc giáo, giai cấp tư sản đã lấy giáo lý sẵn có của giáo phái Canvanh (Calvin) làm vũ khí đấu tranh. Giáo phái này ở Anh còn được gọi là Thanh giáo với ý nghĩa là thanh trừ những tàn tích của Thiên chúa giáo. Giáo lý của Thanh giáo thể hiện rõ ý thức hệ của giai cấp tư sản. Các tín đồ Thanh giáo tuyên truyền rộng rãi đạo đức, tôn giáo mới và những tổ chức chính trị của giai cấp tư sản. Họ đã đoàn kết giai cấp tư sản và quí tộc mới trong quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa chuyên chế. Tuy nhiên, nội bộ Thanh giáo chia làm hai phái: “Hội trưởng lão” là phái đại diện cho tập đoàn giàu có nhất bao gồm tầng lớp quí tộc mới, thuộc tầng lớp trên trong giai cấp đại tư sản, chủ trương dựa vào hình thức của giáo phái Canvanh để cải cách triệt để giáo hội quốc giáo và đòi hỏi những bậc trưởng lão phải có tác dụng chủ yếu trong giáo hội cũng như trong bộ máy quốc gia; phái còn lại thì chủ trương mỗi đoàn thể tôn giáo đều phải đứng độc lập ngoài quyền lực của quốc gia và quyền lực của giáo hội, mỗi tín đồ không cần phải phục tùng giáo hoàng và nhà vua cũng như các trưởng lão và các hội nghị tôn giáo. Vì thế, phái này gọi là “Phái độc lập”, gồm những người thuộc giai cấp tư sản và quí tộc mới bậc trung và một số nông dân, bình dân thành thị. 19 Về chính trị, từ cuối thế kỷ XV, nước Anh bắt đầu hình thành chế độ chuyên chế với quyền lực tối cao thuộc về nhà vua. Lúc đầu, chế độ chuyên chế bảo hộ cho chủ nghĩa tư bản vừa manh nha, đặc biệt là bảo hộ cho sự tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản. Do vậy, nó nhận được sự ủng hộ của giai cấp tư sản mới vừa vươn lên. Nhưng sau đó, khi tài sản và sức mạnh kinh tế của giai cấp tư sản, nhất là của quí tộc mới, ngày càng gia tăng, thì chế độ chuyên chế trở thành lực cản của giai cấp tư sản. Thông qua quốc hội, giai cấp tư sản tiến hành đấu tranh chống chế độ chuyên chế với mục đích cướp chính quyền nhằm tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Còn nhà vua lo sợ sự lớn mạnh của tầng lớp quí tộc mới của giai cấp tư sản sẽ uy hiếp sự thống trị của chế độ phong kiến nên bắt đầu trấn áp sự chống đối của tầng lớp này. Do đó, sự đấu tranh giữa chính phủ chuyên chế và tầng lớp quí tộc mới thuộc giai cấp tư sản ngày càng chiếm địa vị chủ yếu, bắt đầu từ lúc vương triều Sutuart thống trị nước Anh. Đó là vào năm 1603, khi vua Giêm I (James I) lên ngôi. Tự cho mình là người được Thượng đế phái xuống phàm trần để thống trị dân chúng, vua Giêm đã thi hành nhiều chính sách hết sức phản động, gây phẫn nộ trong toàn thể nhân dân cả nước, đặc biệt giai cấp tư sản bất mãn gay gắt. Như vậy, xét toàn cảnh nước Anh, từ nửa sau thế kỷ XVI, xu hướng cải cách chính trị, xã hội và đời sống tinh thần đã trở nên phổ biến. Trong tiến trình lịch sử đó, Phranxi Bêcơn đã thực sự để lại dấu ấn tư tưởng sâu sắc, thể hiện bước chuyển về mọi mặt của thời đại ông. Về phần mình, những chuyển biến trong kinh tế, chính trị và xã hội của Tây Âu và nước Anh tác động đáng kể đến tính khuynh hướng và nội dung tư tưởng triết học Phranxi Bêcơn, trong đó có vấn đề nhận thức luận. Trước hết, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự hình thành quan hệ xã hội mới đã đưa đến những biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng, nhất là quan hệ quyền lực và hệ tư tưởng. Giai cấp tư sản, lực lượng tiên phong của các cuộc cách mạng tư sản cổ điển, không thể chấp 20 nhận vị trí của giai cấp bị trị, khi mà trong tay họ là toàn bộ sức mạnh kinh tế, đang làm lay chuyển đời sống tinh thần, biến đổi cơ cấu xã hội, khiến cho các giá trị hiện tồn bị hoài nghi. Tính chất cách mạng của giai cấp tư sản Anh, một mặt, tạo nên sức lan toả nhanh chóng trong xã hội, thu hút các lực lượng xã hội khác nhau, hình thành cả phong trào rộng lớn chống chế độ chuyên chế, mặt khác, trung lập hoá hoặc làm suy yếu và phân hoá giai cấp thống trị, từ đó hình thành tầng lớp quí tộc mới, đúng hơn, quí tộc tư sản hoá. Chính lực lượng này đã làm giá đỡ cho những tư tưởng tích cực, tiến bộ, hậu thuẫn cho những phát minh khoa học và ứng dụng kỹ thuật. Thứ hai, những biến động kinh tế, chính trị – xã hội góp phần làm thay đổi và quyết định môi trường sáng tạo văn hóa, xác lập nên hệ biến thái giá trị mới. Những gì lạc hậu, cũ xưa, không phù hợp với điều kiện xã hội mới đều bị loại trừ. Tính chất thực dụng thay thế cho sự phô trương hình thức trong đời sống cộng đồng. Nền văn hoá tư sản đòi hỏi loại bỏ các chuẩn mực, giá trị của chế độ phong kiến, vốn mang nặng sự định kiến đẳng cấp và quyền uy. Thực dụng và vụ lợi (Pragmatism and Utilitarianism), theo B.Rátxen (B.Russell), vốn là đặc điểm truyền thống của người Anh và Mỹ; nó phát huy sức mạnh của mình trong buổi giao thời của lịch sử, khi mà bản chất của sự vật, dưới tác động của những qui luật khách quan, đã bộc lộ mình một cách trung thực, và chính vì thế rất cần sự thẩm định khắt khe của thực tiễn luôn biến đổi. Tính thực dụng, do đó, có nghĩa tích cực trong lĩnh vực văn hoá nói chung, tri thức khoa học nói riêng. Về văn hoá, nó phá vỡ “vầng hào quang thần thánh” (diễn đạt của C.Mác – Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản) của văn hoá trung cổ, vốn nặng về khuôn mẫu, mực thước, mà xem nhẹ yếu tố sáng tạo, yếu tố “lệch chuẩn” và “vượt khuôn khổ”, mở đường cho cái mới. Điều này giải thích vì sao vào thời Ph.Bêcơn, cùng với sự nở rộ các học thuyết triết học mang tính cải cách, văn học Anh đã chứng kiến nhiều tên tuổi và tác phẩm lớn mang ý nghĩa phê phán sâu sắc, trong đó nổi bật U.Sếchpia (William
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất