PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay khai thác thủy sản biển là một trong những lĩnh vực đóng góp
quan trọng vào sự phát triển chung của các tỉnh ven biển. Cả nước ta có đường
bờ biển dài khoảng 3260km cùng với nhiều đầm phá, eo vịnh biển đã tạo điều
kiện cho việc tiến hành các hoạt động khai thác thủy sản phát triển góp phần cải
thiện đời sống cho ngư dân.
Tuy nhiên, hoạt động khai thác thủy sản cũng gặp khá nhiều rủi ro về điều
kiện thời tiết, diễn biến thị trường không ổn định và tình trạng cạn kiệt dần của
các nguồn lợi thủy sản, áp lực của sự gia tăng dân số và nhu cầu tiêu thụ thủy
hải ngày càng gia tăng, cho nên sinh kế của cộng đồng khai thác thủy sản biển
hết sức bấp bênh. Bên cạnh đó, các hoạt động đánh bắt hủy diệt như sử dụng
chất nổ, xung điện, hóa chất độc hại.... cũng đóng góp phần không nhỏ vào việc
phá hoại môi trường biển.
Phong Hải là một xã bãi ngang ven biển cách trung tâm huyện Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế 27km về phía đông bắc. Và đây có thể coi là một
trong những làng biển có lịch sử lâu đời nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế, vùng
đất nơi đây còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa của dân tộc, các làng nghề truyền
thống. Nguồn thu nhập của nhân dân trong xã chủ yếu nghề khai thác thủy sản
biển và một bộ phận nhỏ chuyên sản xuất nông nghiệp, làm ăn mua bán nhỏ[9].
Nhưng với nguồn tài nguyên biển ngày càng bị suy giảm, để có một sinh kế bền
vững hơn người dân ở đây đã có những thay đổi trong hoạt động sinh kế của
mình nhằm thích nghi với điều kiện hiện tại, cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần cho chính họ.
Xuất phát từ vấn đề trên, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Quá trình thay
đổi hoạt động sinh kế và ứng phó với thay đổi tài nguyên môi trườngvà kinh tế
xã hội của cộng đồng khai thác thủy sản biển tại xã Phong Hải, huyện Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
1
1.2.
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu quá trình thay đổi và đa dạng hóa hoạt động sinh kế cộng đồng
khai thác thủy sản biển Phong hải.
Đánh giá vai trò của hoạt động khai thác thủy sản biển và ngành nghề đến
cuộc sống cộng đồng.
Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thay đổi hoạt động sinh kế
của cộng đồng.
2
PHẦN 2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1.
Các khái niệm liên quan
2.1.1. Khái niệm sinh kế
Có nhiều định nghĩa khác nhau về sinh kế, tùy theo quan điểm và bối cảnh
đưa ra định nghĩa cũng như những khía cạnh quan tâm khác nhau trong quá trình
thực hiện công tác phát triển.
- Theo từ điển tiếng việt: Sinh kế là một cách để sống[1].
- Theo tiếng nga: Sinh kế có nghĩa là tạo thu nhập và việc làm nông thôn (
Hội nghị các đối tác dự án ADAS/DFID)[1].
- Theo tiếng Tây Ba Nha: Sinh kế có nghĩa là một cách sống bền
vững…(Dự án DFID/FORCIAT, bolovia)[1].
- Theo Chamber and Conway (1992): Một sinh kế bao gồm khả năng (
capaciti), tài sản (assets) - (Các nguồn dự trữ, các nguồn tài nguyên, quyền được
bảo vệ và tiếp cận) và các hoạt động cần có cho một cách thức kiếm sống[1].
- Theo Ellis một sinh kế bao gồm tài sản (assets) - (Tự nhiên, phương tiện
vật chât, con người, tài chính và vốn xã hội), các hoạt động, và việc tiếp cận đến
các tài sản và các hoạt động này (qua thể chế, quan hệ xã hội) tất cả cùng nhau
xác định sự sống mà cá nhân hay hộ gia đình nhận được[1].
- Theo DFID: Sinh kế là một tập hợp của việc sử dụng các nguồn lực thực
hiện các hoạt động để sống. Các nguồn lực có thể bao gồm kỹ năng và khả năng
(vốn con người) của một cá nhân, đất đai tiết kiệm và trang thiết bị (vốn tự
nhiên,vốn tài chính và vốn vật chất), các nhóm hỗ trợ chính thức hay các mạng
lưới không chính thức hỗ trợ cho việc thực thi các hoạt động (vốn xã hội). Để
mỗi hoạt động sinh kế có hiệu quả cao và mang tính bền vững đòi hỏi phải có sự
tìm tòi, nghiên cứu kĩ lưỡng về các nguồn lực sẵn có của mỗi địa phương và mỗi
cá nhân, phù hợp với khả năng, trình độ của từng đối tượng và phải có tính khả
thi cao[1].
Qua các khái niệm trên ta có thể rút ra được kết luận: Sinh kế là một cách
để kiếm sống, tạo thu nhập và việc làm một cách bền vững. Một sinh kế bao
gồm khả năng, tài sản (kể cả nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động và
việc tiếp cận đến các tài sản và các hoạt động này (qua thể chế, quan hệ xã hội)
tất cả cùng nhau xác định sự sống mà cá nhân hay hộ gia đình nhận được[1].
3
2.1.2. Khái niệm về khai thác thủy sản
Theo quy định tại khoản 4, Điều 2 Luật Thủy sản năm 2003 thì khai thác
thủy sản được hiểu là việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản trên biển, sông, hồ,
đầm, phá và các vùng nước tự nhiên khác[4].
Khai thác thủy sản biển là việc khai thác nguồn lợi thủy sản trên biển.
2.2.
Đặc điểm cộng đồng khai thác thuỷ sản biển
2.2.1. Dân cư và lao động
Việt nam có 28 tỉnh và thành phố có bờ biển (5 tỉnh miền Bắc, 14 tỉnh, thành
miền Trung và 9 tỉnh thành Đông và Tây Nam Bộ) bao gồm 120 huyện, thị xã có
bờ biển. Khoảng 700 xã phường có biển và có hoạt động khai thác thuỷ sản, trong
đó theo thống kê và điều tra của Viện Kinh tế và Quy hoạch Thuỷ sản năm 1994
có 68 xã phương nằm trong các thị trấn thị xã và thành phố, 307 xã phường đánh
cá nằm trên các cửa lạch và 363 xã nằm trên các bãi ngang[2].
Dải ven biển có dân cư tập trung khá đông đúc và mật độ dân số khá cao
trung bình khoảng 369 người/km2. Song sự phân bố dân cư ở đây rất không đồng
đều giữa các khu vực, chẳng hạn, từ Hải Phòng tới Ninh Bình mật độ trung bình
năm 2001 là 981 người/km2, từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế 198 người/km2,
ở Đồng Bằng Sông Cửu Long 57746 người/km2[2].
Số dân trong độ tuổi lao động ở vùng ven biển chiếm khoảng 50%. Số lao
động ở độ tuổi 15 – 44 chiếm tỉ lệ cao nhất và thấp dần ở độ tuổi 55 – 60, đăc biệt
ở độ tuổi 15 – 24 số lao động chiếm tỉ lệ khá lớn ở hầu hết các vùng[2].
Cả 2 khu vực nông thôn và thành phố đều có tỉ lệ lao động cao ở nhóm tuổi
15 – 24 và 25 – 34, trong đó cao nhất là nhóm tuổi từ 25 – 34 ở khu vực thành thị
và nhóm tuổi từ 15 – 24 ở nông thôn. Nhìn chung lao động nông thôn ở độ tuổi 15
– 24 là nguồn lao động chính. Vì vậy, đào tạo chuyên môn kỹ thuật, ứng dụng
khoa học vào sản xuất là nhiệm vụ cần thiết của việc nâng cao chất lượng nguồn
lao động – động lực quan trọng để phát triển xã hội[2].
Lực lượng lao động nữ của khu vực chiếm 50% số người lao động, điều đó
đặt ra vấn đề cần nghiên cứu tạo việc làm thích hợp và có chính sách chế độ hợp
lý đối với lao động nữ, nâng cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội[2].
2.2.2. Khái quát về các loại hình các cộng đồng ngư dân
Những làng cá ở Việt nam thường có quy mô nhỏ như tính nhỏ bé của nghề
cá vậy. Trong 411 làng cá ở Trung Bộ chẳng hạn, có tới 244 làng cá bãi ngang
4
với những người ngư phủ nghèo khó và các con thuyền bé nhỏ. Tỉnh điển hình
có nhiều làng cá bãi ngang nhất là Thừa Thiên Huế, trong số 42 làng cá của tỉnh
này có tới 30 làng bãi ngang và đầm phá[2].
Các cộng đồng dân cư làm nghề cá bãi ngang thường phải kết hợp với các
hoạt động khác như nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi lợn, làm muối, làm nông
nghiệp hoặc đi làm thuê làm mướn mới đủ sống. Ở một số vùng vẫn còn tồn tại
những gia đình đánh cá nghèo khổ, cả gia đình sống trên những chiếc thuyền nhỏ
bé ọp ẹp. Đó là những người ngư dân thuỷ cư. Thông thường họ hộ khẩu tại các
xã trên bờ nào đó song thực chất họ không có đất đai trên đất liền. Cuộc sống của
các gia đình ngư dân này ở nhiều vùng gần đây được cải thiện nhờ giá cá sống
tăng, bắt đầu biết kết hợp khai thác cá với du lịch và nuôi trồng thuỷ hải sản bằng
lồng bè hay lồng sáo[2].
Khác với nghề cá bãi ngang, nghề cá ở các tụ điểm hình thành ở các cửa
lạch sâu, bến bãi tốt, gần ngư trường đã tạo nên những sự phát triển tự nhiên
truyền thống của nghề cá biển với sự tập trung nhiều tàu thuyền lớn, số đông
ngư dân và tiếp cận thuận tiện với nguồn cung cấp điện, nước, đường xá giao
thông, chợ búa. Việc giao lưu buôn bán phát đạt và ngoài nghề cá còn phát triển
mạnh thương mại, dịch vụ, đang hình thành dần các thị trấn thị tứ. Hoạt động
kinh tế của các tụ điểm dân cư ven biển nghề cá ngày nay mang tính hỗn hợp,
tổng hợp và đa dạng[2].
Tuy có đến 2/3 số làng cá ở Việt Nam có kết hợp về khai thác cá với các
nghề khác nhưng trong thực tế điều tra ngay ở các làng cá này sự kết hợp giữa
các loại hình sinh kế chỉ mang tính hình thức vì lao động đánh cá dù có ít hơn
lao động làm các nghề khác ở các làng ven biển họ cũng là nguồn đảm bảo sinh
kế chủ yếu của các hộ gia đình làm nghề đánh cá. ở một số gia đình, vợ hoặc
con những người đánh cá hoặc những người già cả có làm thêm nông nghiệp,
chăn nuôi, làm muối. Khác với trường hợp trên, nhiều làng ở rất sâu trong các
triền sông hoặc ở các thị trấnn trên các triền sông có cửa thông ra biển, có nhiều
gia đình lấy nghề cá làm nghề thứ hai (chẳng hạn khoảng 300 gia đình ở huyện
Nam Thanh – Hải Hưng, 400-500 gia đình ở huyện Thuỷ Nguyên – Hải Phòng,
hàng chục gia đình ở thị xã Uông Bí-Quảng Ninh, ở một số làng thuộc các tỉnh
Thanh Hoá, Quảng Bình…) có nhiều nông dân sắm thuyền nhỏ đi đánh cá ở ven
biển vào mùa nông nhàn hoặc một vài lao động trong nhà đi đánh cá, còn đại bộ
phận thời gian họ canh tác ruộng dất[2].
Những làng cá nghiệp dư thông thường đi đánh với các trang bị thủ công
5
thô sơ. Tuy nhiên do ít kinh nghiệm khai thác và đi biển, lực lượng này lại là lực
lượng dùng nhiều lại ngư cụ huỷ diệt môi trường và bất hợp pháp nhất như: chất
nổ, te xúc điện,… Về mặt xã hội, họ thường đi và ở với nhau theo hình thức du
thuỷ của một tập hợp dòng họ 6-15 gia đình anh em, chú bác, họ hàng cùng đánh
trên một ngư trường, ban ngày cùng tụ tập neo thuyền với nhau một chỗ vừa hỗ
trợ cho nhau về nghề nghiệp vừa bảo vệ lẫn nhau[2].
Ở các làng cá quy mô nhỏ, bãi ngang thì việc khai thác hải sản và thương
mại hải sản, chế biến hải sản luôn luôn gắn bó với nhau. ở các làng cá bãi ngang
và quy mô nhỏ, đại bộ phận hải sản đánh bắt được của từng hộ gia đình được vợ
con ngư dân tiêu thụ trực tiếp ở các chợ hoặc bãi bán cá gần đó. Những người
buôn cá từ các thành phố, thị xã, thị trấn hoặc các trạm thu mua của các nhà máy
về đây mua trực tiếp, ít có trường hợp bán mua theo “hợp đồng”. Việc bán mua
thường diễn ra theo phương thức mặc cả từng loại hàng, từng lô hàng trực tiếp
được phân loại từ trước. Ở các xóm đánh cá nhỏ và vừa ở cửa lạch, cửa sông,
đặc biệt ở phía Nam (từ Nam miền Trung trở vào) tình hình diễn ra lại khác. Đại
bộ phận những nơi này các nậu, vựa hoạt động rất mạnh. Họ thường ứng tiền
trước cho ngư dân và đôi khi cung cấp cho ngư dân những vật tư cần thiết. Hải
sản ngư dân đánh được bao giờ cũng đem về bán cho họ. Họ thường chỉ lấy mua
hàng ổn định làm mục đích chứ không bắt chẹt về giá cả, tuy không phải mặc
cảm song họ vẫn mua sát với giá thị trường hàng ngày theo thời điểm. Do vậy,
phần lớn ngư dân tin tưởng ở đầu nậu và cách thức này đã giúp cho ngư dân rất
nhiều và tổ chức hàng xã thêm chặt chẽ[2].
Trước đây hình thức nậu, vựa chỉ có ở các tỉnh Nam miền Trung và Nam
bộ. Ngày nay, hình thức này đã lan ra ngoài Bắc miền Trung. Những cuộc khảo
sát ở cửa Nhượng (Hà Tĩnh), Biện Sơn (Thanh Hoá) đã cho thấy có một số chủ
nậu, vựa xuất hiện. Ở miền Bắc chưa thấy xuất hiện hình thức buôn buôn bán
lọai này ở các làng cá. Tuy nhiên, ở miền Bắc hình thức mua bán cá ngay trên
mặt biển lại phổ biến. Rất nhiều dân buôn bán cá đi mua cá ngay trên các ngư
trường gần bờ bằng thuyền máy hoặc thuyền nan. Họ ép thuyền sát vào thuyền
của ngư dân để mua bòn góp. Việc bán mua này cũng thuận tiện vì thường đánh
cá gần bờ sản lượng mỗi đêm chẳng được là bao, không thông đi chợ. Khoảng
15 năm trở lại đây, kể từ năm 1989, ở Quảng Ninh và Hải Phòng xuất hiện một
số chợ cá sống và hải sản xuất khẩu trên biển do thương gia Trung Quốc mua.
Ngư dân thường đánh bắt được cá tôm sống, lập tức đem bán cho họ hoặc bán
cho những người buôn bán cá sống để họ bán lại cho người Trung Quốc[2].
Ngược lại, ở các tỉnh Nam bộ, với các ngư dân có thuyền đánh cá lớn với
6
sản lượng lớn thì ngư dân ít trực tiếp bán cá. Khi thuyền về tới bến, chủ thuyền
thường giao toàn bộ số cá trên thuyền cho người bán thuê. Những người bán này
nắm vững thị trường và tổ chức bán và lấy công theo phần trăm doanh thu của
chủ thuyền cá[2].
Ở miền Trung, đặc biệt là Bắc Trung bộ, các gia đình của người đánh cá
ngoài tham gia các công việc bán cá còn tích cực tham gia vào các công việc chế
biến cá (như cá khô, cá hấp, nước mắm, cá nướng, mắm chua). ở đâu nghề cá
lớn tập trung thì thường mọi công việc chế biến được chuyên môn hoá. Các gia
đình đánh cá thường không chế biến. ở các vùng ngư dân di chuyển theo ngư
trường nhiều thời gian trong năm thì ở đó các gia đình ngư dân cũng ít có thói
quen tham gia buôn bán và chế biến cá[2].
Hiện nay sự phân hoá trong những cộng đồng người đánh cá và giữa các
cộng đồng người đánh cá đang xảy ra rất gay gắt. Một bộ phận cộng đồng đánh
cá nhờ có cơ chế mới và thị trường mở, với một số vốn nhất định tích luỹ được
từ trước và cơ sở hậu phương gia đình vững chắc trở nên giàu có nhanh chóng,
sắm được tàu thuyền lớn và hướng vào khai thác những loài cá có giá trị kinh tế
cao trên thương trường cho xuất khẩu chính thống hay tiểu ngạch. Tuy nhiên có
khá nhiều ngư dân đánh cá ven bờ bằng các nghề thủ công đơn giản trang bị
bằng các loại ngư cụ nhỏ bé truyền thống như lưới cào, lưới bén, te xiệp … càng
ngày càng trở nên khó khăn và nghèo khó do ngư trường càng ngày càng kiệt
quệ và thu hẹp[2].
