Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình truyền giáo của đạo tin lành tại việt nam từ năm 1911 đến năm 1975 (tt...

Tài liệu Quá trình truyền giáo của đạo tin lành tại việt nam từ năm 1911 đến năm 1975 (tt)

.PDF
27
393
140

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- Nguyễn Xuân Hùng QUÁ TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ĐẠO TIN LÀNH TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 1911 ĐẾN NĂM 1975 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 62 22 03 13 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HÀ NỘI - 2017 Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. ĐỖ QUANG HƯNG Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Khánh Phản biện 3: PGS.TS. Trần Ngọc Long Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện tại Học viện Khoa học xã hội,Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Học viện Khoa học xã hội DANH MỤC MỘT SỐ CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN Các bài viết công bố trong nước: 1. Nguyễn Xuân Hùng (2000), “Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo Tin Lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 1(3), tr. 53 - 62. 2. Nguyễn Xuân Hùng (2001), “Về nguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi đạo Tin Lành tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo 3(9), tr. 47-55. 3. Nguyễn Xuân Hùng (2003), “Về lịch sử quan hệ giữa các Nhà nước và Giáo hội Tin Lành tại Việt Nam”, Nhà nước và Giáo hội, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. (tr.167-186). 4. Nguyễn Xuân Hùng (2014), “Truyền giáo Tin Lành vào các tộc người thiểu số ở vùng Nam Trường Sơn – Tây Nguyên từ khởi đầu đến năm 1975”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 04(130), tr.105 - 115. 5. Nguyễn Xuân Hùng (2015), “Về Hội Truyền giáo Tin Lành C.M.A”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 10(148), tr.89 - 110. 6. Nguyễn Xuân Hùng (2015), “Lịch sử mối quan hệ giữa Hội Truyền giáo Tin Lành C.M.A và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 11(149), tr.91 - 107. 7. Nguyễn Xuân Hùng (2016), “Nghi lễ và lối sống của tín đồ Tin Lành – Trường hợp Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam)”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,11&12(159), tr.85 - 99. Bài viết công bố quốc tế: 8. NGUYEN XUAN HUNG (2013), “QUELQUES REMARQUES SUR LA COMMUNAUTE PROTESTANTE AU VIÊT NAM”, PLURALISME RELIGIEUX: UN COMPARAISON FRANCO – VIETNAMIENNE, Actes du colloque organi sé à Hanoi les 5 -6 octobre 2007, Sous la direction de: Pascal Bourdeaux, Phlippe Hoffmann, Nguyễn Hồng Dương, BREPOLS. Pp. 57- 67. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, tôn giáo vẫn đang nổi lên như là một vấn đề mang tính toàn cầu, được mọi nhà nước, mọi quốc gia cùng các giới chính trị, văn hóa quan tâm sâu sắc. Việt Nam là đất nước có nhiều tôn giáo, từ trong lịch sử , do ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, văn minh Trung Hoa, các tôn giáo, hệ tư tưởng tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Muộn hơn, từ thế kỷ XVI, các giáo sĩ phương Tây đã mang Công giáo vào Việt Nam. Sự du nhập và truyền bá của tôn giáo này dù có nhiều đóng góp về mặt văn hóa, tư tưởng, lối sống nhưng cũng đã gây ra sự va chạm văn hóa, tôn giáo đối với xã hội Việt Nam. Sự đụng độ, va chạm này vào thời cận hiện đại còn bị các thế lực thực dân, đế quốc lợi dụng vào mục đích chính trị, xâm lược. Giữa một bối cảnh lịch sử xã hội như vậy, đầu thế kỷ XX, đạo Tin Lành, dòng phái Kitô giáo thứ hai được các giáo sĩ Bắc Mỹ mang đến Việt Nam. Tin Lành đến đã làm gia tăng thêm cấp độ của sự va chạm văn hóa, tôn giáo trong xã hội. Đặc biệt, quá trình du nhập, tồn tại và phát triển của tôn giáo này tại nước ta lại trùng lặp với thời kỳ xâm lược, gây chiến của các thế lực thực dân, đế quốc, đặc biệt thời kỳ 1950-1975, nên đã làm nảy sinh nhiều nghi vấn, hệ lụy phức tạp. Gần đây, đạo Tin Lành đã phát triển mạnh trong nhiều tầng lớp xã hội và đặc biệt phát triển nhanh, rộng tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người sinh sống. Vấn đề Tin Lành đã và đang là chủ đề đáng quan tâm liên quan nhiều đến các lĩnh vực: Văn hóa-xã hội, tôn giáo-dân tộc, chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước và hàng ngày, hàng giờ tác động đến quá trình hội nhập, bang giao quốc tế, đến sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn hiện tại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cho đến nay đạo Tin Lành tại Việt Nam vẫn chưa được tìm hiểu và nghiên cứu đầy đủ trên quan điểm 1 khách quan khoa học. Chính sự thiếu vắng các tri thức cần thiết, thiếu vắng các công trình nghiên cứu khoa học mang tính lý luận và tính thực tiễn về tôn giáo này tại Việt Nam dẫn đến tình trạng nhận thức sai lầm và phiến diện, mâu thuẫn trong quan điểm đánh giá và nhìn nhận, khó khăn, lúng túng , bị động trong việc hoạch định chính sách tôn giáo, chính sách xã hội. Vì vậy, nghiên cứu về đạo Tin Lành, quá trình truyền giáo của đạo Tin Lành tại Việt Nam, trong đó làm rõ những tính chất, đặc điểm cũng như phương thức hoạt động của tôn giáo này, những điều kiện khách quan và chủ quan tác động đến quá trình và kết quả truyền giáo, những hệ quả tác động của việc truyền giáo đối với các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hóa v.v… là đề tài mang tính khoa học và tính thực tiễn cao. Vì những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: Quá trình truyền giáo của đạo Tin Lành tại Việt Nam từ năm 1911 đến năm1975 làm đề tài luận án của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu bao quát và có hệ thống các vấn đề liên quan đến quá trình truyền giáo của đạo Tin Lành tại Việt Nam từ năm 1911đến năm 1975, qua đó rút ra những nhận định về tôn giáo này, làm cơ sở khoa học và thực tiễn để lý giải và làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trình bày quá trình du nhập, tồn tại và phát triển của đạo Tin Lành tại Việt Nam từ năm 1911 đến năm 1975. Phân tích làm rõ những yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến quá trình, kết quả truyền giáo của đạo Tin Lành. Đưa ra những nhận định về đặc điểm cộng đồng,đặc điểm dòng phái và tổ chức giáo hội của tôn giáo này tại Việt Nam. Đánh giá về những hệ quả tác động của quá trình truyền giáo Tin Lành đối với các vấn đề chính trị, xã hội và văn hóa tại Việt Nam. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Vấn đề thuật ngữ, khái niệm “Truyền giáo” có nghĩa là truyền bá tín ngưỡng một tôn giáo(bao gồm cả giáo lý và sự thực hành) cho những người khác. Truyền giáo là công việc của mọi tôn giáo, nhưng có tổ chức, có quy mô nhất là việc Truyền giáo của đạo Kitô trong đó tiêu biểu là đạo Tin Lành. Thuật ngữ“đạo Tin Lành”. tuy ra đời trong hoàn cảnh truyền giáo khá đặc biệt tại Việt Nam nhưng có hàm nghĩa tương đương với thuật ngữ quốc tế “Protestantism” vốn đã được định nghĩa như là một trong ba trào lưu cơ bản của đạo Kitô, sau Công giáo và Chính thống giáo. 3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là đạo Tin Lành tại Việt Nam bao gồm tất cả các tổ chức giáo hội, giáo phái tin lành đã từng du nhập, tồn tại, hoạt động truyền giáo tại Việt Nam giai đoạn 1911 - 1975. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận án Phạm vi nghiên cứu của luận án là lịch sử quá trình truyền giáo của đạo Tin Lành tại Việt Nam từ khởi đầu vào năm 1911 cho đến năm 1975. Luận án tập trung nghiên cứu về Hội Truyền giáo Tin Lành C.M.A. và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (HTTLVN) là hai tổ chức giáo hội lớn mạnh nhất chiếm tới hơn 80% số lượng chức sắc, tín đồ. Các giáo phái, tổ chức tin lành nhỏ, lẻ khác, cũng như đạo Tin Lành tại Miền Bắc cũng sẽ được đề cập tới nhưng trong một số tiết vừa phải. Mảng vấn đề truyền giáo nơi các dân tộc ít người được đề cập, nghiên cứu trong luận án nhưng không thể đi sâu chi tiết vào các lĩnh vực nhân chủng học, tôn giáo tộc người v.v… 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án, nguồn tài liệu sử dụng trong luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo. 3 4.2. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận Phương pháp nghiên cứu chính thống và chủ yếu được sử dụng trong luận án là phương pháp lịch sử. Ngoài ra, do đây là đề tài lịch sử tôn giáo nên chúng tôi còn coi trọng và sử dụng phương pháp tôn giáo học, phương pháp phân tích - so sánh, thống kê, phương pháp phân tích tư liệu, thư tịch v.v.. 4.3. Nguồn tài liệu sử dụng Luận án sử dụng các nguồn tài liệu sau: -Nhóm tài liệu thư tịch gốc: Bao gồm các nghị quyết, các biên bản sự vụ, các bản phúc trình, khai trình công việc Chúa của các cơ quan các cấp của giáo hội Tin Lành. Các bản Điều lệ, Hiến chương của các tổ chức giáo hội tin lành. Một số hồ sơ lưu trữ về hoạt động của các giáo phái, tổ chức Tin Lành. - Nhóm tài liệu xuất hiện trong quá trình hoạt động của đạo Tin Lành: Bao gồm các sách báo, tạp chí Tin Lành, các ấn phẩm truyền giáo và phục vụ truyền giáo, các kỷ yếu ra đời vào các dịp có các sự kiện của các các cấp giáo hội hay các cơ quan chuyên biệt của đạo Tin Lành, các công trình khảo cứu về lịch sử truyền giáo và các lĩnh vực hoạt động khác của giới Tin Lành. -Nhóm tài liệu quan trọng có thể kể đến nữa là các ấn phẩm, công trình nghiên cứu về đạo Tin Lành trên thế giới của các tác giả nước ngoài. Cùng với đó là các ấn phẩm, công trình nghiên cứu về: biên niên các sự kiện lịch sử, lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại, về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam - Ngoài ra,luận án còn sử dụng những tư liệu thu thập được từ các cuộc đi điền dã, nghiên cứu thực địa, xã hội học tôn giáo trong hơn 20 năm qua của tác giả luận án tại các địa bàn có đạo Tin Lành từ Bắc đến Nam. 4 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu tổng quan, có hệ thống dưới góc độ sử học về quá trình truyền giáo của đạo Tin Lành tại Việt Nam từ năm 1911đến năm 1975. Luận án trình bày quá trình du nhập, tồn tại và phát triển của đạo Tin Lành tại Việt Nam từ năm 1911 đến năm 1975, rút ra những nhận định, kết luận về đặc điểm thành phần, tính chất, cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động truyền giáo của tôn giáo này. Đồng thời, luận án cũng làm rõ những yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến quá trình và kết quả truyền giáo của tôn giáo này tại Việt Nam. Luận án cũng đưa ra sự phân tích, đánh giá về tác động của việc truyền giáo Ttin Lành đối với chính trị, xã hội và văn hóa Việt Nam. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Luận án mang lại những luận cứ khoa học có giá trị góp phần phục vụ việc đổi mới chính sách cụ thể là chính sách tôn giáo, ổn định và phát triển xã hội. Đây là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao đặc biệt trong bối cảnh vấn đề tôn giáo - dân tộc đang nổi lên như là vấn đề toàn cầu và tại Việt Nam, đạo Tin Lành đang phát triển nhanh, rộng tại các địa bàn dân tộc thiểu số. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp thêm về kiến thức trong lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo nói chung và đối với đạo Tin Lành nói riêng và là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy trong các lĩnh vực: Sử học, xã hội học, tôn giáo học, văn hóa học và những ai quan tâm đến chủ đề tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 4 chương,17 tiết. 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Nhóm công trình trong nước có đề cập đến vấn đề truyền giáo và đạo Tin Lành 1.1.1. Các công trình nghiên cứu từ bản thân các chức sắc, giáo sĩ và sử gia tin lành Bộ sách của giáo sĩ J.D.Olsen“Thần Đạo học”(1958), đề cập về lịch sử Hội Thánh cũng như nguyên tắc tổ chức giáo hội của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Sau nữa là: Mục sư Phạm Xuân Tín “Tôn chỉ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam” (1957),“Tìm hiểu Hội Thánh Tin Lành Việt Nam” (1958), “Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam” (1962), nói về lịch sử truyền giáo của đạo Tin Lành, quá trình phát triển cũng như tổ chức Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (HTTLVN).Mục sư Lê Văn Thái với cuốn hồi ký“Bốn mươi sáu năm trong chức vụ” (1971) đã ghi chép và công bố nhiều tư liệu về lịch sử truyền giáo của Hội Truyền giáo C.M.A tại Việt Nam cũng như quá trình phát triển của HTTLVN qua các thời kỳ. Năm 1974, Mục sư, tiến sĩ Lê Hoàng Phu với công trình khảo cứu công phu “Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 1911-1965” đề cập khá đầy đủ và chi tiết về các sự kiện, giai đoạn lịch sử của giáo hội Tin Lành tại Việt Nam từ khởi đầu cho đến năm 1965. Thời gian sau, có thế kể đến các công trình nghiên cứu, bài viết về chủ để này như: Nguyễn Quốc Dũng với“Đạo Tin Lành ở Đông Nam Á”(1994); Mục sư Lê Văn Thiện“Hướng về Đại hội Tin Lành toàn quốc” (2000), “Phúc Âm và Văn hóa”,(2010); Mục sư Thái Phước Trường “HộiThánh Tin Lành Việt Nam 100 năm hình thành và phát triển”(2011); Mục sư Mã Phúc Thanh Tươi “Đạo đức Tin Lành và lối sống đạo đức của tín đồ tại Việt Nam hiện nay”(2013). 6 Một số hồi ký của các chức sắc tin lành cũng soi rọi nhiều vấn đề của lịch sử truyền giáo như các cuốn của: Mục sư Phạm Xuân Tín với “Tìm gặp Đấng Chân Thần”(1990); Mục sư Phạm Văn Năm “Dâng trọn cuộc đời-hồi ký 55 năm phục vụ Chúa”(1995); Mục sư Kiều Toản“Hành trình đến với người KaTu và đời sống phục vụ Chúa”(1996); Mục sư Stebbins T.H “Bàn tay trong chiếc găng”(2010); Mục sư Đoàn Văn Miên “Ân Điển diệu kỳ”(2011)v.v… 1.1.2. Các công trình nghiên cứu từ bên ngoài giáo hội Đỗ Hữu Nghiêm “Phương pháp truyền giáo của Tin Lành giáo tại Việt Nam” (1968) là công trình nghiên cứu công phu, đề cập khái quát về lịch sử truyền giáo tin lành tại Việt Nam cùng những ảnh hưởng; Ban Tôn giáo Chính phủ Một số tôn giáo ở Việt Nam” (1993); Nguyễn Thanh Xuân “Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam” (2002) “ Đạo Tin Lành ở Việt Nam”(2006) đã đề cập đến các giai đoạn truyền giáo của đạo Tin Lành tại Việt Nam cùng các mốc sự kiện quan trọng của lịch sử truyền giáo; Một số bài nghiên cứu chuyên sâu khác như: “Tìm hiểu các hệ quả của việc truyền giáo tin lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo tại Việt Nam”, “Về nguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi Tin Lành tại Việt Nam” (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo năm 2000, 2001), “Về lịch sử quan hệ giữa các nhà nước và giáo hội Tin Lành tại Việt Nam” (2003) v.v… Một số luận văn tiến sĩ liên quan đến chủ đề đạo Tin Lành như: Nguyễn Khắc Đức, Vấn đề đạo Tin Lành trong đồng bào dân tộc H’Mông, Dao ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam (2010) và Vũ Thị Thu Hà“Hoạt động truyền giáo của đạo Tin Lành tại Việt Nam và Trung Quốc (từ khởi đầu đến đổi mới - cải cách mở cửa)(2014). Một số bài nghiên cứu chuyên sâu về một số chủ đề liên quan đến lịch sử truyền giáo của đạo Tin Lành tại Việt Nam như tác giả Đỗ Quang Hưng “Đạo Tin Lành ở Việt Nam một cái nhìn tổng quát”,“Nguyễn Ái Quốc và đạo Tin Lành” (2011- 2013). 7 1.2. Nhóm công trình từ nước ngoài có đề cập đến đạo Tin Lành và quá trình truyền giáo Tin Lành tại Việt Nam Đầu tiên là cuốn sử liệu của Giáo sĩ E.F. Irwin “With Christ in Indo - China”, (tạm dịch: Cùng với Chúa ở Đông Dương) (1937) ghi lại các sự kiện liên quan đến thời kỳ đầu truyền giáo. Trong các năm từ 1942 đến 1965 xuất hiện 04 cuốn sách của vợ chồng giáo sĩ G.H. Smith: “The Blood Hunters” (Người săn huyết), “Missionary and Anthropology”(Truyền giáo và nhân chủng học), “Gongs in the Night” (Tiếng cồng trong đêm khuya), “Victory in Vietnam” (Chiến thắng ở Việt Nam). Đây là những ghi chép truyền giáo tại vùng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - Nam Trường Sơn trong khoảng thời gian thập niên 30 đến 60 thế kỷ XX. Tiếp sau là các biên khảo về lịch sử Hội Thánh nói chung, về Hội truyền giáo C.M.A như: Lê Phước Nguyên Lê Hoàng Phu“Lịch sử truyền giáo”(1995) “Cất cánh bay cao:A.B.Simpson, một nghiên cứu về cao độ thuộc linh”(1996) của A.W. Tozer và cuốn “Nghênh đón Vua trở lại” (2000) của tác giả K.M. Bailey; Giáo sĩ Stebbins I.R. với nhan đề “41 năm hầu việc Chúa với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 1920 -1961” (2004); Luận văn tiến sĩ Thần học của Trương Văn Thiên Tư “Mệnh Trời:Hướng đến một Thần học Sứ mạng Việt Nam”(2009)v.v… Các công trình khảo cứu về đạo Tin Lành thế giới của các học giả nước ngoài, các sách chuyên khảo như của Max Webber “Nền đạo đức tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” (2008),Bauberot J.“Lịch sử đạo Tin Lành” (2006) đều rất bổ ích và là liệu mang tính chất công cụ để nghiên cứu, so sánh và đối chiếu về các vấn đề liên quan đến đạo Tin Lành tại Việt Nam. 1.3. Kế thừa từ những người đi trước Các công trình nghiên cứu tiêu biểu của giáo sĩ E.F. Irwin“ With Christ in Indo - China”, (Cùng với Chúa ở Đông Dương), của Mục sư Tiến sĩ Lê Hoàng Phu“Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 8 1911 – 1965”, các sách của Mục sư Phạm Xuân Tín cùng các công trình nghiên cứu mang tính chất tổng kết các giai đoạn truyền giáo sau này của giới chức tin lành đã cung cấp một nguồn sử liệu, tư liệu lớn lao soi rọi các sự kiện, các vấn đề. Bên ngoài giáo hội, chúng tôi đánh giá cao và kế thừa nhiều từ công trình của tác giả Đỗ Hữu Nghiêm “Phương pháp truyền giáo của Tin Lành giáo tại Việt Nam” (1968), trong đó đặc biệt là những sự kiện liên quan đến thời kỳ đầu truyền giáo. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Thanh Xuân với “Đạo Tin Lành ở Việt Nam” (2006), đã có nhiều công sức khảo cứu, hệ thống hóa những mốc sự kiện quan trọng liên quan đến lịch sử truyền giáo của đạo Tin Lành. Về thần học và các trào lưu dòng phái trong thế giới Tin Lành, qua các bài viết của tác giả Đỗ Quang Hưng và các sách công cụ nghiên cứu cơ bản từ bên ngoài cũng đã soi rọi nhiều vấn đề và giúp ích rất nhiều cho việc hoàn thành luận án. 1.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu -Tiếp cận vấn đề nghiên cứu bằng tư duy khoa học và phương pháp luận phù hợp khi đánh giá các sự kiện lịch sử truyền giáo thường được các sử gia tin lành viết dưới nhãn quan thần học. -Tiến hành triển khai nghiên cứu mang tính khai phá một số vấn đề liên quan (những nghiên cứu đi trước chưa từng đề cập tới hoặc chỉ lướt qua) nhằm trả lời những câu hỏi nghiên cứu đặt ra. 9 CHƯƠNG 2 QUÁ TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ĐẠO TIN LÀNH TẠI VIỆT NAM THỜI KỲ 1911-1954 2.1. Khái lược về đạo Tin Lành trên thế giới và tổ chức truyền giáo đầu tiên vào Việt Nam 2.1.1. Khái lược về đạo Tin Lành 2.1.1.1. Sự ra đời của đạo Tin Lành Cuối thế kỷ XVI, từ phong trào Cải Cách tôn giáo tại Đức và Thụy Sĩ, sau đó trong quá trình cách mạng tư sản Anh và Hà Lan, đã ra đời đạo Tin Lành. Tôn giáo mới này bao gồm 03 bộ phận chính cấu thành, đó là: Luther giáo, Cavin giáo và Anh giáo. 2.1.1.2. Những đặc điểm của đạo Tin Lành so sánh với Công giáo Học thuyết, tín điều: Đạo Tin Lành chỉ công nhận Kinh Thánh là cơ sở duy nhất để xây dựng đức tin. Nghi thức thờ phượng: Tin lành chỉ thờ phượng Chúa, cấm ngặt mọi hình thức sùng bái và thờ lạy khác. Về mặt tổ chức: Đề cao tính tự chủ, độc lập, tự quản của từng cộng đồng cơ sở. 2.1.2. Lược sử phong trào truyền giáo tin lành trên thế giới Đầu thế kỉ XVII, nhiều nhóm tin lành di cư sang Bắc Mỹ. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX, các đoàn truyền giáo Tin Lành tiến hành truyền giáo ra toàn cầu. 2.1.3. Về tổ chức tin lành đầu tiên tiến hành truyền giáo vào Việt Nam Hội Truyền giáoTin Lành C.M.A(The Christian and Missionary Alliance), do Mục sư, tiến sĩ A.B Simpson (1843-1919) là Hội Trưởng chính là tổ chức đã gửi các giáo sĩ tin lành đầu tiên đến Việt Nam. 10 2.2. Bối cảnh lịch sử và xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX 2.2.1. Bối cảnh chính trị Vào đầu thế kỷ XX, toàn bộ đất nước ta bị đặt dưới quyền thống trị của Pháp. Năm 1887, Liên bang Đông Dương được thành lập. Theo đó Việt Nam bị cắt làm 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ là đất bảo hộ, còn Nam Kỳ là xứ thuộc địa.Thực dân Pháp đã củng cố bộ máy cai trị và bắt đầu đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất 2.2.2. Bối cảnh xã hội, văn hoá, tín ngưỡng tôn giáo Công cuộc khai thác thuộc địa đã dẫn đến các biến chuyển quan trọng trong cấu trúc xã hội Việt Nam. Về tình hình tôn giáo: Chiếm vị thế nổi bật vẫn là Tam giáo: Phật, Đạo, Nho.Đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt cùng vô vàn các hình thức tín ngưỡng dân gian được đông đảo quần chúng tin theo. 2.3. Truyền giáo tin lành trong giai đoạn 1911- 1945 2.3.1. Những giáo sĩ tin lành đầu tiênđếnViệt Nam Năm 1911, ba giáo sĩ thuộc Hội Truyền giáo C.M.A chính là những người đầu tiên thiết lập trụ sở và tiến hành truyền giáo cho người bản xứ tại đây. 2.3.2.1. Khởi đầu quá trình truyền giáo và phương pháp của các giáo sĩ tin lành Thời kỳ đầu, các giáo sĩ chủ yếu học tiếng, dịch Kinh Thánh, mở các cơ sở đầu tiên. Trong thời kỳ từ 1921 đến 1927, lập trụ sở truyền giáo tại 14 địa điểm từ Bắc vào Nam, đến năm 1927 là 87 địa điểm. Năm 1921: Lập Trường Kinh Thánh Đà Nẵng đào tạo đội ngũ mục sư, truyền giáo bản xứ, đến 1927..Số tín đồ và chi hội: Năm 1927, có được 4.236 người theo đạo và 74 chi hội. Thời điểm 1934, đạo Tin Lành đã phát triển được 38 chi hội ở Bắc Kỳ, 34 tại Trung Kỳ và 47 tại Nam Kỳ. 11 2.3.3.2. Sự ra đời của Hội Tin Lành Đông Pháp - Bản điều lệ đầu tiên của tổ chức tin lành bản xứ Năm 1927, các giáo sĩ đã tổ chức giáo hội cho tín đồ người bản xứ với tên là Hội Tin Lành Đông Pháp. Năm 1928, bản Điều lệ - Hiến Chương của tổ chức mới đã được thông qua. 2.3.3. Tổng quan về chính sách của chính quyền thuộc địa Pháp đối với đạo Tin Lành, diễn biến và kết quả truyền giáo giai đoạn 1928 - 1945 2.3.3.1. Tổng quan về chính sách của chính quyền thuộc địa Pháp đối với đạo Tin Lành Chính quyền Pháp đã ngăn cản tối đa hoạt động của các giáo sĩ Mỹ và đội ngũ chức sắc người bản xứ vì lo sợ ảnh hưởng ngầm của họ. Tuy nhiên, do áp lực ngoại giao và để duy trì nền cai trị, họ đã nới lỏng các biện pháp kiểm soát và thi hành chính sách cấp phép theo từng vùng,từng địa phương để hạn chế hoạt động của giới chức tin lành. 2.3.3.2. Hoạt động và kết quả truyền giáo giai đoạn 1928 -1945 Đây là giai đoạn Tin Lành mở rộng vòng truyền giáo tại cả 3 miền và đã thu được kết quả khá là tích cực. Số chi hội và số tín đồ tăng trưởng chủ yếu tại Nam Kỳ và Trung Kỳ, Bắc Kỳ số người hưởng ứng không cao. Số liệu tổng quan về tình hình Hội Thánh chỉ đến năm 1940 sau đó là thời kỳ suy thoái. 2.3.3.3. Khởi đầu việc truyền giáo đối với các dân tộc thiểu số và sự xuất hiện của giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm Năm 1929, giáo sĩ H.A Jakson đến Đà Lạt, mở trụ sở truyền giáo cho người Cơ ho. Năm 1933, giáo sĩ G.H Smith đến Buôn Ma Thuột, lập trụ sở truyền giáo cho người Êđê, M’nông, Giarai v.v… Hoạt động truyền giáo bị gián đoạn trong thời gian (19431945).Năm 1951, các giáo sĩ lập “Địa hạt Thượng du” cho các chi hội Tin Lành dân tộc vùng Tây Nguyên- Nam Trường Sơn Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm – giáo phái tin lành thứ hai du nhập vào Việt Nam từ năm 1915, trong thập niên 20 thế kỷ XX đã tiến hành truyền giáo và gây dựng những chi hội đầu tiên. 12 2.4. Truyền giáo Tin Lành trong giai đoạn 1946- 1954 Chiến tranh thế giới lần thứ II đã tác động mạnh đến tổ chức giáo hội tin lành. Số tín đồ, chi hội giảm sút mạnh. Hệ thống tổ chức của Tin Lành hầu như tê liệt. Các nhà lãnh đạo giáo hội gọi đây là “Thời kỳ khoái lui và tan lạc”. Sau năm 1954, đã có khoảng 1.000 tín đồ Tin Lành tại miền Bắc đã di cư vào Nam (chiếm 50%). 14 cặp vợ chồng Mục sư, Truyền đạo và một nửa số tín đồ ở lại trong 20 chi hội rải rác khắp miền Bắc (đa phần là đi kháng chiến trở về) đã gây dựng nên tổ chức mới: Hội Thánh Tin Lành Việt Nam miền Bắc. CHƯƠNG 3 QUÁ TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ĐẠO TIN LÀNH TẠI VIỆT NAM THỜI KỲ 1955 - 1975 3.1. Bối cảnh chính trị, xã hội và văn hóa tại miền Nam Việt Nam từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 3.1.1. Bối cảnh chính trị Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền Mỹ đã nhanh tróng can thiệp vào Việt Nam, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền,chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Giới chức Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm ra sức xây dựng bộ máy chính quyền và lực lượng quân sự cho chế độ Sài Gòn trở thành công cụ đắc lực đàn áp phong trào cách mạng miền Nam. Thất bại trong việc thực hiện hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới, đế quốc Mỹ đã bị động đối phó bằng cách tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (từ 1961 đến giữa 1965), sau đó là “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) 3.1.2. Bối cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa Nền kinh tế được nuôi dưỡng bằng ngoại viện và phục vụ cho nhu cầu cuộc chiến. Dưới tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã 13 hội miền Nam thời kỳ 1954 - 1975 có những xáo trộn dữ dội. Các cộng đồng, nhóm tôn giáo cũng góp phần thêm vào sự bất ổn và xáo trộn xã hội ở miền Nam thời kỳ 1954 - 1975. Về văn hóa, dòng chù đạo mang tính chính thống vẫn là văn hóa truyền thống của người Việt. 3.2. Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với các tôn giáo 3.2.1. Chính sách và sự thực thi Điều 17 của “Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956” có ghi “Mỗi công dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, tự do hành đạo và dạy đạo, miễn là sự vận dụng những quyền này không trái với đạo đức”. Đối vói tư cách pháp lý của cá tổ chức tôn giáo, chính quyền Sài Gòn duy trì nguyên tắc “Luật bất hồi tố” đối với các luật, nghị định, sắc lệnh trước đây đã được các giới chức thực dân Pháp và triều đình An Nam ban hành nếu như không có văn bản pháp luật chính thức nào của chính quyền tuyên bố xóa bỏ. Tuy nhiên, trên thực tế chính quyền Sài Gòn lại đặc biệt ưu đãi giáo hội Công giáo, các tôn giáo khác chỉ được tư do khi tuân phục nhà cầm quyên. 3.2.2. Chính sách đối với đạo Tin Lành Có hai giai đoạn rõ rệt phản ánh sự thay đổi chính sách đối với đạo Tin Lành tại miền Nam. 3.2.2.1. Thời kỳ miền Nam dưới chính thể Ngô Đình Diệm Chính quyền Ngô Đình Diệm hết sức cảnh giác và tỏ ra không mấy thân thiện với các tổ chức giáo hội, giáo phái Tin Lành. 3.2.2.2. Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975 Chiến tranh lan rộng. Chính quyền Sài Gòn phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ quân sự và dân sự Mỹ. Đạo Tin Lành được tự do tuyệt đối để hoạt động. 3.3. Hoạt động truyền giáo của Hội Truyền giáo C.M.A và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 3.3.1. Hoạt động truyền giáo giai đoạn 1955- 1965 HTTLVN ra sức tìm kiếm sự cộng tác , viện trợ của các tổ chức tin lành thế giới để gia tăng hoạt động. 14 Về tổ chức: Chú trọng việc chấn chỉnh và áp dụng thống nhất các quy chuẩn về giáo nghi, giáo luật, thần học. Năm 1956, đã thông qua bản điều lệ (hiến chương) có sửa đổi. HTTLVN chú trọng và đẩy mạnh hoạt động trong các lĩnh vực an sinh - xã hội qua việc thành lập và đưa vào hoạt động các cơ sở văn hoá- y tế, cứu trợ, từ thiện. Việc thành lập các cơ quan, tổ chức truyền giáo chuyên biệt được tiến hành.Quy mô truyền giảng lan từ thành thị đến nông thôn, đặc biệt trong các dinh điền miền Trung. Các “Ấp dân sinh”, “Ấp chiến lược”, các quân lao, trại lính, vùng dân tộc ít người đều được đồng loạt nối lại và tiến hành truyền giáo quyết liệt. 3.3.2. Hoạt độngtruyền giáo giai đoạn 1965- 1975 Vào thời điểm 1973 cho biết, vào thời điểm đó đã có hơn 50 tổ chức, giáo phái, cơ quan xã hội tin lành thế giới đến giúp đỡ HTTLVN trong công tác truyền giáo. Thời kỳ 1965 - 1975 cũng là thời kỳ HTTLVN phát triển và hoàn thiện các cơ cấu, tỏ chức, cơ quan điều hành của mình. Năm 1969, Địa hạt Thượng Du được tách ra làm 02 Hạt mới là Trung Thượng hạt và Nam Thượng hạt. Địa hạt Nam hạt cũng chia ra thành Đông Nam hạt và Tây Nam hạt. Năm 1971, Tây Nam hạt lại chia thành Tiến Giang hạt và Hậu Giang hạt, đưa tổng số các địa hạt lên tới con số 7. 3.4. Hoạt động truyền giáo giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu sốtại Nam Trường Sơn-Tây Nguyên giai đoạn 1955-1975 Từ giữa thập niên 50 của thế kỷ XX, lực lượng giáo sĩ tại Tây Nguyên được tăng cường, thêm nhiều tổ chức, đoàn truyền giáo có mặt tại đây.Việc truyền giáo tại Tây Nguyên đã mang qui mô và tính chất tổng lực. Các giáo sĩ đã áp dụng cả hai hình thức truyền giáo: Trực tiếp và gián tiếp để truyền giáo. Cộng đồng tín đồ tin lành người dân tộc gây dựng được chủ yếu thuộc về tổ chức của Hội Truyền giáo C.M.A và HTTLVN. 15 3.5. Hoạt động truyền giáo của các tổ chức, giáo phái khác tại miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 - 1975 3.5.1. Các giáo hội, giáo phái, hội truyền giáo hoạt động độc lập, gây dựng đội ngũ tín đồ riêng Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm Cơ Đốc Truyền giáo Hội (W.E.C) Giáo phái Báp tít Giáo phái Ngũ Tuần (Pentecostism) Giáo phái Nhân Chứng Giê-Hô-Va (Jehovan’h winesses) Hội Thánh Đấng Christ (Church of Christ) Giáo phái Mennonite Cộng đồng tin lành ngoại kiều 3.5.2. Các tổ chức hỗ trợ truyền giáo chuyên biệt hoặc đồng thời trực tiếp truyền giáo nhưng không gây dựng tổ chức giáo hội riêng Thánh Kinh Hội Anh Quốc Hải Ngoại và Thánh Kinh Hội Mỹ Hội Phiên dịch Kinh Thánh Wicliffe (Wicliffe Bible Translators, Inc.) hay còn có tên khác là Viện Chuyên khảo Ngữ học Mùa hè (Summer Institute of Linguistics - S.I.L) Hội Hoàn Cầu Khải Tượng (World Vision Relief Organisation, Inc) 3.5.3. Các tổ chức xã hội, từ thiện tin lành Quỹ bảo trợ Nhi đồng Cơ Đốc giáo (Christian Children’s Fund, Inc) Tổ chức xã hội Tin Lành Việt Nam (Vietnam Christian Service - V.C.S) Cơ quan xã hội Tin Lành Á Châu (Asian Christian Service - A.C.S) 3.6. Đạo Tin Lành tại miền Bắc thời kỳ 1955 - 1975 3.6.1. Bối cảnh chính trị xã hội ở miền Bắc sau năm 1954 và chính sách của nhà nước đối với tôn giáo Tại miền Bắc sau khi hòa bình lập lại, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành, cả miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đấu tranh đòi thi hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước, tiếp quản vùng giải phóng, hoàn thành cải cách 16 ruộng đất, hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong giai đoạn này do Mỹ mở rộng chiến tranh nên miền Bắc vừa chống chiến tranh hoại và chi viện cho miền Nam. 3.6.2. Hội Thánh Tin Lành Việt Nam miền Bắc trong giai đoạn 1955- 1975 Ngày 12 tháng 4 năm 1955 Hội Thánh Tin Lành Việt Nam miền Bắc được thành lập. Bản Điều lệ năm 1963 ghi rõ tôn chỉ bao gồm 2 điểm: - Hết lòng kính thờ Đức Chúa Trời Ba Ngôi. - Yêu Tổ quốc, bảo vệ hoà bình, thực hiện công bằng bắc ái, tự do, bình đẳng và lao động. Do quy mô các chi hội tin lành tại miền Bắc nhỏ bé nên cơ cấu tổ chức của HTTLVN (miền Bắc) chỉ bao gồm 2 cấp: Tổng hội và Chi hội.Có tổ chức giáo hội mới, thực sự tự trị, tự lập và một đường hướng hoạt động tích cực, tiến bộ đã cổ động và hướng dẫn cộng đồng tin lành tại miền Bắc tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. CHƯƠNG 4 TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO TIN LÀNH ĐỐI VỚI CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM 4.1. Truyền giáo tin lành với lĩnh vực chính trị Luận điểm chung của giới chức tin lành là: “Tin Lành không làm chính trị, không liên quan đến chính trị”. Điều lệ, hiến chương của HTTLVN cũng thường nhấn mạnh tới lập trường trên. 4.1.1. Giáo hội Tin Lành trong quan hệ với các chính quyền và xuất phát điểm lập trường về chính trị của HTTLVN Thời kỳ đầu truyền giáo, các giáo sĩ của Hội Truyền giáo C.M.A bị giới chức Pháp nghi ngờ và cảnh giác. Sau nhiều cố gắng 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất