Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
Khảo cổ học là môn học cơ sở của ngành lịch sử cung cấp cho sinh viên những kiến thức
cơ bản về nguồn gốc và sự tiến hóa văn hóa nhân loại qua các thời đại từ đá cũ đến giai
đoạn hình thành nhà nước. Đặc thù của khoa học khảo cổ là phục dựng lại đời sống của
con người trong quá khứ thông qua việc nghiên cứu sử liệu vật thật trong bối cảnh tự
nhiên và văn hóa. Từ những nghiên cứu này, Lịch sử nhân loại được trình bày trước hết
qua cách thức tiếp cận từ những di tích, di vật thực “mắt thấy, tai nghe” sẽ giúp sinh viên
hình dung rõ hơn về cuộc sống của dân tộc và nhân loại từ khởi đầu cho tới thời cận đại.
Môn học chú trọng tới việc cập nhật tri thức và những diễn giải mới về nguồn gốc và sự
tiến hóa nhân loại nhằm làm nổi bật luận điểm về tính thống nhất và sự phát triển đa
dạng của văn hóa người cũng như nhấn mạnh vai trò của các di sản vật thể và phi vật thể
trong đời sống nhân loại hiện nay.
Bên cạnh việc cung cấp tri thức cụ thể về giai đoạn văn hóa, từng nền văn hóa, từng
di tích, di vật, môn học còn giúp sinh viên làm quen với một ngành khoa học, những
phương pháp và cách thức tiếp cận, nghiên cứu vấn đề, kể cả những phương pháp truyền
thống và phương pháp hiện đại và mối quan hệ của khoa học khảo cổ với các khoa học
xã hội, nhân văn và kỹ thuật khác. Trong môn học này thông qua một số phần cụ thể,
công việc của một nhà khảo cổ từ điền dã đến nghiên cứu hậu khai quật cũng sẽ được
giới thiệu nhằm mục đích cho thấy đây là một ngành khoa học luôn cố gắng đạt tới kết
quả khái quát và khách quan cao nhất trong diễn giải quá khứ.
Từ việc xác định tầm quan trọng của khảo cổ học bài tiểu luận của tôi xin điểm lại và
nét về quá trình hình thành và phát triển của khảo cổ học việc nam để thấy rõ bối cảnh ra
đời và bước phát triển của khảo cổ học trong tiến trình lịch sử.Do sự hiểu biết còn hạn
chế nên Bài tiểu luận “Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam” còn
nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của giáo viên.
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia ra đời và tồn tại với lịch sử mấy nghìn năm.
Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển của mình, cộng đồng cư dân sinh
1
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
sống trên lãnh thổ Việt Nam đã phát minh ra nhiều giá trị vật chất và tinh
thần mà giá trị của nói vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Khảo cổ học với vai trò của nó là phục dựng lại quá khứ lịch sử thông qua các
bằng chứng văn hoá vật chất bao gồm các di tích, di vật được lưu giữ trong lòng
đất. Do vậy khảo cổ học làm rõ những bí ẩn trong lịch sử văn hóa, văn minh của
con người, nhất là thời kỳ tiền sử khi con người chưa có chữ viết. Khảo cổ học
luôn đem lại những nhận thức mới, bổ sung những cứ liệu quan trọng trong
nghiên cứu tiến trình lịch sử - văn hóa của dân tộc. Năm 1959 nước ta chính thức mở
đầu môn KCHVN tại khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Để cung cấp những
kiến thức làm tiền đề để nghiên cứu và học tập môn khảo cổ học tôi nghỉ điều đầu
tiên hiểu rõ về nguồn gốc và sự ra đời của ngành khảo cổ học nước ta nên tôi chọn
đề tài “Quá trình hình thành và phát triển khảo cổ học Việt Nam” làm đề tài cho
bài tiểu luận giữa kì môn khảo cổ học của mình.
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHẢO CỔ HỌC Việt Nam
2.1 NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO NGÀNH KHẢO CỔ HỌC NƯỚC TA
Cũng giống như hiều dân tộc khác trên trên trên thế giới, ông cha ta từ rất xa xưa đả
quan tâm tới nguồn gốc dân tộc, tổ tiên, dòng họ của mình. Cùng với những câu chuyện,
truyền thuyết, những cuố gia phả trong các đình, chùa hoặc trong những gia đình đều thờ
những báu vật mà tuyên truyền là tự tổ tiên để lại. nguồn sử liệu chủ viết đầu tiên có ghi
chép về những báu vật là cuốn “Lĩnh Nam chích quái”. Sau đó trong các thư tịch thuộc
các triều đại phong kiến Việt Nam như an nam chí lược, đại việt sử kí toàn thư, khâm
định việt sử thông giám cương mục, đại nam nhất thống chí… đều có đề cập đến nhiều
cổ tích và cổ vật, những hàng động và đống vỏ sò, vỏ ốc ở các địa phương. Tuy nhiên
trong suốt thời phong kiến, Việt Nam chưa có một tổ chức khảo cổ riêng biệt nào, cũng
như chuuwa có một cuộc điều tra, khai quật khảo cổ nào được tiến hành.
2.2 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHẢO CỔ HỌC VIỆT NAM
2
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
Có thể nói Khảo cổ học Việt Nam còn rất trẻ so với khảo cổ học thế giới. Theo giáo
sư Trần Quốc Vượng “Gần một trăm năm đô hộ của thực dân Pháp, Khảo cổ học VN là
con số 0”. Ngoài một số thư ký
khảo cổ học (KCH) đã làm việc
cho Pháp như cụ Trần Huy Bá, Lê
Xuân Động, bà Hoàng Thị Thân,
thì
không có một nhà nghiên cứu
KCH nào.
Tuy nhiên, người Pháp đã làm
nhiều việc cho nền Khảo cổ học
VN (KCHVN). Phần lớn những
người Pháp được phân công sang
VN để nghiên cứu địa chất, tiến
hành khai thác thuộc địa đều là
những nhà địa chất học, do ngẫu
nhiên tìm ra những di chỉ KCH và
từ
đó họ bước vào nghiên cứu...
Trong quá trình phát triển của khảo cổ học trong thời kì này được chia thành hai giai
đoạn nhỏ:
-Giai đoạn đầu liên quan đến hoạt động thăm dò, thu thập tin tức và tiến hành chiến
tranh xâm lược trên bán đảo đông dương. Để thu thập tin tức và vẽ bản đồ, thực dân pháp
đả lợi dụng các nhà kgaor cổ học chuyên nghiệp hoặc cử những tên thực dân đội lốp
“thầy tu”, “học giả” để thâm nhập xâu vào lãnh thổ ba nước đông dương. Mặc dù vậy,
trong hành trình của mình, nhiều người trong số họ đả thu lượm được nhiều cổ vật, miêu
tả sơ sài một số di tích cổ như: thành cổ loa, hoa lư…
-Giai đoạn tiếp sau gắn liền với chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của tòn quyền
đume. Với mục đích thăm dò khai thác khoáng sản phục vụ cho chính quốc
3
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
Nền KCHVN luôn ghi nhận công lao của các nhà địa chất kiêm khảo cổ học Pháp, như
Hăngri Măngsi đã phát hiện ra nền văn hóa Bắc Sơn; nhà địa chất học Mađơlen Côlani
đã phát hiện ra nền văn hóa Hòa Bình; ông Hăngri Phôngten với văn hóa Bắc Sơn. Phát
hiện ra văn hóa Đông Sơn và tìm ra thời đại đồ đồng là ông Pagiô... Họ quây quần trong
cơ quan Viện Viễn đông Bác Cổ (EFEO) cùng nghiên cứu về KCHVN... và cả những nền
văn hóa lớn như Hòa Bình, Bắc Sơn, Hạ Long, Đông Sơn đều do người Pháp phát hiện
sau này được các nhà
KCHVN
nghiên
tiếp
cứu
sâu
tục
và
khẳng định.
4
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau “thời kỳ bình định”, nhà cầm quyền Pháp lập ra
một số cơ quan nghiên cứu nhằm mục đích để điều tra, tìm hiểu kỹ xứ thuộc địa về mọi
mặt đặng phục vụ đắc lực cho công cuộc thống trị về chính trị, tinh thần và bóc lột kinh
tế. Năm 1898, Uỷ ban Khảo cổ
học Đông Dương ra đời. Hai
năm sau, Uỷ ban này đổi thành
trường Viễn Đông bác cổ (Ecoe
Francaise
d’Extrême
orient,
EFEO). Nhà trường có một tập
san (BEFEO) để công bố
những phát hiện khảo cổ học ở
Đông Dương. Người Pháp nắm
độc quyền tất cả (tổ chức,
nghiên cứu, công bố), không
dạy khảo cổ học cho người bản
xứ và không cho người bản xứ
tham gia nghiên cứu khảo cổ
học. Bởi thế mà người nước
ngoài chỉ biết đến khảo cổ Việt
Nam - quá khứ lịch sử Việt
Nam qua những phát hiện và công bố của người Pháp và một số học giả nước ngoài.
Cũng cần phải nói thêm rằng, những kết quả nghiên cứu khảo cổ Việt Nam lúc đó không
những không được công bố đầy đủ mà còn bị đánh giá sai lệch lịch sử. Dù sao thì người
Pháp và các học giả nước ngoài cũng có công đầu trong việc phát hiện, khai quật, nghiên
cứu, xác lập một số nền văn hoá khảo cổ ở Việt Nam, như các văn hoá Hoà Bình, Bắc
Sơn, Sa Huỳnh và Đông Sơn.. Đây cũng là cơ quan đóng vai trò chủ yếu trong việc tìm
kiếm, thu thập, lưu giữ và nghiên cưú những cổ tích ở Việt Nam và Đông Dương. Cùng
với viện Viễn đông Bác cổ, Sở Địa chất Đông Dương cũng có nhiều đóng góp cho ngành
khảo cổ học, do các nhà địa chất làm việc ở đây đã phát hiện và nghiên cứu nhiều nền
văn hóa khảo cổ thời đồ đá Việt Nam. Từ sau Hội nghị quốc tế về tiền sử học Viễn Đông
lần thứ I tổ chức tại Hà Nội năm 1932, học giả phương Tây bắt đầu biết đến Việt Nam –
ĐNA là một khu vực có nền văn hóa độc đáo, một nền văn minh ở trình độ cao chứ
5
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
không phải là một khu vực trì trệ lạc hậu như quan niệm trước đây. Các học giả Pháp đã
có công phát hiện các nền văn hóa sơ kỳ đá mới như Hòa Bình, Bắc Sơn…và bước đầu
nghiên cứu các nền văn hóa thời kim khí như Đông Sơn, Sa Huỳnh. Từ sau năm 1954
đến nay các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện và nghiên cứu nhiều nền văn hóa
thuộc các giai đoạn khác nhau, lấp được những “khoảng trống” trong lịch sử Việt Nam từ
thời Tiền-Sơ sử đến các triều đại phong kiến sau này.Cũng trong giai đo ạn này miền bắc
Việt Nam, một nền khảo cổ học mới, khảo cổ học macsxit đả hình thành và bước
đầu phát triển. một năm sau ngày giải phóng thủ tướng chính phu thành lập vụ bảo
tồn, bảo tàng-cơ quan chuyên trách việc bảo vệ các di tích và sau đó, năm 1957,
cho ban hành nghị ddingj bảo vệ các di tích lịch sử và khảo cổ.
Về lý thuyết, nền KCHVN ra đời từ khoa Sử, trường Đại học Tổng hợp năm 1959,
nhưng trên thực tế phải đến năm 1960 mới thực sự được định hình khi yếu tố nội sinh
được kết hợp chặt chẽ với yếu tố ngoại sinh. Đây cũng là lúc GS.TS Paven Borikovski
(nhà KCH lớn của Liên Xô) sang Việt Nam hướng dẫn thêm lý thuyết khảo cổ học,
phương pháp tìm hiểu thực tiễn văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn... tiến hành khai
quật, tìm ra di tích Thiệu Dương, di tích đồ đá cũ ớ Núi Đọ, những di tích đồ đá mới ở
Đông Khối...
Từ đó đến nay, những người làm KCHVN đều cho rằng GS.TS Paven Borikovski là
yếu tố trợ lực ngoại sinh, có những đóng góp đáng kể cho nền KCHVN.
Sau này có thêm một số nhà KCH được đào tạo từ Trung Quốc như: PGS Lê Xuân
Diệm, PGS Hoàng Xuân Chinh, PGS. TS Diệp Đình Hoa, PGS Chữ Văn Tần, Nguyễn
Duy Tỳ... được đào tạo từ Liên Xô, Trung Quốc. Còn lại đa số được đào tạo tại trường
Đại học Tổng hợp.
Năm 1968, Viện Khảo cổ học thuộc ủy ban KHXH Việt Nam, nay là viện KHXH và
Nhân Văn quốc gia được thành lập. Lực lượng chủ yếu lấy từ trường Đại học Tổng hợp,
đội khảo cổ học Bảo tàng lịch sử.
Gần 40 năm làm việc cần mẫn, những thế hệ cán bộ của Viện KCHVN đã làm được khá
nhiều việc. Họ đã rất tích cực trong việc nghiên cứu lịch sử bảo vệ và phát huy di sản văn
hóa dân tộc, xây dựng cơ sở phát triển nguồn cán bộ cho công tác này... đúng với chức
năng góp phần mang lại thành công chung cho nền KCHVN.
6
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
Tất nhiên trong thời gian ngắn rất khó lấp đầy lỗ trống lớn của nền KCHVN. Ngoài
lớp của giáo sư Hà Văn Tấn, đến nay đã có thêm ba lớp các nhà khoa học làm công tác
KCH. Lớp thứ hai được đào tạo tại trường Đại học Tổng hợp, Trung Quốc, Liên Xô... đã
và đang tham gia công tác nghiên cứu tại
các viện khảo cổ, lịch sử, bảo tàng... trải
qua nhiều thực tiễn đến nay đã trở thành
những GS, PGS, TS giàu kinh nghiệm.
Lớp thứ ba được đào tạo tại khoa Sử,
trường Đại học Tổng hợp xưa và nay là
Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã bắt tay ngay vào nghiên
cứu KCH miền trung, miền nam Việt
Nam. Lớp thứ tư được đào tạo trong thời
đại mới, có đủ điều kiện về khoa học kỹ
thuật cùng với kế thừa kinh nghiệm của
các lớp trước sẽ đưa nền KCHVN tiến
xa hơn.
- Mặc dù có sự giúp đỡ từ bên ngoài
nhưng trước hết cần khẳng định, nền
KCHVN là do chính các nhà khoa học
VN tạo dựng.
Các nhà KCHVN có ưu điểm bám
chắc thực tiễn của đất nước. Xuất phát
từ tư tưởng Hồ Chí Minh "Vừa làm
vừa học, vừa học vừa làm". Đây là tư
duy chiến lược về giáo dục của Việt
Nam từ thập niên 50 của thế kỷ 20.
Trên con đường phát triển và khẳng
định mình, các nhà khoa học Việt Nam
đã tập trung vào những đề tài trọng
điểm, làm khoa học nhưng đồng thời
7
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
phục vụ kịp thời và có hiệu quả những nhiệm vụ, chính trị do Đảng và Nhà nước giao
phó...
Sở dĩ, ngành KCH có được thành công hôm nay là do ngay từ đầu đã đi đúng hướng:
Kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, có kế thừa và có phát triển. Qua thực tiễn phong phú,
đa dạng và dày đặc những phát hiện KCH, những vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết...
KCHVN có quá nhiều công việc để làm, phải làm...
Ngành KCHVN cần đoàn kết lại hơn nữa với phương pháp liên ngành - đa ngành xuyên ngành để phát triển một cách toàn diện, hội tụ cả văn hóa lịch sử và văn hóa nhân
học. Hiện nay, không chỉ có KCHVN đi theo con đường này mà còn có các ngành khoa
học xã hội và nhân văn khác cũng triển khai nhưng còn chậm.
Từ sau năm 1954, Một nền khảo cổ học Việt Nam mới, độc lập, một nền khảo cổ học
Mác xít - Lêninnít thực sự mới phát sinh và bước đầu phát triển từ sau khi đánh đuổi thực
dân Pháp ra khỏi bờ cõi và lập lại hoà bình ở miền Bắc Việt Nam.
Vừa ra khỏi cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp, ngay trong
trời kỳ hàn gắn những vết thương chiến tranh và khôi phục nền kinh tế, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra những nghị định, những chủ trương chính sách để bảo vệ các di tích lịch
sử.
Phủ Thủ tướng ban hành Nghị định
bảo vệ di tích 519/TTG-1957 (Nay là
Luật Di sản Văn hoá).
Thành lập Vụ Bảo tồn Bảo tàng, cơ
quan chuyên trách việc bảo vệ các di
tích lịch sử (1956) (nay là Cục Di sản
Văn hoá).
Thành lập nhiều cơ quan chuyên
nghiên cứu Khảo cổ học, nhất là thành
lập Viện Khảo cổ học (1968).
Tăng cường đào tạo cán bộ nghiên
cứu khảo cổ học ở các trường đại học
trong nước và ngoài nước.
8
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
Trước năm 1975, khi miền Nam Việt Nam chưa hoàn toàn giải phóng, nước nhà chưa
được thống nhất và giang sơn chưa thu về một mối, thì Khoa Lịch sử Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội là nơi gần như duy nhất đào tạo cán bộ nghiên cứu khảo cổ học cho cả
nước. Bởi vì, ngay cả cho đến nay, số cán bộ nghiên cứu được đào tạo ở nước ngoài và ở
các trường khác trong nước cũng rất ít ỏi.
Sự ra đời và phát triển của Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội gắn liền và chịu sự chi phối của những hoàn cảnh lịch sử của đất nước.
Có thể nói, Bộ môn Khảo cổ học gặp muôn vàn khó khăn, nhất là ở giai đoạn đầu, trong
việc xậy dựng đội ngũ, trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bởi vì, Bộ môn Khảo cổ
học phải bắt đầu đi lên từ “hai bàn tay trắng”, - không cán bộ, không bài giảng, không
giáo trình, không có kinh nghiệm và phương pháp, không có cả trang thiết bị nghiên cứu
tối thiểu…
Trong những năm đầu, từ 1956- 1967, nhất là từ năm 1956-1960, việc dạy và học
khảo cổ học trong trường còn nhiều khó khăn và hạn chế. Trong các năm 1956-1957,
khảo cổ học chưa hình thành về mặt tổ chức, chỉ mới có 2 cán bộ (nay là GS. Hà Văn
Tấn và cố GS. Trần Quốc Vượng) được phân công chuẩn bị để dạy khảo cổ học, vẫn sinh
hoạt chung trong tổ Lịch sử Việt Nam cổ đại.
Sau 2 năm, năm 1959, trên
cơ sở tham khảo, tiếp thu có
chọn lọc các cuốn cơ sở khảo
cổ học của Liên Xô, Trung
Quốc, tham khảo tài liệu Pháp
và nghiên cứu trực tiếp trên các
di tích di vật khảo cổ của Việt
Nam, các cán bộ khảo cổ học
trẻ của Việt Nam đã xây dựng
được bài giảng về khảo cổ học
đại cương cho sinh viên năm
thứ nhất của Khoa Lịch sử.
Mặt khác để có tài liệu
giảng dạy và học tập, từ nguồn
9
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
tài liệu lấy ở Tổng cục Địa chất, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và tự thu thập, Khoa
Lịch sử đã lập được một phòng trưng bày với 2 tủ hiện vật các loại.
Năm 1960 là năm đáng ghi nhớ đối với những cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khảo
cổ học ở Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Bởi vì, lúc này, cùng với
phong trào xây dựng nhà trường XHCN, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội có điều kiện
mời nhiều nhà khoa học nước ngoài, trong đó có chuyên gia khảo cổ học Xô Viết đến
giảng dạy, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của nhà
trường. Đặc biệt, việc in cuốn Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Việt Nam[1]ᄃ chủ
yếu dựa vào tài liệu khảo cổ học, có một ý nghĩa rất lớn.
Về khảo cổ học, trường mời GS.TS. P.I.Borixkovxki, một chuyên gia khảo cổ học
lớn, một nhà khoa học hết sức nhiệt thành trong việc giúp đỡ, bồi dưỡng cho cán bộ khảo
cổ học Việt Nam không chỉ tiếp thu được nhiều kiến thức về cơ sở khảo cổ học mà còn
học hỏi được nhiều phương pháp nghiên cứu khảo cổ học và đi sâu tìm hiểu một số
chuyên đề khảo cổ học. Sau khoá học, tập bài giảng của chuyên gia được tập hợp lại
thành cuốn Cơ sở khảo cổ học. Đây là cuốn sách công cụ quan trọng giúp rất nhiều cho
việc giảng dạy và học khảo cổ học ở Khoa Lịch sử.
Trên cơ sở những kiến thức mới, những
phương pháp mới, các cán bộ khảo cổ học trẻ
Việt Nam còn nhanh chóng vượt qua những
khó khăn lúc ban đầu, có khả năng tiếp thu và
vận dụng những thành tựu khảo cổ học thế
giới trong việc giải quyết dần từng bước
những vấn đề của khảo cổ học Việt Nam. Bấy
giờ, ngoài việc dạy cơ sở khảo cổ học, Trần
Quốc Vượng và Hà Văn Tấn còn biên soạn
các sách công cụ phục vụ cho giảng dạy và
học tập. Đó là cuốn Sơ yếu khảo cổ học
nguyên thuỷ Việt Nam (1961). Cuốn sách này
được coi như giáo trình khảo cổ học đầu tiên
của Việt Nam. Sự ra đời của nó đánh dấu
bước trưởng thành của khảo cổ học Việt Nam. Sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ giảng
10
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
dạy và nghiên cứu khảo cổ học còn được thể hiện ở chỗ, từ năm học 1964-1965, Khoa
Lịch sử đã xây dựng một số chuyên ban ở năm học thứ 4, trong đó có chuyên ban Dân
tộc - Khảo cổ.
Song song với quá trình bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, đội ngũ những cán
bộ dạy khảo cổ học cũng được bổ sung thêm về số lượng lấy từ nguồn đào tạo trong và
ngoài nước. Số lượng cán bộ tăng từ 2 (1957) lên 4 (1962) và đến 1989 đạt tới con số 13.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, trong thời gian từ 1967 đến 1985, có 7 cán bộ
xin thuyên chuyển công tác với nhiều lý do chính đáng khác nhau. Bộ môn Khảo cổ học
hiện chỉ có 4 cán bộ cơ hữu và 2 cán bộ hợp đồng.
Sự trưởng thành về mặt tổ chức được đánh dấu bởi việc thành lập Nhóm Khảo cổ học
do GS. Trần Quốc Vượng phụ trách. Nhóm Khảo cổ học là một trong hai nhóm của Tổ
Dân tộc- Khảo cổ. Mặc dù nằm trong Tổ Dân tộc- Khảo cổ do cố PGS. Vương Hoàn
Tuyên làm Chủ nhiệm, nhưng Nhóm Khảo cổ học hoạt động độc lập như một bộ môn
của Khoa Lịch sử.
Năm 1967 được coi là cái mốc mở đầu cho giai đoạn hai, với sự ra đời của Bộ môn
Khảo cổ học thay cho Nhóm Khảo cổ học ở giai đoạn trước. Chủ nhiệm Bộ môn Khảo cổ
học từ năm 1967 đến 1980 là: PGS. TS Diệp Đình Hoa, GS. Trần Quốc Vượng (19801992), PGS. TS. Hán Văn Khẩn (1993- 2009) và PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung (2009 đến
nay).
Bộ môn Khảo cổ học là một trong những bộ môn mạnh của Khoa Lịch sử, đủ sức dạy
khảo cổ học cho sinh viên năm thứ nhất và dạy các môn chuyên ngành cho sinh viên năm
thứ tư, học viên cao học cũng như nghiên cứu sinh trong và ngoài nước, có uy tín và
đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành Khảo cổ học Việt Nam.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, cùng với sự lớn mạnh của ngành Khảo cổ
học cả nước, Bộ môn Khảo cổ học đã trưởng thành về mọi mặt, không chỉ trong đào tạo
mà cả trong nghiên cứu khoa học.
* Về công tác đào tạo.
Trước hết, Bộ môn Khảo cổ học rất tự hào với việc đào tạo cho đất nước một đội ngũ
đông đảo những người làm công tác nghiên cứu khảo cổ học.
Từ năm 1967 đến nay, do được bổ sung thêm cán bộ, do trình độ cán bộ được nâng
cao, nhiều người là giảng viên chính, phó tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư nên việc đào tạo
không những được mở rộng về quy mô mà còn được nâng cao về chất lượng. Hàng năm
11
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
bộ môn đảm nhận một khối lượng công việc lớn, bao gồm: dạy Cơ sở khảo cổ học cho
sinh viên năm thứ nhất (chính quy, mở rộng và tại chức); dạy chuyên đề cho sinh viên
năm thứ tư; hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất và thứ tư thực tập, thực tế, điều tra, khai
quật khảo cổ học; hướng dẫn sinh viên năm thứ hai và thứ ba làm niên luận; hướng dẫn
sinh viên năm thứ tư viết khoá luận tốt nghiệp…
Nhiều người trưởng thành nhanh chóng trong nghiên cứu khoa học và trong công tác
quản lý. Nhiều người đã được phong học vị, học hàm cao như tiến sĩ, phó giáo sư, giáo
sư. Nhiều người là trưởng phó phòng, trưởng phó ban, giám đốc, phó giám đốc, viện
trưởng, viện phó hoặc thứ, bộ trưởng.
Trong thời gian qua, nhất là trong những năm gần đây, ngoài đào tạo cử nhân, Bộ
môn Khảo cổ học còn đào tạo
hoặc phối kết hợp với các Viện
nghiên cứu đào tạo thạc sỹ và
tiến sỹ.
* Về công tác nghiên cứu khoa
học
Công tác nghiên cứu khoa học
có vị trí quan trọng không kém
nhiệm vụ đào tạo. Việc nghiên
cứu khoa học luôn gắn liền với
công tác đào tạo, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo
và nâng cao trình độ của đội
ngũ cán bộ.
Trước hết việc biên soạn
chương trình, giáo trình cơ sở
khảo cổ học và các chuyên đề
được coi là nhiệm vụ hàng đầu
của công tác nghiên cứu khoa
học. Ngoài cuốn Cơ sở Khảo cổ học (1975), Bộ môn đã biên soạn xong chương trình chi
tiết môn Khảo cổ học đại cương cho Trường Đại học Đại cương và Khung chương trình
đào tạo cử nhân khoa học khảo cổ cho giai đoạn 2 của Trường Đại học Khoa học Xã hội
12
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
và Nhân văn. Bộ môn đã hoàn thành
công tác biên soạn bài giảng các chuyên
đề cho năm thứ 4 chuyên ban Khảo cổ
học và đó xuất bản giáo trình Cơ sở
Khảo cổ học mới vào năm 2008. Các
cán bộ của Bộ môn đó viết và xuất bản
một số sỏch chuyờn khảo, giỏo trỡnh
chuyờn đề phục vụ cho công tác nghiên
cứu và đào tạo, đó là những cuốn Văn
hóa Phùng Nguyên, Xóm Rền của
PGS.TS. Hán Văn Khẩn, Thời đại đồ
đồng của PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung,
Gò Mả Vôi – Những phát hiện mới về
khảo cổ học của Nguyễn Chiều, Lâm
Thị Mỹ Dung và Andreas Reinecke…
Kết quả nghiên cứu của Bộ môn Khảo
cổ học là rất to lớn. Hàng trăm bài
thông báo và nghiên cứu của cán bộ đã được công bố trong “Những phát hiện mới về
khảo cổ học” hàng năm, trên tạp chí Khảo cổ học và nhiều tập san nghiên cứu lịch sử,
văn hoá, nghệ thuật hoặc xuất bản thành sách. Kết quả tìm tòi nghiên cứu di tích di vật
còn được thể hiện qua hàng chục khoá luận cử nhân, luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ
khảo cổ đã được bảo vệ thành công ở Khoa Lịch sử.
* Về hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học
Đây là khâu rất quan trọng giúp cho viêc mở rộng, nâng cao hiệu quả đào tạo và
nghiên cứu khoa học.
Bộ môn Khảo cổ học đã xây dựng, mở rộng hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học
với nhiều cơ quan và cá nhân từ Trung ương đến các địa phương. Nhiều cơ quan và nhiều
cá nhân thuộc các cơ quan khác nhau, như Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam, Viện Bảo tàng Mỹ thuật và Cục Di sản Văn hoá đã tham gia giảng dạy, hướng dẫn
thực tập, hướng dẫn khoá luận, luận văn và luận án.
Nhiều cán bộ của Bộ môn Khảo cổ học đã được các cơ quan bên ngoài mời tham gia
giảng dạy, bồi dưỡng đào tạo cán bộ, bồi dưỡng thi tuyển nghiên cứu sinh, hướng dẫn
13
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
Bài tiểu luận Khảo Cổ Học
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển của khảo cổ học Việt Nam
nghiên cứu sinh, tham gia hợp đồng chấm luận án tiến sỹ, tham gia nghiên cứu hoặc
tham gia Hội đồng nghiệm thu đề tài khoa học cấp Bộ và cấp Nhà nước.
Việc hợp tác quốc tế, tuy còn ít, nhưng đã có kết quả tốt. Một số giáo sư được mời
tham gia hợp tác nghiên cứu, giảng dạy ở Pháp, Mỹ, Úc. Một số cán bộ của Bộ môn hợp
tác nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh, văn hoá Đông Sơn, một số thành cổ, cảng thị cổ và đô
thi cổ.
14
SVTH: Nguyễn Duy Thành-Lớp K32 Việt Nam Học
- Xem thêm -