2.2.3. Tổ chức cộng đồng ở các làng cá
Hiện chỉ còn rất ít hợp tác xã tồn tại theo đúng thể thức của nó, tuy tàu thuyền
còn là tài sản chung nhưng đã khoán cho các đội hoạt động. Mỗi thuyền thường là
tài sản chung của một nhóm chủ, họ cùng chịu trách nhiệm góp hoặc vay vốn đầu
tư, cùng hưởng lợi và chịu lỗ. Họ ăn chia theo vốn góp sau khi trừ phần trả nợ và
thuê thợ cùng với các chi phí tác nghiêp. Trên thuyền thường có 4-10 thợ bạn đi
ghép. Sản phẩm làm ra được bán và thường chia tứ lục: 6 phần cho tài sản và 4
phần cho công lao động đánh cá. Sở hữu cá nhân những người chủ thuyền là
thuyền trưởng: Tàu thuyền do một gia đình sắm ra. Thông thường thuyền trưởng và
máy trưởng là chủ thuyền đảm nhận, thợ bạn đi ghép. Tàu lớn chia tứ – lục, thuyền
nhỏ chia ngũ – ngũ. Tàu cho thuê (mướn): một số tư nhân ở các làng cá ở Nha
Trang (Khánh Hoà), Mũi Né và Cồn Chà (Bình Thuận) sắm một số tàu đánh cá và
thuê thợ bạn đi đánh cá. Có 2 hình thức trả công: khoán tứ-lục (4/6) hoặc trả công
theo qui định thưởng. Phần lớn thợ bạn là nững ngư dân trẻ nghèo từ các làng cá ở
7
Quảng Ngãi, Bình Định đi làm thuê. Cũng có những nơi, chủ thuyền thuê thợ theo
công nhật cố định với mức trả khác nhau: tài công 25.000-30.000 đồng/ngày, thợ
máy 15.000-20.000 đồng/ngày…[2].
Các xã làm nghề cá có hệ thống chính quyền quản lý dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ địa phương và do Hội đồng nhân dân xã lập ra… ở UBND các xã nghề
cá thường có một ban hải sản từ 1-3 người do một uỷ viên uỷ ban phụ trách. Ban
(hoặc uỷ viên này chịu trách nhiệm chung về tình hình sản xuất nghề cá (đăng
ký nghề nghiệp, đăng ký sản xuất, thuế tài nguyên, xác nhận đơn vị di chuyển
ngư trường, thống kê sản xuất và nắm nhu cầu của ngư dân để phản ánh với
chính quyền, kiến nghị về tín dụng cho các hộ ngư dân…) ban hải sản còn tham
gia với tổ tư pháp của uỷ ban xã giải quyết các mâu thuẫn xảy ra trong nội bộ
ngư dân[2].
Vài năm lại đây ở một số địa phương đã tổ chức các chi hội nghề cá tập
hợp những ngư dân trong 1 hội. Chi hội làm nhiệm vụ tập hợp ngư dân, giới
thiệu kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, giải hoà các mâu thuẫn nội bộ và thông tin
thị trường[2].
Vạn là một tổ chức truyền thống của ngư dân xưa kia sống và hành nghề
đánh cá trên các bãi hoặc khu vực nước ven biển hoặc sông. Ngày xưa họ chưa có
đất định cư ở trên bờ nên vạn là tổ chức “làng, xã” của họ. Địa danh ở miền Trung
nhiều nơi còn ghi lại dấu ấn các vạn này như Vạn Ninh, Vạn Giã… Ngày nay ngư
dân đã có nơi cư ngụ cố định ở trên bờ, nên vạn chỉ còn lại với nội dung tổ chức
của nó. Vạn ngày nay thường có trụ sợ ở các chùa, đền, hay miếu ở cửa sông.
Trưởng vạn thường là một ngư dân giỏi cúng bái được hội nghị các chủ thuyền
bầu ra hàng năm. Chủ vạn làm lễ thề khi nhận chức trước thần linh của vạn thờ.
Chủ vạn được chọn lọc rất kỹ những người có uy tín, không có chuyện trăng hoa
và gia đình không có tang. Chủ vạn có quyền hành lớn trong việc phân ngư
trường khai thác, giải quyết tranh chấp và định ra thể thức ăn chia giữa chủ vạn
bạn trong vạn chài[2].
Ở đa số làng cá việc tổ chức đi biển thường theo đội được tổ chức theo
dòng họ anh em chú bác hay có quan hệ thông gia. Họ đi và cụm lại với nhau
thành những xóm chài trên biển, giũp đõ nhau từ khâu bảo vệ lẫn nhau, thông
báo đàn cá đến tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng ngày[2].
2.3.
Thực trạng khai thác thủy sản biển tại Việt Nam
Theo cục KT&BVNLTS đến năm 2011 cả nước có trên 126,4 nghìn tàu cá
các loại với tổng công suất khoảng 4,4 triệu CV (tàu thuyền tăng 70% cống suất
8
tăng 175% so với năm 2001). Trong đó, nóm tàu công suất <20CV tăng bình
quân 9,1%/năm, (gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn lợi ven bờ vốn đang
suy giảm); nhóm tàu có công suất từ 20-90CV tăng bình quân 1,8%/năm; nhóm
tàu có công suất lớn 90CV tăng bình quân 13%/năm- đây là nhóm tàu có mức
tăng trưởng cao nhất thể hiện xu hướng phát triển khai thác hướng ra khơi xa,
phù hợp với chủ trương phát triển khai thác hải sản xa bờ của Đảng và Nhà
nước[3].
Cơ cấu tàu thuyền khai thác hải sản phân bố tương đối đồng đều so với diện
tích mặt nước biển, trong đó vùng biển Vịnh Bắc Bộ chiếm 31,4%, vùng biển
Trung Bộ chiếm 42,1%, vùng biển Đông Nam Bộ chiếm 13,5%, và vùng biển
Tây Nam Bộ chiếm 13% tổng số tàu thuyền toàn quốc[3].
Theo Tổng Cục thống kê, năm 2010 cả nước đạt 2,42 triệu tấn thủy sản các
loại, trong đó khai thác biển chiếm 92%. Phân theo vùng khai thác thì xa bờ
chiếm 49,4%, còn lại là sản lượng ven bờ chiếm 50,6% tổng sản lượng khai thác
hải sản toàn quốc[3].
Về cơ cấu sản lượng phân theo vùng biển: vùng biển Vịnh Bắc Bộ có xu
hướng tăng từ 14,3% năm 2001 lên 17,4% năm 2010; còn lại các vùng biển khác
đều có xu hướng giảm (vùng biển Trung Bộ giảm từ 32% năm 2001 xuống còn
31,9% năm 2010; vùng biển Đông Nam Bộ giảm từ 29% xuống còn 28,8% năm
2010; vùng biển Tây Nam Bộ giảm từ 24,8% xuống còn 21,9% năm 2010). Điều
này thể hiện sự suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy sản trong giai đoạn này[3].
Hiện nay cả nước có 60 cảng cá, bến cá là nơi thường xuyên neo đậu của tàu
thuyền khai thác thủy sản. Nhiều cảng cá đã được đầu tư xây dựng cầu cảng và kè
bờ. Tổng chiều dài cầu cảng cá gần 1.200m. Theo thống kê, tổng sản lượng hải
sản thông qua các cảng cá là 1.619.200 tấn/năm, sản lượng hải sản thông qua các
bến cá là 305.500 tấn/năm. Các cảng cá có lượng hải sản qua cảng lớn như cảng
cá Tắc Cậu (Kiên Giang) 13.700 tấn/tháng, Cát Lở (Vũng Tàu) 12.000 tấn/tháng,
Tân Phước (Vũng Tàu) 7.500 tấn/tháng, Mỹ Tho (Tiền Giang) 4.500
tấn/tháng…[3].
Cả nước có khoảng 702 cơ sở cơ khí đóng, sửa tàu cá, với năng lực đóng
mới 4.000 chiếc/năm. Tuy nhiên, có rất ít cơ sở có thể đóng và lắp được máy cho
các loại tàu thuyền vỏ gỗ và vỏ sắt trên 600CV. Năng lực đóng mới tàu vỏ sắt rất
hạn chế, chỉ tập trung ở một vài cơ sở như xí nghiệp cơ khí Hạ Long, cơ khí Nhà
Bè, cơ khí Vật Cách. Do chưa sản xuất được các loại máy thủy công suất lớn nên
mặc dù có năng lực sữa chữa 8.000 chiếc/năm, nhưng việc sữa chữa chủ yếu thực
9
hiện bằng cách thay thé phụ tùng. Gần đây một số cơ sở đã thiết kế và đóng được
tàu bằng vật liệu Composite từ 600CV trở xuống, nhưng nhìn chung các loại tàu
này còn rất hiếm khách hàng và không phù hợp với yêu cầu bảo về môi trường
sinh thái. Một số cơ sở đóng và sửa tàu thuyền nghề cá được phân bố như sau:
vùng biển Miền Bắc có 7 cơ sở; Bắc Trung Bộ có 145 cơ sở; Nam Trung Bộ có
385 cơ sở; Đông Nam Bộ có 95 cơ sở; Tây Nam Bộ có 70 cơ sở[3].
2.4.
Thực trạng khai thác thuỷ sản biển tại Thừa Thiên Huế
Trong những năm gần đây, nghề nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đang từng bước trở thành thế mạnh trong phát
triển kinh tế. Trong đó, khai thác xa bờ có chuyển biến, ngư dân đã đầu tư cải
hoán, trang bị kỹ thuật các tàu cỡ trung để vươn ra khơi, giảm dần khai thác ven
bờ. Tổng số tàu tham gia nghề khai thác thuỷ sản biển đến nay đạt 1.635 chiếc;
trong đó tàu công suất từ 90-350 CV có 226 chiếc, tăng 1,4 lần so năm 2007.
Đây là bước phát triển quan trọng của nhân dân vùng đầm phá ven biển. Bước
đột phá trong khai thác biển tạo ra sự phát triển nhanh của nghề khai thác xa bờ
là việc đầu tư công nghệ - kỹ thuật của các đội tàu và việc phát triển hợp lý,
đồng bộ từ khai thác trên biển, cung ứng vật tư, nhiên liệu đến thu mua sản
phẩm trên biển. Khai thác biển phát triển mạnh ở một số xã, đã tạo chuyển đổi
nhận thức, tập quán của ngư dân từ khai thác ven bờ sang khai thác xa bờ có
năng suất và hiệu quả cao, phục vụ nguyên liệu cho xuất khẩu, góp phần bảo vệ
nguồn lợi thuỷ sản ven bờ. Cũng chính nhờ tăng cường đầu tư cho khai thác xa
bờ, giảm dần việc đánh bắt trên sông, đầm và tình trạng khai thác hủy diệt, sản
lượng khai thác, nhất là khai thác biển tăng nhanh[6].
Năm 2011, sản lượng khai thác đạt 32.443 tấn, tăng gần 30% so năm 2007,
bình quân hàng năm tăng 7%/năm. Trong 9 tháng đầu năm 2012, sản lượng khai
thác thủy sản ước đạt 26.542 tấn, tăng 4,5%; trong đó khai thác biển 23.524 tấn,
tăng 5% so với cùng kỳ[6].
Với vị trí ven biển, chịu ảnh hưởng của bão nhiệt đới hàng năm, công tác
đảm bảo an toàn cho việc neo đậu, trú tránh bão cho tàu thuyền được tỉnh quan
tâm đầu tư. Đã hoàn thành xây dựng cảng cá Tư Hiền có năng lực tiếp nhận 500
tàu công suất từ 20CV đến 300CV, bến neo đậu tàu thuyền Phú Hải tiếp nhận
công suất chứa 500 tàu công suất từ 20-500CV và sắp đến sẽ xây dựng thêm khu
neo đậu tránh trú bão tại Cầu Hai với tổng mức đầu tư là 58,7 tỷ đồng, quy mô
thiết kế cho khoảng 420 tàu có công suất 35CV - 300CV[6].
10
Các dịch vụ hậu cần nghề cá tại cảng cá Thuận An được mở rộng, thu hút
nhiều tàu cá ngoại tỉnh vào Cảng. Hình thành mạng lưới dịch vụ nghề cá trong
dân như cơ sở đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá, xăng dầu,…Hình thành
đội tàu dịch vụ ngoài biển từ 45 – 50 chiếc. Hệ thống dịch vụ tại cảng cá Thuận
An, Tư Hiền, bến cá kết hợp nơi neo đậu tàu Vinh Hiền, Phú Thuận góp phần
đáng kể phát triển nghề cá và phòng chống bão lụt[6].
Công tác khuyến ngư, bảo vệ nguồn lợi thủy sản được gắn với thực hiện
quyết liệt việc sắp xếp nò sáo, giao diện tích mặt nước cho các hộ dân khai thác
ổn định, lâu dài; thành lập 07 Khu bảo vệ thủy sản nhằm tăng cường công tác
quản lý, bảo vệ bãi giống, bãi đẻ, nguồn lợi thủy sản trên toàn vùng đầm phá,
vùng nước nội địa Tam Giang - Cầu Hai. Tổ chức tuần tra, kiểm tra, xử lý các
hành vi đánh bắt hủy diệt, kết hợp xây dựng tổ tự quản, tuyên truyền, vận động
bằng nhiều hình thức, nâng cao nhận thức của người dân đối với việc bảo vệ
nguồn lợi thủy sản. Đã hoàn thành giải tỏa và sắp xếp nò sáo gắn với giao diện
tích mặt nước cho các hộ dân quản lý, bảo vệ và khai thác ở các huyện: Phong
Điền, Phú Lộc, Quảng Điền, thị xã Hương Trà; hiện đang tiếp tục triển khai ở
huyện Phú Vang và dự kiến hoàn thành công tác trong năm 2012. Thông qua các
hội, chi hội nghề cá, bước đầu đã thực hiện quy định không đánh bắt thủy, hải
sản trong mùa sinh sản[6].
11
PHẦN 3. NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
Là ngư dân và hộ gia đình (kể cả hộ ngành nghề khác nhưng có lịch sử là
ngư dân) thuộc cộng đồng khai thác thủy sản biển (KTTS) gần bờ hay còn gọi là
Ngư dân quy mô nhỏ thuộc cộng đồng KTTS xã Phong Hải
3.2.
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Thông tin thu thập có phạm vi thời gian trong
khoảng từ năm 2009 – 2012.
- Phạm vi không gian: Cộng đồng khai thác thuỷ sản biển xã Phong Hải,
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.3.
Nội dung nghiên cứu
- Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Phong Hải
+ Dân số, lao động,
+ Tỷ lệ hộ nghèo
+ Thu nhập bình quân đầu người
+ Tỷ lệ học sinh đến trường
- Các hoạt động kinh tế chính của xã Phong Hải qua các năm
- Đặc điểm của các hộ khảo sát
+ Nhân khẩu, lao động
+ Trình độ văn hoá
+ Loại hộ
+ Thu nhập bình quân đầu người
- Hoạt động khai thác thuỷ sản biển của xã Phong Hải
+ Tàu thuyền và ngư lưới cụ khai thác thủy sản qua các năm
+ Hoạt động khai thác thuỷ sản chính và số hộ tham gia
+ Đặc điểm của các hoạt động khai thác thủy sản biển: lao động/thuyền,
thời vụ trong năm, thời gian/chuyến, số chuyến/năm, thu nhập/hộ/chuyến.
+ Sản lượng khai thác thủy sản của từng loại nghề khai thác
12
+ Thu nhập từ khai thác thủy sản biển của hộ qua các năm
- Thay đổi hoạt động sinh kế của cộng đồng khai thác thuỷ sản xã Phong
Hải
+ Các hoạt động sinh kế hiện tại của hộ
+ Thay đổi hoạt động sinh kế của người dân
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến thay đổi hoạt động sinh kế
3.4.
Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp chọn điểm
Đề tài này nghiên cứu về quá trình thay đổi hoạt động sinh kế của cộng
đồng khai thác thủy sản biển, do vậy điểm được chon phải là vùng ven biển, có
hoạt động khai thác thuỷ sản biển là chủ yếu. Đồng thời, cộng đồng nghiên cứu
phải sự thay đổi hoạt động sinh kế từ khai thác thuỷ sản biển sang các hoạt
động sinh kế khác. Vì vậy, xã Phong Hải là phù hợp để thực hiện đề tài nghiên
cứu này.
3.4.2. Phương pháp chọn mẫu
Là các hộ có hoạt động KTTS biển hoặc trước đây có tham gia KTTS biển
tại 3 thôn Hải Phú, Hải Thành và Hải Thế.
Đề tài phỏng vấn ngẫu nhiên 30 hộ dân trong 3 thôn đã chọn bằng bảng
hỏi bán cấu trúc đã chuẩn bị trước.
3.4.3. Phương pháp thu thập thông tin
3.4.3.1. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
- Thu thập thông tin qua báo cáo kinh tế xã hội của xã năm 2012
- Các báo cáo về tình hình khai thác biển và nuôi trồng thuỷ sản của xã năm
2009, 2010
3.4.3.2. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
- Phỏng vấn cán bộ thôn, xã (1 cán bộ thuỷ sản xã, 3 trưởng thôn có đối
tượng nghiên cứu)
- Phỏng vấn 30 hộ gia đình đã và đang có hoạt động khai thác thủy sản
biển bằng bảng hỏi bán cấu trúc đã chuẩn bị trước.
3.4.4. Phương pháp xử lí số liệu
13
Số liệu định tính sẽ được tổng hợp, đánh giá; số liệu định lượng sẽ được sử
lý bằng phần mềm excel trên máy tính như các hàm: count, sum, arevage,....
14
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1.
Đặc điểm kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu
4.1.1. Đặc điểm tự nhiên, vị trí địa lí xã Phong Hải
Phong Hải là một xã bãi ngang ven biển cách trung tâm huyện Phong
Điền 27km về phía đông bắc. Địa hình tương đối bằng phẳng và nghiêng dần về
phía biển với độ cao bình quân 9m so với mực nước biển. Phong Hải nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, có 2 mùa mưa nắng rõ rệt,
mùa mưa kéo dài từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau, mùa khô từ tháng 2 đến
tháng 9, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của khí hậu miền Duyên hải. Phong Hải có
địa giới hành chính với các địa phương khác là:
+ Phía Đông Bắc giáp với biển Đông
+ Phía Đông Nam giáp xã Quảng Ngạn
+ Phía Tây Bắc giáp xã Điền Hòa
+ Phía Tây Nam giáp xã Điền Hải
Điểm nghiên
cứu
( Nguồn: http://www1.thuathienhue.gov.vn)
Hình 4.1. Bản đồ xã Phong Hải
4.1.2. Đặc điểm nhân khẩu, lao động xã Phong Hải
15
Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội của xã năm 2012
Chỉ tiêu
ĐVT
Xã Phong Hải
Tổng số hộ
Hộ
1184
Hộ KTTS
Hộ
258
Hộ NTTS
Hộ
120
Hộ nông nghiệp
Hộ
52
Hộ ngành nghề
Hộ
439
Tổng nhân khẩu
Khẩu
5212
Tổng lao động
Lao động
1886
Tỷ lệ hộ nghèo
%
5,03
Triệu/người
35
Thu nhập bình quân đầu người
(Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội xã,2012)
Phong Hải có tổng diện tích tự nhiên là 555,64ha,1184 hộ với dân số toàn
xã là 5212 người và được chia làm 5 thôn, bao gồm thôn Hải Phú, Hải Thành,
Hải Nhuận, Hải Thế và Hải Đông. Năm 2012, toàn xã có 258 hộ tham gia hoạt
động khai thác thủy sản biển, nuôi trồng thủy sản là 120 hộ, nông nghiệp là 52
hộ và các ngành nghề là 439 hộ. Đời sống nhân dân chủ yếu sống bằng nghề
khai thác biển và nuôi tôm trên cát. Toàn xã có tổng số lao động là 1886 người,
trong đó, lao động khai thác biển là 593 người (chiếm 31,4% lao động toàn xã),
lao động nuôi tôm trên cát là 170 người (chiếm 9% lao động toàn xã), còn lại là
những ngành nghề khác như: chế biến nước mắm, dịch vụ, buôn bán, đi làm ăn
xa,…
Năm 2012, tỉ lệ hộ nghèo toàn xã chiếm 5,03%, giảm 21 hộ so với năm
2011. Điều này cho thấy công tác giảm nghèo được triển khai tích cực và có
hiệu quả. Đời sống người dân trên địa bàn xã ngày càng được cải thiện và nâng
cao, thu nhập bình quân đầu người trong năm 2012 là 35 triệu, đạt 109,4% so
với kế hoạch đề ra và hơn 14,4 triệu so với năm 2011.
Lĩnh vực giáo dục cũng được quan tâm đầy đủ, ngày càng phát triển và
đạt được nhiều thành tích. Trong năm 2012 vừa qua, tỉ lệ học sinh đến trường
đạt 100%. Chất lượng học tập cũng được đảm bảo tốt, tỉ lệ học sinh khá giỏi
luôn đạt khoảng 50%, trường Trung học cơ sở và Tiểu học được công nhận là
đạt chuẩn quốc gia.
16
Công tác phòng chóng dịch bệnh, vệ sinh môi trường được triển khai
thường xuyên. Xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 2.
Vấn đề giải quyết việc làm cũng được triển khai tích cực và có hiệu quả,
200 người đã có được công việc ổn định và 226 lao động được qua đào tạo.
4.1.3. Hoạt động kinh tế chính của xã Phong Hải
Hiện nay, hoạt động sinh kế chính của xã là khai thác thuỷ sản và nuôi
trồng thuỷ sản. Ngoài ra còn có một số hoạt động sinh kế khác như: chăn nuôi
lợn, chế biến nước mắm,... Kết quả của một số hoạt động sinh kế chính của xã
trong những năm qua được thể hiện ở bảng 4.2.
Bảng 4.2. Kết quả của các hoạt động sinh kế ở xã Phong Hải qua các năm
Ngành nghề
ĐVT
2011
2012
Khai thác thuỷ sản
Tấn
650,5
720
Nuôi trồng thuỷ sản
Tấn
1200
1700
Chăn nuôi lợn
Con
705
785
Ngàn lít
180
200
Chế biến nước mắn
(Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội xã, 2012)
Tổng sản lượng khai thác đạt 720 tấn, đạt 80% kế hoach đề ra và tăng 69,5
tấn so với cùng kì năm 2011. Mặc dù năng lực sản xuất chỉ có 76 thuyền gắn
máy, giảm 6 thuyền so với năm 2011, nhưng sản lượng khai thác khai thác vẫn
cao hơn. Điều này chứng tỏ, các ngư dân đã tập trung đầu tư phương tiện, cũng
cố, bổ sung ngư lưới cụ tiên tiến hơn đồng thời cũng phát triển thêm một số
nghề mới phù hợp với thực trạng khai thác hiện nay hơn như là: câu mực ống
theo phương pháp mới, rê 3 lớp, mành đèn cải tiến,… Ngoài ra, bên cạnh đó ngư
dân cũng được tham gia vào nhiều lớp tập huấn giúp nâng cao kiến thức, khả
năng trong hoạt động khai thác thủy sản biển.
Tổng diện tích sử dụng đất nuôi trồng thủy sản là 67,5 ha, trong đó mặt
nước thả nuôi là 36,95 ha, năng suất đạt 27 – 30 tấn/ha, sản lượng thu hoạch đạt
1700 tấn, đạt 106,25% kế hoạch đề ra và tăng 500 tấn so với năm 2011. Đồng
thời diện tích nuôi mới tăng thêm 25 ha, hoàn thành tốt nhiệm vụ đã đề ra.
Chăn nuôi hiện có 7 gia trại kết hợp và nhiều hộ nuôi với quy mô nhỏ, với
tổng đàn lợn năm 2012 là 785 con, đạt 78,5% so với kế hoạch đề ra. Ngoài ra,
17
còn có mô hình nuôi kì nhông, trồng nấm rơm của 3 hộ dân tại thôn Hải Thế
cũng đang đi vào ổn định sản xuất và có khae năng phát triển.
Sản xuất và chế biến nước mắm đạt 200 ngàn lít, đạt 100% kế hoạch đề
ra. Hoạt động sản xuất chế biến nước mắm của các hộ dân vẫn đang được tiếp
tục đầu tư phát triển. Trong đó, có cơ sở Đảnh Vân được tham gia hội chợ làng
nghề đạt giải nhất cấp huyện, giải 3 cấp tỉnh, đạt huy chương vàng và chứng
nhận hàng việt Nam chất lượng cao. Hiện đang chuẩn bị các điểu kiện tham gia
xuất khẩu ra nước ngoài.
18
Đặc điểm của các hộ khảo sát
Bảng 4.3. Một số đặc điểm của các hộ được khảo sát
Chỉ tiêu
ĐVT
Hải
Phú
(N= 10)
Hải
Thành
(N= 10)
Hải
Thế
(N= 10)
Bình
quân
chung
(N= 30)
Trung bình tuổi
Tuổi
48,8
51,3
49,2
BQ trình độ văn
hoá
Lớp
6,3
6,2
6,6
Khẩu/hộ
4,7
4,5
4,8
4,7
Số lao động
Lao động/hộ
1,7
2,1
2,0
1,9
Thu nhập BQ/hộ
Triệu/hộ/năm
87,3
91,9
94,5
91,2
Loại hộ khá
%
90,0
100,0
90,0
93,3
Loại hộ cận nghèo
%
10,0
0,0
10,0
6,7
Loại hộ nghèo
%
0,0
0,0
0,0
0,0
Số nhân khẩu
49,8
6,4
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2013)
Dựa vào số liệu đã phân tích ở bảng 4.3 thì ta thấy các hộ dân ở đây đều có
những đặc điểm tương đồng với nhau, không có sự khác biệt lớn nào. Về độ độ
tuổi trung bình của người dân thì tương đối cao, ở thôn Hải Phú là 48,8 tuổi,
thôn Hải Thành là 51,3, thôn Hải Thế là 49,2 và bình quân chung là 49,8 tuổi
Xã Phong Hải là một xã bãi ngang ven biển nằm cách biệt với trung tâm
huyện lị, giao thông đi lại khó khăn, cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển, người
dân sống chủ yếu là tiếp xúc với biển cả nên việc học hành của họ chưa được
quan tâm đúng mức. Trình độ văn hoá của người dân ở đây tương đối không
cao, trung bình chỉ ngang lớp 6. Nhưng hiện nay, vấn đề này đã được thúc đẩy
phát triển, 100% trẻ em đều được đến trường, trường học đều được công nhận
đạt chuẩn quốc gia.
Số nhân khẩu ở đây tương đối cao và đồng đều ở cả 3 thôn, trung bình mỗi
hộ có khoảng 4 – 5 khẩu, ở thôn Hải Phú là 4,7, thôn Hải Thành là 4,5 và thôn
Hải Thế là 4,8. Tuy nhiên, số lao động thì lại thấp, khoảng 2 lao động trên một
hộ. Nguyên nhân là người dân chủ yếu sống dựa vào nghề khai thác thuỷ sản
biển, chủ yếu là nam giới đi biển, còn phụ nữ thì ở nhà nội trợ. Và do điều kiện
19
tự nhiên không thuận lợi, cơ sở hạ tầng chưa phát triển nên khó để thực hiện các
hoạt động sinh kế khác.
Các hộ dân được khảo sát chủ yếu là những hộ khá, trung bình chiếm
93,3% trong 30 hộ được khảo sát, ở thôn Hải Phú chiếm 90%, thôn Hải Thành
chiếm 100% và thôn Hải Thế chiếm 90%. Tỉ lệ hộ cận nghèo rất thấp chiếm
khoảng 6,7% và không có hộ nghèo nào. Bình quân thu nhập trên hộ trong năm
tương đối khá cao, trung bình chiếm 91,2 triệu đồng.
4.2.
Hải
Hoạt động khai thác thuỷ sản biển của cộng đồng ngư dân xã Phong
4.2.1. Phương tiện và tàu KTTS biển
Với đặc điểm, Phong Hải là một xã bãi ngang ven biển nên trọng tải tàu
thuyền còn nhỏ, mã lực thấp. Tàu thuyền khai thác được chia làm 2 loại chính là
thuyền chèo tay và thuyền gắn máy. Trong đó thuyền gắn máy cũng được chia
làm 3 loại theo công suất, bao gồm thuyền 12CV, thuyền từ 15CV – 20CV và
thuyền 21CV – 22CV. Số lượng tàu thuyền trên địa bàn xã có xu hướng giảm
qua các năm, năng lực sản xuất của năm 2009 có 92 thuyền giảm xuống còn 86
thuyền năm 2010 và 82 thuyền trong năm 2011, đến năm 2012 thì còn 76
thuyền.
Bảng 4.4. Số lượng tàu thuyền toàn xã qua các năm (chiếc/xã)
Loại thuyền
2010
2012
Thuyền chèo tay
19
12
Thuyền máy 12CV
14
10
Thuyền máy 15CV – 20CV
60
56
Thuyền máy 21CV – 22CV
12
10
( Nguồn: Phỏng vấn người am hiểu, 2013)
Theo kết quả tìm hiểu được, số lượng tàu thuyền của từng loại có xu hướng
giảm xuống. Vào năm 2010, số lượng thuyền chèo tay là 19 chiếc, thuyền máy
12CV là 14 chiếc, thuyền máy từ 15 – 20CV là 60 chiếc, thuyền máy từ 21 –
22CV là 12 chiếc. Nhưng đến năm 2012 thì còn lại 12 chiếc thuyền chèo tay, 10
chiếc thuyền máy 12CV , 56 chiếc thuyền máy từ 15CV – 20CV và thuyền máy
từ 21CV- 22CV là 10 chiếc.
20
- Xem thêm -