Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quân dân miền bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc mỹ (1965 - 19...

Tài liệu Quân dân miền bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc mỹ (1965 - 1968)

.PDF
56
641
137

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC TRẦN THỊ THU HUYỀN QUÂN DÂN MIỀN BẮC CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA GIẶC MỸ (1965 - 1968) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC TRẦN THỊ THU HUYỀN QUÂN DÂN MIỀN BẮC CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA GIẶC MỸ (1965 - 1968) CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn: TS. Phạm Văn Lực SƠN LA, NĂM 2013 LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - Tiến sĩ Phạm Văn Lực giảng viên khoa Sử - Địa đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn tới tập thể sinh viên lớp K50 Đại học sư phạm Lịch Sử và toàn thể bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận này. Để khóa luận thêm hoàn thiện em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của quý thầy cô và các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 05 năm 2013 Người thực hiện: Trần Thị Thu Huyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 1 3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu, mục đích, ý nghĩa của đề tài ...... 3 3.1. Đối tượng, nhiệm vụ .................................................................................. 3 3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3 3.3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài ..................................................................... 3 4. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu.................................................. 4 4.1. Cơ sở tài liệu .............................................................................................. 4 4.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 4 5. Kết cấu của đề tài ......................................................................................... 4 CHƯƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI ....................................................................... 5 1.1. Đặc điểm tình hình cách mạng Việt Nam (1965 - 1975) .......................... 5 1.2. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới ........................... 9 CHƯƠNG 2. MIỀN BẮC TIẾP TỤC NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG HOÀN CẢNH MỚI (1965 - 1968) ..................... 14 2.1. Miền Bắc trong hoàn cảnh bị chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ (1965 1968) ................................................................................................................ 14 2.2. Miền Bắc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh mới. ................................................................................................................. 19 CHƯƠNG 3. QUÂN DÂN MIỀN BẮC ĐÁNH BẠI CUỘC CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA GIẶC MỸ, CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN MIỀN NAM (1965 - 1968) ............................................................... 27 3.1. Miền Bắc đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ. ..... 27 3.2. Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam ................................................................................................................. 33 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa là bộ phận của chiến tranh xâm lược Việt Nam. Với mục đích phá hủy tiềm lực kinh tế, quốc phòng, ngăn cản sự chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Từ cuối năm 1964 đầu năm 1965 đế quốc Mỹ đã sử dụng những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất lúc bấy giờ đánh phá miền Bắc hết sức ác liệt. Dưới mưa bom bão đạn của giặc Mỹ, quân dân miền Bắc đã kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; đánh thắng chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến miền Nam. Thế nhưng, cho đến nay vẫn chưa công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề này một cách hoàn chỉnh, hệ thống; nhiều vấn đề khoa học vẫn chưa được làm rõ. Vì thế việc lựa chọn “Quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ (1965 - 1968)” làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn: Về khoa học + Khôi phục lại một cách hoàn chỉnh, hệ thống chính xác công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ trong thời kỳ từ 1965 đến 1968. + Làm rõ thêm vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương thời kỳ này. + Làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về chiến tranh và cách mạng… Về thực tiễn + Bổ sung thêm nguồn tài liệu nghiên cứu về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ thời kỳ này. + Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong quá trình học tập phần lịch sử Việt Nam thời kỳ này. + Thiết thực góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ, nhất là trong thời kỳ cách mạng hiện nay. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề “quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ xâm lược (1965 - 1968)” đã được sự quan tâm của giới nghiên cứu dưới 1 nhiều góc độ và nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó có thể kể đến một số công trình như sau: + Cuốn “Hậu phương miền Bắc cung cấp người, vật chất cho chiến tranh miền Nam 1959 - 1975” của viện lịch sử quân sự Việt Nam, xuất bản 1997, có đề cập tới tình hình kinh tế miền Bắc trong chiến tranh phá hoại, nhưng lại chủ yếu nói tới vấn đề xây dựng hậu phương miền Bắc chi viện cho miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế; còn cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ đối với miền Bắc hầu như vẫn chưa được đề cập đến. + Cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)” - tập 4 của Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam, xuất bản năm 1999, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội đã đề cập tới vấn đề miền Bắc vừa xây dựng vừa chiến đấu, tăng cường lực lượng quốc phòng; kiên quyết đánh trả không quân, hải quân Mỹ. Đảm bảo giao thông, tăng cường chi viện cho chiến trường miền Nam. + Bài viết “Đảng lãnh đạo nhân dân bảo vệ miền Bắc phát huy vai trò hậu phương” của Thượng tá - Thạc sĩ Lê Văn Mạnh in trong tạp chí lịch sử Đảng số 8/2002, đã đề cập tới vấn đề khái quát về tình hình miền Bắc với những khó khăn thuận lợi nhất định. Đồng thời cũng đề cập vấn đề miền Bắc vươn lên khắc phục khó khăn tạo thế và lực đánh thắng chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và làm tốt vai trò hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Mặc dù vậy bài viết đi sâu vào lý luận, thiếu những con số để chứng minh. + Cuốn “Đại cương lịch sử Việt Nam” tập ba, Nhà xuất bản Giáo dục đã đề cập vấn đề quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ hậu phương. Cuốn sách đã nói tới nhiều khía cạnh khác nhau: quân sự, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, y tế, giáo dục, tuy nhiên chỉ nêu vấn đề ở mức độ khái quát. + Cuốn “Chiến tranh Việt Nam là thế đó (1965 - 1973)”, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2008 đã nói tới tội ác của giặc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam gian khổ quyết liệt. Nhưng cuốn sách chưa nêu được nhiệm vụ và sức mạnh to lớn của miền Bắc trong cuộc chiến tranh. + Cuốn “Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay” của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã đề cập vấn đề quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, vừa chiến đấu vừa sản xuất, miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương nhưng ở mức độ khái quát. 2 + Cuốn “Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới và phương pháp dạy học lịch sử” của Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2001 đã đề cập: quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất vừa chiến đấu, làm nghĩa vụ hậu phương với tiền tuyến lớn ở miền Nam. + Cuốn “Chiến tranh nhân dân quốc phòng toàn dân” tập 1, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Hà Nội có đề cập tới quyết tâm đánh bại chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ; kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ; kinh nghiệm lớn của chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Nhưng không đề cập được toàn bộ cuộc chiến đấu của quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968). Có thể nói, tất cả các công trình nghiên cứu trên đều đã đề cập tới vấn đề này dưới nhiều góc độ khía cạnh khác nhau. Bên cạnh đó còn có nhiều công trình khác đề cập tới vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình đó chỉ nghiên cứu ở một hoặc một vài khía cạnh góc độ hoặc còn chung chung chưa làm nổi bật được vấn đề quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo quý để tôi đi vào nghiên cứu đề tài này. 3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu, mục đích, ý nghĩa của đề tài 3.1. Đối tượng, nhiệm vụ + Đề tài nghiên cứu vấn đề quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ (1965 - 1968) + Đặc điểm tình hình nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới + Tái hiện lại cuộc chiến đấu của quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. + Làm rõ quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của quân dân miền Bắc trong hoàn cảnh mới. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất trong giai đoạn (1965 - 1968) 3.3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài + Góp phần khôi phục lại một cách cụ thể, chi tiết, chính xác cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. 3 + Góp phần giáo dục tinh thần đoàn kết trong lao động cũng như trong chiến đấu, lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ trong thời kỳ hiện đại, đồng thời nói lên khát vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập thống nhất Tổ quốc. + Bổ xung nguồn tài liệu về công cuộc chiến đấu của quân dân miền Bắc đối với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ (1965 - 1968) 4. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở tài liệu Đề tài được thực hiện trên cơ sở nguồn tài liệu ở trung ương và địa phương bằng tiếng Việt và những nguồn tài liệu khác đã được các công trình nghiên cứu công bố. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở nền tảng của phương pháp luận sử học Mác xít và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề tài chủ yếu sử dụng hai phương pháp là phương pháp lịch sử và phương pháp lô gíc. Bên cạnh đó còn kết hợp một số phương pháp khác: so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp... 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục đề tài được kết cấu thành ba chương: Chương 1. Đặc điểm, tình hình nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới Chương 2. Miền Bắc tiếp tục nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh mới (1965 - 1968) Chương 3. Quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ, chi viện cho tiền tuyến miền Nam (1965 - 1968) 4 CHƯƠNG 1 ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI 1.1. Đặc điểm tình hình cách mạng Việt Nam (1965 - 1975) Sau năm 1954, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thế nhưng từ năm 1965 trở đi cách mạng Việt Nam đặt trong điều kiện hoàn cảnh mới, tình hình cách mạng Việt Nam lúc này hết sức cam go, ác liệt. Ở miền Bắc, do những thất bại của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam, từ đầu năm 1964 đế quốc Mỹ thông qua kế hoạch OPLAN dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc. Ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như: Đảo Cồn Cỏ, Đồng Hới, cửa sông Gianh, Vinh - Bến Thủy, Lạch Trường (Thanh Hóa), thị xã Hồng Gai. Ngày 7/2/1965, với lí do trả đũa cuộc tiến quân của quân giải phóng miền Nam vào một trại lính Mỹ ở Plâycu. Mỹ đã ồ ạt ném bom miền Bắc trên quy mô ngày càng tăng, chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đến ngày 1/4/1965, Giôn xơn quyết định đưa thêm một bộ phận quân chiến đấu Mỹ sang Việt Nam và tăng cường không quân hải quân đánh phá miền Bắc mạnh mẽ, liên tục hơn với mục đích làm cho “cột xương sống của Hà Nội mềm đi” [3, 17]. Để phải chịu điều kiện thương lượng do Mỹ áp đặt và từ bỏ chi viện cho cách mạng miền Nam. Chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa diễn ra trên quy mô lớn toàn miền Bắc, từ tỉnh Khu IV cũ đến các tỉnh đồng bằng duyên hải Bắc Bộ, lên các tỉnh thuộc trung du và miền núi phía Bắc đặc biệt một số tỉnh thành phố: Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Thái Nguyên, cùng nhiều trung tâm công nghiệp, bệnh viện trường học, trung tâm văn hóa đã trở thành mục tiêu đánh phá hết sức ác liệt của giặc Mỹ. Ở miền Nam, đầu năm 1965, cuộc chiến tranh đặc biệt mà Mỹ tiến hành chống lại nhân dân ta đã phát triển đến đỉnh cao và đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn để cứu vãn tình thế, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh cùng vũ khí, phương tiện vào miền Nam nhằm đẩy mạnh chiến tranh xâm lược và chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Cuộc “chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới một trong ba hình thức chiến tranh đặc biệt, 5 cục bộ, tổng lực trong chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Mỹ. “Chiến tranh cục bộ” bắt đầu từ giữa năm 1965 được tiến hành bằng lực lượng của quân viễn chinh Mỹ, quân “đồng minh” và quân ngụy tay sai ở miền Nam, trong đó quân ngụy giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng và trang thiết bị, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Số lính Mỹ có mặt ở miền Nam cuối năm 1964 là 26.000 đến cuối năm 1965 lên tới 18.000 và 20.000 lính chư hầu. Đó là chưa kể 70.000 lính hải quân và không quân trên các căn cứ Mỹ ở Guam, Philippin, Thái Lan và hạm đội 7 luôn sẵn sàng tham chiến ở miền Nam. Mỹ mở đầu việc đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam Việt Nam bằng việc đưa một đại đội máy bay F105 vào Biên Hòa, một tiểu đoàn tên lửa phòng không “Hốc” vào Đà Nẵng, ngày 8/3/1965 Mỹ cho hai tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 9 lính thủy đánh bộ từ Okinaoa vào Đà Nẵng. Ngày 26/6/1965, Oetmolen được chính phủ Mỹ cho phép đưa quân Mỹ ra trận “khi nào thấy cần thiết” Ngày 17/7/1965, khi Giôn xơn thông báo quyết định đưa 44 tiểu đoàn Mỹ vào miền Nam Việt Nam và chấp nhận chiến lược “tìm diệt” của Oetmolen một quyết định đã “vượt qua ngưỡng cửa bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở Châu Á” thì cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới giai đoạn “chiến tranh cục bộ” Mỹ tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam thực hiện âm mưu: Nhanh chóng tạo ra uy thế về lực có thể áp đảo được chủ lực của ta bằng chiến lược quân sự mới “tìm diệt”; cố giành thế chủ động trên chiến trường đẩy lực lượng vũ trang của ta về thế phòng ngự buộc ta phải phân tán đánh nhỏ hoặc rút lui về biên giới làm cho chiến tranh cách mạng lụi tàn dần. Đồng thời Mỹ muốn mở rộng củng cố hậu phương lập đội quân “bình định” kết hợp hoạt động càn quét với hoạt động chính trị và xã hội lừa bịp: tung tiền đổ của nhiều hơn nữa cố thực hiện cho kì được “mặt trận thứ hai” nhằm tranh thủ trái tim của nhân dân thực chất là giành dân (trước hết là nhân dân ở vùng giải phóng) bắt họ trở lại ách kìm kẹp của Mỹ - ngụy. Ỷ vào thế quân sự mạnh với thế quân đông vũ khí hiện đại hỏa lực mạnh cơ động nhanh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã cho quân viễn chinh mở ngay hàng loạt các cuộc hành quân “tìm diệt” tấn công đơn vị quân giải phóng ở Vạn Tường - Quảng Ngãi (8/1965). Tiếp đó dựa vào khí hậu miền Nam Việt Nam có hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 6 năm sau (theo lịch dương) đế quốc Mỹ đã mở hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965 - 1966; 1966 - 1967 bằng hàng loạt các cuộc hành quân vào “đất thánh Việt Cộng” tức là vùng đất do cách mạng nắm giữ. Bước vào mùa khô 1965 - 1966 với lực lượng 720.000 quân, trong đó quân viễn chinh và chư hầu gần 220.000, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất. Cuộc phản công chiến lược bắt đầu vào 1/1966 và kéo dài trong 4 tháng, với tất cả 450 cuộc hành quân lớn nhỏ. Trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” then chốt nhằm vào hai hướng chiến lược chính là đồng bằng Khu IV và miền Đông Nam Bộ. Mục tiêu của Mỹ là đánh bại chủ lực quân giải phóng giành lại thế chủ động trên chiến trường củng cố ngụy quyền tay sai. Bước vào mùa khô 1966 - 1967, với lực lượng được tăng lên hơn 980.000 quân trong đó Mỹ và chư hầu hơn 440.000. Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, với tất cả 895 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó 3 cuộc hành quân then chốt vào hướng chiến lược chính là miền Đông Nam Bộ nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta, tạo bước ngoặt trong chiến tranh. Đó là cuộc hành quân đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh) tháng 11/1966, với lực lượng là 3 lữ đoàn tương đương với 3 vạn quân mang tên attơnborơ; cuộc hành quân đánh vào “tam giác sắt” (Trảng Bàng - Bến Súc - Củ Chi) tháng 1/1967, với lực lượng 3 lữ đoàn cùng 3 chiến đoàn ngụy, mang tên Xeđaphôn và cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào vùng Bắc Tây Ninh, sát biên giới Việt Nam - Campuchia. Tình hình đó, đã đặt cách mạng Việt Nam trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh tình hình cách mạng hai miền lúc này hết sức cấp bách. Trong tình huống đế quốc Mỹ và tay sai ngày càng đẩy mạnh cuộc chiến tranh thực dân mới cao hơn ở cả hai miền Nam Bắc. Đồng thời với việc tăng quân, ngân sách quân sự Mỹ cũng tăng lên đến mức cao nhất từ trước tới nay. Ngân sách lúc này dự kiến 48 tỉ USD sau tăng lên 68 tỉ USD, trong đó giành cho cuộc chiến tranh Việt Nam hơn 50%, khoảng 38 tỉ đôla. Phương tiện chiến tranh cũng được bổ sung nhiều gấp 1,5 lần so với mùa khô lần thứ nhất. Tính đến tháng 12 năm 1966, số máy bay đưa vào Việt Nam lên tới 3500 chiếc và đến tháng 5/1967 tăng lên 4300 chiếc, xe tăng, thiết giáp 2500 chiếc, pháo 2500 khẩu… Nếu tính cả lực lượng Mỹ ở hạm đội 7, Thái Lan, Philippin, Guam tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam thì tổng số quân tham chiến của địch lên tới 1200.000 tên, riêng quân Mỹ 60 vạn. Tình hình này đã đặt cách mạng Việt Nam trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh. Trong tình huống đế quốc Mỹ và tay sai ngày càng đẩy mạnh cuộc 7 chiến tranh thực dân mới lên một mức cao hơn ở cả hai miền Nam - Bắc. Đồng thời chính quyền quân đội Sài Gòn ngày càng suy yếu thì Mỹ lại tìm cách thúc ép Thái Lan đưa quân vào Lào thực hiện cấu kết giữa ngụy Lào và ngụy Sài Gòn, dùng không quân đánh phá Trung và Hạ Lào để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, hòng đánh đòn hiểm ác vào cách mạng miền Nam từ hướng tây. Đối với Campuchia, Mỹ gây sức ép chính phủ Xihanúc, buộc nước này chống lại Việt Nam. Âm mưu hành động của giặc Mỹ nhằm tạo ra một thế chiến lược mới chủ động bao vây, cô lập cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Ném bom miền Bắc làm kiệt quệ tiềm lực hậu phương xã hội chủ nghĩa, lung lay ý chí quyết tâm của Đảng, Chính phủ, nhân dân ta. Vì thế nên cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam trở nên gay go, quyết liệt hơn lúc nào bằng. Trước bối cảnh như vậy, hội nghị Trung ương lần thứ 11 tháng 3/1965 và 12 tháng 12/1965 của Đảng đã có sự chuyển hướng chỉ đạo quan trọng. Tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa 3 tháng 4/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Lúc này chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước” Tiếp đó, ngày 17/7/1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ra lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước. Trong lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước, Người khẳng định : “Giônxơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có thể đưa 50 vạn, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng, chúng không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng… Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng, một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”[9, 108]. Như vậy, đây là thời kỳ mà nhân dân Việt Nam, cả miền Nam cũng như Miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với đế quốc Mỹ xâm lược. Cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược không phải chỉ riêng miền Nam trực tiếp chiến đấu nữa, lúc này cả nhân dân miền Bắc cũng phải trực tiếp cầm lại vũ khí chiến đấu. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trở nên gay go, quyết liệt hơn lúc nào bằng, trong điều kiện hoàn cảnh đó nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền và nhiệm vụ của cách mạng cả nước to lớn nặng nề hơn lúc nào hết. 8 1.2. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới Trong điều kiện cả nước có chiến tranh “chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của cách mạng Việt Nam” thì nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trở nên nặng nề và thiêng liêng hơn, đó là: Miền Nam Đầu năm 1965, “chiến lược chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn và Mỹ nhanh chóng tung ra chiến lược mới trong thế bị động “chiến lược chiến tranh cục bộ”. Mỹ muốn mở rộng củng cố hậu phương bắt nhân dân vùng giải phóng trở lại ách kìm kẹp của Mỹ - ngụy. Chúng nhanh chóng mở hàng loạt các cuộc hành quân “tìm diệt”, mở liên tiếp hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967 vào “đất thánh Việt Cộng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nếu chúng ta thắng ở miền Nam tức là chúng ta đã đè được lực lượng xâm lược của Mỹ, đó là ta góp phần vào cách mạng thế giới. Vì vậy ta quyết chiến, quyết thắng ở miền Nam chẳng những là vì nhiệm vụ của ta, mà còn là nghĩa vụ của ta đối với cách mạng thế giới” [9, 15-16]. Do đó, để đánh bại sự xâm lược của giặc Mỹ, miền Nam hòa cùng tinh thần chiến đấu của nhân dân cả nước. Nhân dân miền Nam phải giữ vững và phát triển thế chiến lược tấn công, giành thế chủ động trên chiến trường, chiến đấu chống “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965 - 1968) với mục đích là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa (tức hậu phương của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) Miền Nam chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” của Mỹ là chiến đấu chống lại một cuộc chiến tranh xâm lược được tăng cường và mở rộng với lực lượng quân đội mạnh, vào lúc cao nhất (1968) lên tới 1 triệu quân: gồm Mỹ, chư hầu, ngụy quân với vũ khí hiện đại. Thế nhưng, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân miền Nam xác định lập trường: thà chết chứ không chịu làm nô lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc và giành độc lập hoàn toàn, kiên quyết đánh bại kẻ thù, đánh cho đến khi không còn một tên xâm lược nào trên dải đất thân yêu của mình. Với ý chí không gì lay chuyển “quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” được sự phối hợp chiến đấu và chi viện ngày càng lớn của miền Bắc. Quân dân miền Nam đã anh dũng chiến đấu, liên tiếp giành thắng lợi trong đó thắng lợi mở đầu là chiến thắng ở Vạn Tường (18/8/1965). Với chiến thắng Vạn Tường đã đẩy lùi cuộc hành quân của địch mở đầu “cao trào diệt ngụy” trên toàn miền Nam, một làn sóng “tìm Mỹ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” dâng cao, các vành đai diệt Mỹ xuất hiện. Phong trào thi đua trở thành “dũng sĩ diệt Mỹ” và “đơn vị anh hùng diệt Mỹ” được dấy lên sôi nổi 9 khắp nơi. Khả năng thắng Mỹ của quân dân ta trong chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” đã được chứng minh trong trận Vạn Tường và nó tiếp tục được chứng minh trong chiến đấu chống lại hai cuộc phản công mùa khô của Mỹ. Trên toàn miền Nam, từ vùng nông thôn đến thành thị nhân dân vùng lên đấu tranh chống lại ách kìm kẹp của địch trừng trị bọn ác ôn,… làm thất bại âm mưu bình định giành dân của giặc. Kết quả là vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Miền Nam đã thực hiện được nhiệm vụ hết sức xuất sắc. Miền Bắc Đứng trước cuộc chiến tranh bắn phá bằng không quân, hải quân miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ hậu phương. Trong điều kiện chiến tranh lan rộng, tháng 3/1965, Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ cách mạng mới của quân và dân miền Bắc là: chuyển hướng kinh tế xây dựng phù hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại, đảm bảo yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, tích cực chi viện cho miền Nam, đồng thời vẫn bảo đảm phù hợp với phương hướng lâu dài về công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và chú ý đúng mức đến nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân. Tăng cường nhanh chóng lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình có chiến tranh trong cả nước, ra sức tăng cường công tác phòng thủ để bảo vệ miền Bắc. Cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất sự thiệt hại do địch gây ra và gây thiệt hại cho địch đến mức cao nhất. Nắm vững phương châm dựa vào sức mình là chính, đồng thời chú trọng sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa. Chi viện cao nhất cho miền Nam để đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của giặc Mỹ trên chiến trường miền Nam. Kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức đi đôi với việc chuyển hướng kinh tế và tăng cường quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới. Việc chuyển hướng nêu trên là chủ trương đúng đắn của Đảng, phản ánh quyết tâm của Đảng của nhân dân ta trong việc kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục tăng cường sức mạnh vật chất tinh thần của miền Bắc làm chỗ dựa vững chắc cùng miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương Đảng nêu nhiệm vụ: “vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi viện cho miền Nam, 10 ra sức trợ giúp cách mạng Lào đồng thời chuẩn bị đánh địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước” [9, 12]. Để hoàn thành nhiệm vụ hết sức nặng nề mà Hội nghị Trung ương lần thứ 12 đề ra, Đảng ta phải ra sức tăng cường công tác tư tưởng và tổ chức, nội dung cụ thể là kiện toàn thêm một bước dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy đảng ở địa phương và Trung ương, vì đây là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Trước thử thách sống còn của Tổ quốc, dân tộc, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi: “Chúng ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà, một cuộc chiến tranh cách mạng vừa để giải phóng dân tộc, vừa để bảo vệ xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa cống hiến vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, “chúng ta phải có tinh thần chiến đấu cao dũng cảm phi thường, phải có chí khí anh hùng và quyết tâm dời non lấp biển đạp bằng bất cứ trở lực nào, đánh bại bất cứ kẻ thù nào” [9, 16]. Nghị quyết hội nghị lần thứ 12 của Tung ương Đảng là kết tinh giữa thực tiễn của quần chúng với trí tuệ sáng tạo của toàn Đảng, mà tập trung là Ban Chấp hành Trung ương, là văn kiện củng cố lòng tin và chỉ đạo cho quân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc, vững bước vượt qua gian lao thử thách tiến đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc đọ sức cam go này. Để thực hiện được nhiệm vụ trên đây, điều quan trọng là hậu phương lớn miền Bắc bằng mọi cách tăng cường chi viện về người và vật chất, kỹ thuật, làm tăng nhanh thế và lực cho cách mạng miền Nam, cũng như từng chiến trường. Quân ủy Trung ương chỉ đạo cho đoàn 559: “Phải khẩn cấp mở thêm các trục đường vận chuyển cho chiến trường miền Nam và hạ Lào. Bảo đảm lương thực cho các lực lượng hành quân, các đơn vị bảo đảm hành lang vận chuyển các loại văn thư, bưu kiện”. Phương châm hoạt động là triệt để tận dụng phương tiện cơ giới kết hợp phương tiện thô sơ. Như vậy, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ hậu phương là nhiệm vụ hết sức thiêng liêng nhưng cũng không ít khó khăn, gian khổ đòi hỏi quân dân miền Bắc phải có ý chí, nghị lực và quyết tâm cao. Nhiệm vụ chung của cả nước Trên cơ sở thực tiễn tình hình quân sự, chính trị trên cả hai miền Nam - Bắc Đảng ta hoạch định và bổ sung hoàn thiện từng bước đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hội nghị Trung ương lần thứ 11 tháng 3/1965 khẳng định quyết tâm đánh Mỹ, chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc vào thời chiến, tăng 11 cường quốc phòng, chuẩn bị trước một bước về tư tưởng, tổ chức để sẵn sàng bước vào cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ. Ngày 27/12/1965, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khóa 3) khai mạc dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị thảo luận, đánh giá tình hình địch, ta và tình hình quốc tế có liên quan, đề ra nhiệm vụ cụ thể cho quân và dân hai miền Nam - Bắc. Hội nghị Trung ương nhận định: đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh; lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Quân Mỹ vào miền Nam làm cho “cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go ác liệt nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch” [3, 60]. Ngay từ khi quân viễn chinh Mỹ ồ ạt vào miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến chuyển cuộc chiến tranh xâm lược từ hình thức “đặc biệt” sang “cục bộ”. Tại Hội nghị trung ương lần thứ 12 (12/ 1965), Đảng ta xác định: đây là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, tính chất, mục tiêu của nó không có gì thay đổi. Tuy nhiên cuộc chiến tranh này diễn ra ác liệt hơn. Vì ngoài quân đội Sài Gòn, còn có thêm quân viễn chinh và quân các nước chư hầu: Nam Triều Tiên (Hàn Quốc), Thái Lan, Philippin, Tân Tây Lan, Ôxtrâylia, số quân đông, trang bị hiện đại. Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế quân sự mạnh và lớn nhất thế giới, mặc dù đã bị thất bại nhưng chúng không từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Âm mưu của Mỹ là tiêu diệt lực lượng của ta nhất là lực lượng vũ trang tập trung, giữ vững củng cố hoặc chiếm đóng các căn cứ chiến lược quan trọng rồi dựa vào đó đẩy mạnh công tác bình định có trọng điểm, đánh phá vùng giải phóng khống chế kìm kẹp quần chúng và chiếm lại một số vùng đã mất; tìm mọi biện pháp để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc, bao vây cô lập chiến trường miền Nam, đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta. Nhưng Mỹ đã tăng cường mở rộng chiến tranh trong thế bị động. Mặt khác, việc tăng cường chiến tranh xâm lược miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ làm cho mâu thuẫn vốn có giữa nhân dân ta ở hai miền Nam - Bắc với đế quốc Mỹ và tay sai ngày càng thêm sâu sắc, ngọn lửa căm thù càng bốc cao, sự gắn bó trong chiến đấu giữa hai miền chặt chẽ hơn. Trong khi đó, cách mạng miền Nam đang ở thế thắng, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu, thật sự trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước, hậu phương lớn mạnh của cuộc kháng chiến ở miền Nam. Từ sự nhận định tình hình ta, địch lòng tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng Hội nghị Trung ương lần thứ 12 đã đề ra nhiệm vụ chung cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: “Động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong 12 bất kỳ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà” [3, 62]. Do đó, nhiệm vụ chung cả nước là đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng như cương lĩnh của Đảng năm 1930. Như vậy, trước âm mưu phá hoại miền Bắc cho thấy chiến tranh phá hoại miền Bắc là một bộ phận trong âm mưu xâm lược của giặc Mỹ. Đây là thời kỳ nhân dân Việt Nam trên cả hai miền Nam - Bắc phải trực tiếp đương đầu với đế quốc Mỹ xâm lược. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta ngày càng quyết liệt hơn. Trước tình hình mới của cách mạng Việt Nam Đảng ta kịp thời đề ra nhiệm vụ cho cách mạng mỗi miền một cách cụ thể: Miền Nam vẫn tiếp tục cuộc chiến tranh dân tộc dân chủ nhân dân, nhiệm vụ lúc này là liên tục tấn công đánh địch trên ba vùng chiến lược, chặn đánh các cuộc tấn công càn quét “tìm diệt” của địch từ mọi hướng làm thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của địch. Miền Bắc, là hậu phương lớn là thành trì của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Do đó, miền Bắc vẫn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, đồng thời ra sức làm nghĩa vụ quốc tế. Hai nhiệm vụ cách mạng này gắn bó mật thiết với nhau không tách rời nhau. Thấm nhuần sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng quân dân cả hai miền Nam Bắc tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với lòng nhiệt huyết cao trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt quân dân miền Bắc quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được nhiều thành tựu to lớn trong chiến đấu cũng như trong sản xuất, hoàn thành nghĩa vụ hậu phương lớn, đánh thắng chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Chiến đấu và sản xuất là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, để đánh bại chiến tranh phá hoại, xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi, vừa làm tròn nhiệm vụ hết lòng hết sức ủng hộ sự nghiệp giải phóng miền Nam. Chiến đấu và sản xuất là hai nhiệm vụ chính. Có đánh bại chiến tranh phá hoại mới sản xuất được tốt. Có sản xuất tốt mới tạo tiềm lực kinh tế và quân sự để đánh bại giặc Mỹ xâm lược, hoàn toàn giải phóng miền Nam. Đồng thời chuẩn bị để đối phó với chiến tranh xâm lược của giặc Mỹ 13 CHƯƠNG 2 MIỀN BẮC TIẾP TỤC NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG HOÀN CẢNH MỚI (1965 - 1968) 2.1. Miền Bắc trong hoàn cảnh bị chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ (1965 - 1968) Ngày 7/2/1965, Mỹ ồ ạt ném bom miền Bắc trên quy mô ngày càng tăng, chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trong hoàn cảnh bị chiến tranh phá hoại hết sức ác liệt của giặc Mỹ, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc không những không dừng lại mà lại được đẩy lên một mức mới cao hơn. Tháng 3 và tháng 12 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 11 và 12 đã đề ra nhiệm vụ cho miền Bắc lúc này là: xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, vững chắc của cách mạng miền Nam đảm bảo đời sống cho nhân dân và đáp ứng nhu cầu tại chỗ; đánh thắng chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ; tăng cường chi viện cho chiến trường. Để hoàn thành nhiệm vụ thì miền Bắc phải tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nghị trung ương lần thứ 11 đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến đảm bảo cho miền Bắc tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, đảm bảo cho miền Bắc có đủ sức mạnh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ và làm vai trò, nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Hội nghị trung ương lần thứ 11 đưa ra khẩu hiệu “xây dựng bảo vệ miền Bắc giải phóng miền Nam” [3, 32]. Khẩu hiệu này đã trở thành hành động tự giác và tình cảm thiêng liêng của mọi người dân yêu nước, làm nảy nở nhiều sáng kiến hay trong lao động sản xuất, đảm bảo giao thông chi viện cho tiền tuyến sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương Đảng nêu nhiệm vụ: “vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi viện cho miền Nam, ra sức trợ giúp cách mạng Lào đồng thời chuẩn bị đánh địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước” [9, 12]. Có thể nói đây là nhân tố cơ bản để phát huy sức mạnh của toàn dân tộc giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến. Từ khi giặc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân, miền Bắc tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước hòa bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền. Để đánh thắng chiến tranh phá hoại Đảng ta có nhiều chủ trương và biện pháp phát huy sức mạnh của toàn dân, sức 14 mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để đem lại hiệu quả cao nhất trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong thời kỳ này, quân dân miền Bắc đã dấy lên các phong trào thi đua chống Mỹ cứu nước: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Các lực lượng vũ trang nêu khẩu hiệu “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Giai cấp công nhân nêu quyết tâm “Chắc tay súng, vững tay búa”, phấn đấu đạt “Ba điểm cao”. Nông dân tập thể nêu quyết tâm “Chắc tay súng, vững tay cày”, phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang”, giáo viên và học sinh có phong trào thi đua “Hai tốt”. Trong thiếu niên nhi đồng có phong trào “Làm nghìn việc tốt”. Đảng ta chủ trương lãnh đạo toàn dân chiến đấu, theo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng tham gia chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ bằng không quân, hải quân là nhiệm vụ của các lực lượng phòng không, không quân, của lực lượng hải quân với vũ khí phương tiện hiện đại của lực lượng tự vệ, dân quân, của toàn dân, bất cứ già trẻ, trai gái với vũ khí thông thường, hễ địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu, lúc tạm yên ổn thì toàn dân tham gia sản xuất. Ngay từ khi Mỹ bắt đầu mở rộng chiến tranh phá hoại, miền Bắc đã kịp thời chuyển hướng hoạt động từ thời bình sang thời chiến cho phù hợp với hoàn cảnh mới, thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự, hầm hào phòng tránh, tiến hành triệt để phân tán, sơ tán người và của ra khỏi vùng trọng điểm, những nơi đông dân để tránh thiệt hại lớn, đảm bảo đời sống ổn định. Đã trải qua 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, để đối phó với tình hình cách mạng mới chỉ có thể tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo cung cấp nhân lực vật lực cho tình hình cách mạng mới của hai miền Nam - Bắc. Chính vì lẽ đó, miền Bắc quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh mới về tất cả các mặt. Điều đó được thể hiện ở việc tiếp tục xây dựng phát triển kinh tế, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa phù hợp với điều kiện có chiến tranh đảm bảo đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu sẵn sàng chiến đấu. Về kinh tế: cũng giống như trong chiến đấu, trong sản xuất cũng đòi hỏi sự sáng tạo rất lớn của toàn Đảng, toàn dân. Một trong những chủ trương lớn của Đảng ta là: Đảng ta xác định cần chuyển toàn bộ nền kinh tế sang thời chiến, trong đó trọng tâm của việc chuyển hướng kinh tế là xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương. Trong đó, Đảng ta nhấn mạnh tập trung đẩy mạnh hai ngành sản xuất chính là trồng trọt và chăn nuôi. Đặc biệt ở các vùng xa xôi như miền núi, trung du. Bên cạnh đó Đảng khuyến khích áp dụng các biện pháp 15 khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm thâm canh tăng năng xuất, sản phẩm, mở rộng diện tích gieo trồng,… Trong hoàn cảnh mới, bằng mọi cách ta phải duy trì được sản xuất mà muốn đánh thắng trước hết phải đảm bảo cho quân, dân được ăn no (thực túc binh cường). Về vấn đề này Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu đến vấn đề nông nghiệp, Người nói: “Dù khó khăn đến mấy, vấn đề lương thực cũng phải giải quyết cho được. Nếu không làm được lúa, phải chuyển nhanh, thiếu cơm có khoai, thiếu khoai có sắn” [9, 20]. Người cũng nhấn mạnh: “Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã là chiến sĩ sản xuất, cần phải cố gắng như chiến sĩ ngoài mặt trận” [9, 193]. Cùng với nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng được chuyển hướng nhanh và cấp thiết phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Các cơ sở sản xuất công nghiệp then chốt, nhà máy xí nghiệp khẩn trương sơ tán ra khỏi vùng địch bắn phá tăng cường lực lượng phòng không bảo vệ. Bên cạnh việc giữ vững sản xuất có trọng điểm, duy trì phát triển năng lực sản xuất của công nghiệp trung ương, miền Bắc đặc biệt chú trọng xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương, xây dựng các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường ưu tiên công nghiệp địa phương. Xây dựng kinh tế thời chiến theo hướng tăng cường và phát triển kinh tế địa phương nó phù hợp với tình huống chống chiến tranh phá hoại, tình hình sơ tán, phân tán. Vì, với chủ trương này trong hoàn cảnh nền kinh tế của ta vẫn còn dựa vào sản xuất nhỏ, chủ yếu là nông nghiệp, lại chưa có một nền đại công nghiệp cơ khí, thì sự tàn phá của chiến tranh sẽ không lớn, sự thiệt hại do chiến tranh gây ra sẽ không nhiều. Các mục tiêu và các chỉ tiêu kinh tế, tốc độ, bước đi, quy mô xây dựng được đề ra trong thời kỳ này cũng phải phù hợp với điều kiện có chiến tranh để mà tránh thiệt hại lớn cho nền kinh tế do chiến tranh, vừa đảm bảo cho nhu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ cũng như đời sống nhân dân từng địa phương và chi viện ngày càng lớn cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Bên cạnh đó các ngành tài chính - ngân hàng, nội thương, ngoại thương thời kỳ này đều hướng vào trọng tâm phục vụ nhu cầu bức thiết của sản xuất, đời sống của cuộc kháng chiến. Bên cạnh kinh tế Đảng ta cũng hết sức quan tâm đến mặt trận văn hóa, tư tưởng, tổ chức. Vấn đề này được Đảng nhất quán sự lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định chủ nghĩa Mác Lênin. Đảng có những quyết định kịp thời, cấp thiết về công tác giáo dục lòng tin, sự can đảm trong chiến đấu. Giáo dục sự tin tưởng của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất