Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình hình thành và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền của việt nam trên vùn...

Tài liệu Quá trình hình thành và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền của việt nam trên vùng đất nam bộ , giai đoạn từ thế kỷ xvii đến thế kỷ xx

.PDF
51
2467
152

Mô tả:

Mục Lục Đề tài: Quá trình hình thành và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ , giai đoạn từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. A. MỞ ĐẦU. ................................................................................................................................ 3 B. NỘI DUNG.............................................................................................................................. 5 Phần 1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA NAM BỘ NÓI RIÊNG VÀ VIỆT NAM NÓI CHUNG. .......... 5 Vị trí địa lý ....................................................................................................................... 5 I. Biên giới khu vực và lãnh thổ....................................................................................... 5 II. Phần 2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM ........................................................................................................................... 5 Công cuộc di dân và khai thác vùng đất mới. .................................................................. 5 I. Quá trình khai phá Đồng Nai – Cửu Long .................................................................. 6 II. III. Hệ thống các văn bản ngoại giao chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. ................................................................................................................................... 8 1. Hòa ước quốc tế giữa 3 quốc gia Việt Nam, Cao Miên và Xiêm La năm 1845 ........... 9 2. Hiệp ước Việt – Xiêm năm 1847 ................................................................................. 11 3. Hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862.................................................................................. 12 4. Hiệp ước Giáp Tuất 1874 ........................................................................................... 15 5. Hiệp ước bí mật Xiêm – Campuchia (1/12/1863) ....................................................... 20 6. Quyết định về việc phân định đường biên giới Campuchia (9/7/1870)...................... 22 7. Thỏa ước về việc xác định đường biên giới giữa Vương quốc Canpuchia và Xứ Nam Kỳ thuộc Pháp ( 15/7/1873) ............................................................................................... 23 8. Bối cảnh dẫn tới hiệp ước Elysée ngày 8 tháng 3 năm 1949 - Pháp trao trả Nam kỳ cho Việt Nam ...................................................................................................................... 26 9. Luật 49-773 ngày 4/6/1949 của Quốc hội Cộng hòa Pháp. ....................................... 28 10. Thư ngày 8/6/1949 của chính phủ Cộng hòa Pháp gửi Quốc vương Sihanouk ..... 29 11. Hiệp đinh Giơ-Ne-Vơ năm 1954 về đình chiến chiến sự ở Việt Nam ..................... 31 12. Hiệp định Pa-ri năm 1973 về chấm dứt chiến trang lập lại hòa bình ở Việt Nam. 33 13. Bản đồ Đông Dương năm 1930. ............................................................................. 35 1 14. Tuyên bố của ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam về các đường biên giới của Vương quốc Campuchia (31/5/1967) .................................... 36 15. Tuyên bố của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhân biên giới hiện tại của Campuchia. (8/6/1967) .................................................................................. 37 16. Hiệp định về các vùng nước lịch sử giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Campuchia. (7/7/1982) ...................................................................................................... 39 17. Hiệp ước về nguyên tắc và cách giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước CHXHCN Việt Nam và CHND Campuchia. (20/07/1983) ................................................ 40 18. Hiệp định về quy chế biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và CHND Campuchia (20/7/1983) ..................................................................................................... 40 19. Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và CHND Campuchia (27/12/1985) ................................................................................................... 41 20. IV. Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 .................. 41 Hệ thống bản đồ chứng minh chủ quyền Việt Nam tại vùng đất Nam Bộ ................. 42 1. An Nam Đại Quốc Họa Đồ (1838) ............................................................................. 42 2. Bản đồ Nam Kỳ Lục tỉnh (Basse Cochinchine) .......................................................... 46 3. Bản đồ Đông Dương năm 1930. ................................................................................. 47 Phần 3: ĐÁNH GIÁ ................................................................................................................. 48 C. KẾT LUẬN. ............................................................................................................................. 50 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................ 51 2 A. MỞ ĐẦU. Trước hết phải khẳng định rằng hiện nay vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ đã được luật pháp quốc gia và quốc tế thừa nhận, khẳng định và trên thực tế, từ rất lâu, Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của đất nước Việt Nam. Chính phủ, luật pháp Campuchia hiện này cũng hoàn toàn thừa nhận điều này. Nhưng do tính chất phức tạp của lịch sử nên cho đến nay về vấn đề chủ quyền lãnh thổ vẫn còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ. Trên cơ sở trình bày một cách hệ thống diễn biến lịch sử và phân tích những yếu tố khẳng định tính chất chính đáng, phù hợp với thông lệ quốc tế của quá trình thụ đắc lãnh thổ phía nam của dân tộc ta, bài luận này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và nâng cao thêm hiểu biết về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Mặc dù những vướng mắc về biên giới giữa Việt Nam và Campuchia nhiều khi là những vấn đề cụ thể liên quan tới đường biên giới hiện tại, nhưng cội nguồn của những vướng mắc đó lại nảy sinh từ lịch sử, trong đó cơ bản nhất, sâu xa nhất là vấn đề lãnh thổ vùng Nam Bộ. Có một quan niệm cho rằng vùng đất Nam Bộ từ xưa vốn là lãnh thổ của Campuchia. Lập luận chủ yếu của quan niệm này là đồng nhất nước Phù Nam ở trung tâm của vùng hạ lưu sông Mê Kông với nhà nước đầu tiên của người Khmer. Và để giải quyết thoả đáng vấn đề này chúng em sẽ phân tích về Quá trình hình thành vùng đất Nam Bộ trong tiến trình lịch sử Việt Nam lịch sử từ thuở sơ khai mở đất cho tới khi Chúa Nguyễn tiến hành Quản lý, Thực thi và bảo vệ chủ quyền cũng như trong thời kì Pháp thuộc. Những Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ thể hiện ngay trong quá trình thụ đắc lãnh thổ bắt đầu từ thế kỷ XVII thông qua hệ thống các văn bản Ngoại giao như Hòa ước, Hiệp ước, Hiệp đinh,… được Việt Nam và kí với Campuchia cũng với Việt Nam kí với Pháp, Campuchia với Pháp và các nước khác, được quốc tế công nhận và những bản đồ lịch sử khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Trong bài luận này, chúng em có tham khảo và sử dụng Luận văn thạc sỹ lịch sử của tác giả Trịnh Ngọc Thiện về “Chính quyền đại việt và quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ phía Nam Thế kỉ XI-XVIII “(2013) ,” Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX “của Lê Thị Mĩ Trinh (2009), “Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp” (1802-1884) của tác giả Nguyễn Kim Tường Vy 3 (2006) cũng như cuốn sách “Lược sử vùng đất Nam Bộ – Việt Nam” của Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, bài nghiên cứu Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ của GS.TSKH Vũ Minh Giang và bài viết “Các hiệp định biên giới Việt Nam – Campuchia thời Pháp thuộc và vấn đề cơ sở chính trị - pháp lý của đường biên giới Việt Nam – Campuchia” của TS. Nguyễn Sỹ Tuấn, Viện nghiên cứu Đông Nam Á để làm phong phú có cái nhìn và đánh giá toàn diện về những vấn đề cần nghiên cứu ở trên. Cũng như khẳng đinh Chủ quyền lãnh thổ không thể chối cãi của Việt Nam ở vùng đất Nam bộ. 4 B. NỘI DUNG Phần 1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA NAM BỘ NÓI RIÊNG VÀ VIỆT NAM NÓI CHUNG. I. Vị trí địa lý “Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, ven biển Thái Bình Dương. Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Căm-pu-chia ở phía Tây; phía Đông giáp biển Đông. Trên bản đồ, dải đất liền Việt Nam mang hình chữ S, kéo dài từ vĩ độ 23o23’ Bắc đến 8o27’ Bắc, dài 1.650 km theo hướng bắc nam, phần rộng nhất trên đất liền khoảng 500 km; nơi hẹp nhất gần 50 km.” Về đặc trưng khí hậu có thể chia ra làm hai vùng miền Bắc và miền Nam, lấy ranh giới là đèo Hải Vân. Về đặc trưng vị trí địa lý có thể chia ra thành 3 vùng: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Riêng Trung Bộ thì được phân thành Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Nam Bộ thì bao gồm Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. II. Biên giới khu vực và lãnh thổ Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía nam, vịnh Bắc Bộ và biển Đông ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc, Lào và Campuchia phía tây. Với tổng chiều dài đường biên giới là 4.639 km trong đó biên giới với các nước: Trung Quốc là 1.449,566 km, Campuchia là 1137 km, Lào 2067 km. Khu vực Nam Bộ được tính từ ranh giới tỉnh Bình Phước xuống phía Nam bao gồm 17 tỉnh và 2 thành phố. Biên giới phía Tây khu vực Nam Bộ giáp với Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp biển. Phần 2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM I. Công cuộc di dân và khai thác vùng đất mới. 5 Căn cứ theo lịch sử để lại thì cuộc Nam tiến không ngừng của dân tộc Việt Nam ta được tiến hành từ khá sớm. Từ ngày Lê Lợi đuổi được quân Minh, thế nước rất mạnh, đất đai chật hẹp không đủ cho dân cày cấy, vua Lê Thánh Tôn đã thi hành chính sách bành trướng vào Nam, lập kế đồn điền, vừa trấn an được biên thùy, vừa mở rộng được bờ cõi một cách hòa bình. Theo đó, nhà nước sẽ chiêu tập lưu dân bao gồm những người dân tình nguyện, những người phải lưu trú ngoài biên cương, những người bỏ làng để trốn đi lính hoặc tránh sưu thuế,… Những người ấy sẽ được đưa đi khai khẩn đất hoang. Lúc bấy giờ, phần lãnh thổ miền Nam nước ta vẫn còn hoang sơ, dân thưa đất rộng, tài nguyên trù phú, người dân mở đất lập chợ buôn bán làm ăn không gặp nhiều trở ngại. Từ thế kỷ XVII đã có nhiều người Việt đến hai xứ Đồng Nai và Mỗi Xuy củ Chân Lạp, tức Biên Hòa, Bà Rịa ngày nay để khai khẩn đất hoang. Vua Chân Lạp lúc này đang phải đối phó với thế lực Xiêm La nên muốn kết thân với ta, ngỏ ý muốn cưới một công chúa. Năm 1620, chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là công chúa Ngọc Vạn cho Quốc Vương Chân Lạp Chey Chettha II. Công chúa Ngọc Vạn được Chey Chettha II phong làm Hoàng hậu. Với sự ảnh hưởng của Hoàng hậu Chey Chettha II (sau này là Hoàng thái hậu), cư dân Việt từ Thuận – Quảng và từ một số địa phương khác vào làm ăn sinh sống ở lưu vực sông Đồng Nai ngày một đông thêm. Cũng cần phải nói thêm rằng, ngay sau khi gả con gái Ngọc Vạn cho Chey Chettha II, thiết lập mối quan hệ với triều đình Chân Lạp, năm 1623 chúa Nguyễn đã cho lập thương điếm tại Bến Nghé (nay là Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh) và khuyến khích người dân đến đây làm ăn. Năm Kỷ Mùi 1679 một tập đoàn di dân lớn của Trung Quốc hơn 3000 người đứng đầu là Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Địch và Tổng binh Cao Lôi Liêm Trần Thượng Xuyên xin tỵ nạn chính trị ở nước ta. Chúa Hiền cho phép họ xuống vùng Đông Phố và Mỹ Tho để mở mang đất đai, cất phố lập chợ cho nhân dân sinh sống và làm ăn. II. Quá trình khai phá Đồng Nai – Cửu Long Vùng Đồng Nai – Đông Phố khi ấy thuộc lãnh thổ Khmer nhưng còn rất hoang sơ, không được quan tâm chú ý đến. 6 Khi tướng Dương Ngạn Địch kéo xuống chiếm đóng vùng Mỹ Tho còn Trần Thượng Xuyên ở vùng Đông Phố - Đồng Nai có chạm trán với người Khmer. Do phong tục cũng như lối sống khác xa nhau nên hai dân tộc không hòa hợp và sinh ra chán ghét tuy nhiên không một cuộc chiến tranh nào xảy ra mà dần dần người Cam Bốt rút về miền Thượng Lục Chân Lạp, mặc cho người Hoa và người Việt khai phá vùng đất này. Năm 1698 chúa sai thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai đặt huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên (Biên Hòa) còn xứ Sài Gòn thì đặt huyện Tan Bình, dinh Phiên Trấn. Ngoài ra đặt phủ Gia Định để quản lý hai dinh này. Từ năm 1711, Mạc Cửu, một thương nhân người Hoa do không phục nhà Minh đã tìm đường vào vùng đất Chân Lạp để làm ăn buôn bán, lập nên xứ Hà Tiên, sau thấy Chân Lạp có biến, giặc ngoại xâm dòm ngó vừa thấy triều đình Nhà Nguyễn địa vị vững chãi, người Việt thế lực phát triển đã dâng đất Hà Tiên và Phú Quốc cho chúa Nguyễn, dâng biểu xưng thần mong được làm Hà Tiên trưởng và đã được chấp nhận. Về sau khi Mạc Cửu mất (1735), Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) được chúa Nguyễn ban cho tiếp quản vùng đất này đã mở ra thêm được 4 huyện: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bạc Liêu) đều mang lên dâng chúa để tạ ơn. Đến triều Võ Vương, các vua Miên lại nổi loạn. Năm 1753 vua Chân Lạp tấn công người Côn Man ở trong Nam. Chính quyền nhà Nguyễn cho Nguyễn Cư Trinh làm quan tham mưu lo việc đánh dẹp. Năm Đinh Sửu 1757 Nặc Thuận ( chú của vua Miên là Nặc Nguyên) xin hiến đất Trà Vang (Trà Vinh) và Ba Thắc (Sóc Trăng) để được chúa Võ Vương phong làm vua. Nhưng không lâu thì bị giết. Cháu của Nặc Thuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, một lần nữa cầu cứu triều đình nhà Nguyễn. Chúa Nguyễn bằng lòng giúp đỡ, Nặc Tôn được đưa về nước phong làm vua. Để trả ơn Võ Vương, Nặc Tôn cắt đất Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc) tặng chúa. Rồi cắt năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Sài Mạt, Chưng Rừm, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ nhưng Mạc cũng dân hết cho chúa Nguyễn. Võ Vương bèn nhập vào đất Hà Tiên. Năm 1780 Mạc Thiên Tứ từ trần, không có con nối dõi. Vùng đất Hà Tiên được sáp nhập vào cơ đồ chúa Nguyễn. 7 Trên vùng đất này chúa Nguyễn đã thực thi nhiều chính sách khuyến khích đặc biệt đối với việc khai phá đất hoang, cho phép người dân biến ruộng đất khai hoang được thành sở hữu tư nhân. Các chúa Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống giao thông thủy, bộ và các công trình thủy lợi nhằm phục vụ mục đích dân sinh đồng thời cũng là để bảo vệ bờ cõi. Ví dụ, năm 1817, đào kênh Thoại Hà; từ năm 1819 đến năm 1824 đào kênh Vĩnh Tế, nối Châu Đốc với Vịnh Hà Tiên, dài 74 km. Các chúa Nguyễn cũng đã bố trí lực lượng quân sự, thiết lập các đồn thủ “nơi yếu hại” để chống giặc, giữ dân và bảo vệ chủ quyền. Đồng thời kết hợp chặt chẽ các công trình xây dựng với sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo nên một tuyến phòng thủ vững chắc ở vùng biên giới”. Có thể nói, vào cuối thế kỷ XVIII, về cơ bản, chính quyền phong kiến triều Nguyễn và chính quyền phong kiến Campuchia đã xác lập và thống nhất với chủ quyền đã được phân chia trong phạm vi chủ quyền của mình. Tuy chưa có một sự đảm bảo bằng văn bản mang tính luật pháp nào nhưng trước khi thực dân Pháp xuất hiện ở đây thì biên giới giữa Việt Nam và Campuchia đã được hình thành và tương đối ổn định. Cố nhiên, đây chưa phải là một “đường biên giới” theo đúng ý nghĩa đầy đủ của nó, nó chỉ có ý nghĩa tương đối, chưa được phân vạch và cắm mốc. Nó đơn giản chỉ là ranh giới đất đai, rừng núi, sông suối do cư dân hai bên giáp biên làm chủ. Dân cư thuộc quốc gia nào thì toàn bộ ruộng nương, rừng núi mà họ sinh sống thuộc chủ quyền của quốc gia đó. III. Hệ thống các văn bản ngoại giao chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Trước hết phải khẳng định rằng hiện nay vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ đã được luật pháp quốc gia và quốc tế thừa nhận, khẳng định và trên thực tế, từ rất lâu, Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của đất nước Việt Nam. Chính phủ, luật pháp Campuchia hiện này cũng hoàn toàn thừa nhận điều này. Song, lúc này hay lúc khác, người này hay người khác, không phải không có những ý kiến ngược lại, cho dù họ là thiểu số hoặc ở trong môt thời điểm nhất định. Mục đích của họ không chỉ là vấn đề đòi lãnh thổ mà qua đó phủ nhận cơ sở pháp lý của đường biên giới được hình thành trong thời thuộc địa, đi xa hơn, có người còn muốn trở thành “biên giới lịch sử”. Năm 1959, phái đoàn của Campuchia ở Liên hiệp quốc đã cho lưu hành một tài liệu với tiêu đề “Nam Kỳ: 8 lãnh thổ của người Khmer”. Một trong những vấn đề được phía Campuchia nêu ra là không có một văn bản mang tính pháp lý (cả quốc gia và quốc tế) công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ. Tài liệu có đoạn: “không có bất cứ một vùng lãnh thổ Nam Kỳ nào là phần thưởng được trao cho người An Nam bởi một quyết định mang tính quốc gia tối cao, cũng như không có cộng đồng các quốc gia – community of states (Hội nghị, Hội quốc liên – League of Nationans, Tổ chức Liên hiệp quốc) hoặc một tổ chức pháp lý quốc tế nào thực hiện hành động như vậy”. Đúng là, về văn bản pháp lý (không nói đến thực tiễn quản lý và thụ đắc lãnh thổ), trước khi Thỏa ước ngày 9-7-1870 và Thỏa ước về việc xác định dứt điểm đường biên giới giữa Vương quốc Campuchia và Nam Kỳ thuộc Pháp (ngày 15-71873) được ký kết thì chưa có một văn bản có tính quốc tế nào đề cập một cách chính thức và trực tiếp về chủ quyền vùng đất này. Nhưng nói như thế không có nghĩa là không có một bất kỳ một văn bản mang tính quốc tế nào đề cập, hoặc liên quan đến vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở vùng đất Nam Bộ. Đã có khá nhiều tài liệu liên quan đến chủ quyền ở vùng đất Nam Bộ, bao gồm các Hiệp ước, Hiệp định, Thỏa ước song phương và đa phương mà giá trị khách quan của nó là gián tiếp thừa nhận tính hợp pháp của hai Thỏa ước đã ký. Hòa ước quốc tế giữa 3 quốc gia Việt Nam, Cao Miên và Xiêm La năm 1845 1. Sau chiến tranh Việt – Xiêm (1841 -1845), Chiến tranh Việt- Xiêm (18411845) là cuộc chiến giữa nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển Hồ) và Nam Kỳ (Nam Bộ Việt Nam). Cuộc chiến được chia làm 2 phần chính diễn ra chủ yếu vào các năm 1842 và 1845. Phần đầu cuộc chiến xảy ra năm Nhâm Dần (1842) bao gồm nhiều trận lớn nhỏ, phần lớn đã xảy ra ở Kiên Giang và An Giang thuộc miền Nam Việt Nam. Theo Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện thì đây là cuộc chiến tranh giữ nước quan trọng của người Việt, phải huy động đến năm ngàn quân và súng lớn do những tướng giỏi chỉ huy ( Chép lại theo Sơn Nam, Lịch sử An Giang, tr. 12-13.) Sau đó, cũng theo Việt Nam sử lược, thì ở Chân Lạp, quân Xiêm La lại giở trò tàn bạo, khiến người Chân Lạp không phục, lại nổi lên và cử người sang cầu cứu 9 quân đội Việt. Vua Thiệu Trị bèn sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc Chân Lạp. Tháng 6 năm Ất Tỵ (1845), Võ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp. Tiếp theo, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh truy đuổi liên quân Xiêm La - Chân Lạp, vây vua Nặc Ông Đôn và tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin) ở Ô Đông (Oudon). Tháng 9 âm lịch năm 1845, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng 11 âm lịch năm Ất Mùi (tức cuối tháng 11 đầu tháng 12 dương lịch năm 1845) thì Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng Chất Tri (Bodindecha) và Ang Duong ký tờ hòa ước ở nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở Trấn Tây (Nam Vang), đợi quân Xiêm thi hành những điều ước đã định. Hiệp định này trong đó thừa nhận về mặt pháp lý, Nam Kỳ thuộc về Việt Nam Sau đó một năm, hiệp ước năm 1846 giữa An Nam và Xiêm đã tái xác nhận về vấn đề này. Lưu ý là Campuchia cũng tham gia hiệp ước. Với sự kiện này, Raoul Marc Jennar trong công trình “Các đường biên giới của nước Campuchia cận đại” đã khẳng định “Về pháp lý, một quá trình bắt đầu từ hơn 200 năm trước đã được thừa nhận dứt khoát trong một văn kiện pháp lý quốc tế năm 1864, diễn ra 12 năm trước thời điểm khi các đơn vị quân đội Pháp đầu tiên đến”. Tác giả còn viết tiếp: “Chắc chắn, với việc tuyên bố chiến tranh với An Nam năm 1859, Campuchia muốn từ bỏ hiệp ước năm 1846 trong những điều quy định liên quan đến An Nam, nhưng tình trạng pháp lý được tạo ra như thế không khôi phục được chủ quyền của Campuchia trên lãnh thổ Nam Kỳ mà Campuchia đã phải từ bỏ qua hiệp ước năm 1846”. Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống, nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam. Tháng 2 âm lịch năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương (ý trao cho làm chủ toàn cõi Cao Miên gồm cả Nam Vang lẫn Oudong) và phong cho Ang Mey làm Cao Miên quận chúa (ý trao cho làm chủ vùng Trấn Tây (Nam Vang) nhà Nguyễn kiểm soát). Thiệu Trị lệnh cho quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây (vùng Nam Vang đến biên giới với Nam Kỳ của Đại Nam) rút về An Giang. Quân đội Xiêm La do Chất Tri chỉ huy cũng rút về Battambang (vùng đất Thái Lan chiếm đóng của Campuchia trong suốt thế kỷ 19), Campuchia được độc lập trong vùng lãnh thổ nguyên là đất Trấn Tây giai đoạn (1836-1840), bao gồm cả Nam Vang và Oudong. 10 Biên giới Nam Kỳ Lục tỉnh-Cao Miên, tuy chưa theo phong cách phương Tây hoạch định bằng văn bản hiệp định, nhưng về cơ bản trở về với đường ranh giới vào khoảng đầu năm 1841, khi Trương Minh Giảng rút quân Trấn Tây về An Giang, và trước khi quân Xiêm-Lạp xâm phạm Hà Tiên, An Giang đầu cuộc chiến. Biên giới này tồn tại cho đến sau khi Pháp xâm chiếm và ổn định xong Nam Kỳ, chiếm đóng và bảo hộ Cao Miên, thì được thay thế bởi ranh giới hành chính (nội bộ trong Liên bang Đông Dương) giữa Cao Miên và Nam Kỳ thuộc Pháp được hoạch định bởi hiệp định giữa Pháp và triều đình Cao Miên. Hòa ước quốc tế giữa ba quốc gia (mà đại diện cho Đại Nam (Việt Nam) là Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn, đại diện cho Cao Miên (Campuchia) là vua Ang Duong, đại diện cho Xiêm La (Thái Lan) là vua Chất Tri quy định phần lãnh thổ Nam Kỳ Lục tỉnh chính thức thuộc chủ quyền Việt Nam, và Campuchia chịu sự bảo hộ song phương của cả Việt Nam lẫn Thái Lan. Sự bảo hộ song phương Việt Nam và Thái Lan lên Campuchia chấm dứt, đối với Việt Nam khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam từ các tỉnh Nam Kỳ năm 1862-1867 (và chính thức trong Hòa ước Giáp Tuất (1874)), đối với Thái Lan khi Pháp ký hiệp ước bảo bộ đối với Campuchia năm 1863. 2. Hiệp ước Việt – Xiêm năm 1847 Năm 1847, hai nước Việt và Xiêm đã ký một bản hiệp ước với sự chứng kiến của vua Cao Miên là Ang Dương. Đây là một văn bản mang tính pháp lý quốc tế cao (Hiệp ước) khẳng định vùng đất Nam Kỳ thuộc chủ quyền Việt Nam trước khi Pháp sang xâm chiếm và đô hộ. Nội dung Hiệp ước, theo các sử gia thì Hiệp ước đã công nhận Ang Dương là vua Cao Miên, nhưng Cao Miên nhận là chư hầu của hai nước Việt và Xiêm; triều đình Huế phong vua Ang Dương làm Cao Miên Quốc vương, trả lại Cao Miên các quận chúa và hoàng tộc hay đại thần đã bị đem sang giữ ở Việt Nam và ngược lại, Cao Miên xác nhận các đất Nam Kỳ thuộc về Việt Nam. Vấn đề quan trọng ở đây là Cao Miên đã chấp nhận là chư hầu của Việt (cùng với Xiêm). Chính vì Cao Miên chấp nhận làm chư hầu của Việt mà nhiều học giả cho rằng Việt Nam có “quyền bá chủ” đối với Campuchia . Nhờ quyền bá chủ này mà về sau, khi đặt nền bảo hộ ở Campuchia (1863), Pháp đã sử dụng quyền bá chủ đó với Campuchia và đổi quyền bá chủ thành quyền bảo hộ (Hiệp ước bảo hộ Pháp – Campuchia ngày 11-8-1863 có ghi “… Hoàng đế của người Pháp đã chỉ định đại diện của mình là Chuẩn Đô đốc De la Grandière, Thống đốc và Tổng chỉ huy ở Nam Kỳ làm nhiệm vụ giải quyết với đức vua Campuchia các 11 điều kiện, theo đó Hoàng đế của người Pháp đồng ý chuyển các quyền bá chủ của mình đối với vương quốc Campuchia thành một nước bảo hộ”). Cố nhiên, việc Pháp sử dụng “quyền bá chủ” của Việt Nam chỉ là một cách tự hành xử, tự nhận của người Pháp mà thôi chứ trong các văn bản chính thức (như Hiệp ước 1862) không thấy có điều khoản nào thể hiện Việt Nam đã trao quyền đó cho người Pháp. 3. Hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862 12 13 14 Hòa ước Nhâm Tuất hay Hiệp ước Nhâm Tuất, hay Hiệp ước Pháp – Tây Ban Nha và Việt Nam được ký ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn và trao đổi văn bản phê chuẩn tại Huế, ngày 14/4/1863 giữa đại diện triều Nguyễn (thời vua Tự Đức) là chánh sứ Phan Thanh Giản và phó sứ Lâm Duy Hiệp (hay Thiếp) với đại diện của Pháp là thiếu tướng Bonard và đại diện của Tây Ban Nha là đại tá Don Carlos Palanca Guttiere. Theo sử liệu thì nguyên nhân chính khiến triều đình Tự Đức phải ký kết hiệp ước là vì lúc đó ở Bắc Kỳ có các cuộc nổi dậy đang đánh phá dữ dội (đáng kể nhất là của: Tạ Văn Phụng và Cai Tổng Vàng, Nông Hùng Thạc)...mà trong Nam Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh chiếm được bốn tỉnh là: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Sau khi so sánh hai mối nguy, triều đình Tự Đức bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn giảng hòa với thực dân, để có thể đưa đại quân ra tiêu diệt các cuộc nổi dậy ở đất Bắc đang uy hiếp ngai vàng của dòng họ Nguyễn. Hiệp ước có 12 điều, trong đó có điều 3 đề cập đến vấn đề chủ quyền vùng đất Nam Bộ. Điều 3 của bản hiệp ước quy định “chủ quyền đối với ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cũng như Côn Đảo được chuyển nhượng hoàn toàn cho hoàng đế nước Pháp. Đối với chúng ta, Hiệp ước 1862 và sau này còn có hiệp ước 1874 là một nỗi đau, vì với bản hiệp ước đó, đất nước chúng ta đã phải mất đi một phần máu thịt thiêng liêng của mình. Song, mặt khác nó đã một lần nữa thừa nhận, vùng đất này vốn là của Việt trước khi bị “chuyển nhượng” cho thực dân Pháp, vì theo nguyên tắc, chỉ có chủ nhân của nó mới có quyền “chuyển nhượng” cho một đối tượng khác Điều này đã được chính chính phủ Pháp khẳng định lại trong thư gửi cho Quốc vương N.Sihanuk ngày 8-6-1949 rằng “Chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam (…). Về pháp lý, nước Pháp có cơ sở để thỏa thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ và chính là với Chính phủ Việt Nam ngày nay”. 4. Hiệp ước Giáp Tuất 1874 Hoà ước Giáp Tuất 1874 là bản hiệp định thứ hai giữa triều Nguyễn và Pháp, được ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1874 với đại diện của triều Nguyễn là Lê Tuấn Chánh sứ toàn quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường - Phó sứ toàn quyền đại thần và đại diện của Pháp là Dupré - Toàn quyền đại thần, Thống đốc Nam Kỳ. Hoà ước 15 gồm có 22 điều khoản với nội dung chính là thay thế bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862, công nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ, lệ thuộc về chủ quyền ngoại giao, mở cửa cho Pháp tự do buôn bán tại các cảng biển và trên sông Hồng cùng tự do truyền đạo. Sau khi ký Hoà ước Nhâm Tuất 1862, Pháp chiếm đóng và cai trị 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Pháp quyết định xâm chiếm và lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại của Nam Kỳ, và đến năm 1867 họ đã lấy nốt thành công 3 tỉnh này sau khi Kinh lược sứ Phan Thanh Giản quyết định giao các thành cho Pháp do biết không chống đỡ nổi.Sau khi củng cố Nam Kỳ, nhân sự rối ren ở Bắc Kỳ, Pháp đã quyết định từng bước tiến ra với mục đích chiếm lấy Bắc Kỳ. Để mục đích được thuận lợi, Pháp ra những yêu sách rất ngang ngược với triều đình Huế về các quyền lợi ở Bắc Kỳ rồi đưa quân ra và chiếm lần lượt các thành Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương. Tình hình diễn ra ở Bắc Kỳ cũng như sự chiếm đóng các tỉnh Tây Nam Kỳ dẫn tới vi phạm vào bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862 mà hai bên đã ký, và dẫn tới việc Pháp thay thế hiệp ước mới bằng bản Hoà ước Giáp Tuất 1874 có lợi hơn cho Pháp. 16 17 18 Hiệp ước có 22 điều khoản, trong đó có khoản V của văn bản Triều đình Huế và điều 5 của văn bản của bộ ngoại giao Pariscó đề cập đến vấn đề chủ quyền của vùng đất Nam Bộ: Văn bản của Triều đình Huế Khoản thứ V: Vua nước Đại Nam biết rõ địa hạt nước Đại Pháp hiện được cai trị, tức là 6 tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, phía Đông Giáp biển và địa đầu phía tây tỉnh Bình Thuận nước Đại Nam, đều về quản hạt của nước Đại Pháp, riêng giữ quyền tự hữu. Duy nước Đại Nam có phần mộ quê ngoại về họ Phạm, họ Hồ cộng 14 sở; trong đó họ Pham 11 sở, ở thôn Tân Niên đông và Tân Quan đông thuộc tỉnh Gia Định; họ Hồ 3 sở ở thôn Linh Chiểu tây và xã Tân Mai thuộc tỉnh Biên Hòa, các mộ ấy nghiêm cấm các hạng người đều khôn được xâm phạm. Nước Đại Pháp lại xin trích 200 mẫu ruộng đất gần mộ, trong số đó giao cho họ phạm 100 mẫu, họ Hồ 100 mẫu để làm nhu phí lo giữ các phần mộ. Còn như ruộng đất ấy và nhân đinh họ Phạm, họ Hồ, nước Đại Pháp đều miễn trừ đi lính, đi phu và các thuế đinh thuế điền. Văn bản của bộ ngoại giao Paris Điều 5: Đức Hoàng thượng Vua nước An Nam công nhận chủ quyền toàn vẹn của nước Pháp trên các vùng lãnh thổ do nớc Pháp hiện đang chiếm giữ và bao gồm trong trong các giới hạn như sau: Về phía Đông: vùng biển Trung Quốc và Vương Quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận); Về phía Tây: vịnh Xiêm La (Thái Lan); Về phía Nam: vùng biển Trung Hoa; Về phía Bắc: Vương quốc Campuchia và Vương quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận); Mười một ngôi mộ của họ Phạm ở trên đất các làng Tân Niên Đông và Tân Quan Đông (tỉnh Sài Gòn) và ba ngôi mộ của họ Hồ ở trên các làng Linh Chung Tây và Tân Mai (tỉnh Biên Hòa), không thể bị mở ra, đào xới, xâm phạm hay hủy hoại được. Sẽ cấp một lô đất rộng 100 mẫu cho các ngôi mô nhà họ Phạm và một lô tương đương như thế cho nhà họ Hồ. Hoa lợi thu được trên các lô đất nầy được dùng để gìn giữ và bảo toàn các ngôi mộ và chu cấp các gia đình lo việc trông nôm các phần mộ. Các lô đất được miễn các thứ thuế và những 19 người trong dòng họ Phạm, Hồ cũng sẽ được miễn thuế thân, khỏi thi hành quân dịch hay đi dân công. 5. Hiệp ước bí mật Xiêm – Campuchia (1/12/1863) Cũng có thể có người cho rằng các văn bản mang tính pháp lý quốc tế nói trên được xác lập với sự tham gia của Việt Nam và Pháp, đương nhiên sẽ có những điều khoản có lợi cho Việt Nam (cũng có nghĩa là có lợi cho Pháp). Nhưng trong thực tế cũng có những văn bản pháp lý không có sự tham gia của Việt Nam và Pháp vẫn chứng tỏ rằng vùng đất Nam Kỳ thuộc chủ quyền Việt Nam. Đó là Hiệp ước bí mật Xiêm – Cao Miên ngày 1-12-1863 được ký giữa một bên là ông Phya Rajawranukul – người được trao toàn quyền của vua Xiêm và bên kia là ông Phra 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan