Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình di dân tái định cư thuỷ điện sơn la trên địa bàn huyện mường la giai đ...

Tài liệu Quá trình di dân tái định cư thuỷ điện sơn la trên địa bàn huyện mường la giai đoạn (2003 2013)

.PDF
119
387
126

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Vũ Thị Hòa, người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong Tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam, khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn. Luận văn cũng nhận được sự giúp đỡ tận tình của Phòng Sau đại học, Thư viện Trường ĐHSP Hà Nội, Văn phòng tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Sơn La, Ban Chỉ đạo Di dân tái định thủy điện Sơn La - tỉnh Sơn La, Ban Chỉ đạo di dân tái định cư thủy điện Sơn La - huyện Mường La; huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, huyện Mường La; Phòng Tài nguyên - Môi trường, Phòng Nông nghiệp huyện Mường La; Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân các xã: Mường Bú, Mường Chùm, Chiềng Lao, Nậm Dôn, Mường Trai, Hua Trai, Pi Tong và thị trấn Ít Ong của huyện Mường La đã chân thành giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thiện luận văn. Trong quá trình thực hiện luận văn, do thời gian, nguồn tư liệu và khả năng tiếp cận của bản thân còn hạn chế vì vậy khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để luận văn được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, tháng 10 năm 2015 Tác giả 0 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thủy điện Sơn La là nhà máy thuỷ điện lớn nhất Đông Nam Á, là công trình trọng điểm quốc gia, được khởi công xây dựng ngày 02/12/2005 tại xã Ít Ong, huyện Mường La. Thuỷ điện Sơn La được xây dựng và đưa vào vận hành có ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng đặc biệt, đóng góp nguồn điện lớn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng đề ra nhằm: “sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển... tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020”. [37, tr5] Xây dựng công trình Thuỷ điện Sơn La cũng là một vận hội lớn mang tính lịch sử đối với các tỉnh Tây Bắc nói chung, đối với huyện Mường La, tỉnh Sơn La nói riêng, là thời cơ để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, sắp xếp lại lao động và dân cư. Đồng thời, tạo bước ngoặt mới đưa Sơn La thoát khỏi tình trạng tỉnh đặc biệt khó khăn, tạo lập các yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo như lời phát biểu của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải tại lễ khởi công xây dựng thuỷ điện Sơn La: “Xây dựng Thuỷ điện Sơn La thành công sẽ là bước làm rạng ngời non sông, thay đổi giang sơn và viên ngọc Tây Bắc toả sáng..” Để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó, một vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm, là nhiệm vụ nặng nề đặt ra cho tỉnh Sơn La đó là công tác di dân tái định cư. Có thể nói, một trong những nguyên nhân quyết định yếu tố thành bại của công trình thuỷ điện Sơn La đó là công tác di dân tái định cư. Trong toàn bộ quá trình xây dựng thuỷ điện, công tác di dân tái định cư là một trong những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, nan giải nhất và nó là nguyên nhân gây chậm tiến độ đối với hầu hết các công trình xây dựng cơ bản. Trên thực tế, công tác này còn để lại những hậu quả không mong muốn 1 về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội kéo dài khi công trình đã đi vào vận hành ổn định. Muốn xây dựng và vận hành nhà máy thuỷ điện đảm bảo đúng tiến độ, yêu cầu công tác di dân tái định cư cần đi trước một bước. Mường La là một trong những huyện chịu ảnh hưởng lớn nhất và cũng là huyện đầu tiên của tỉnh Sơn La phải thực hiện việc di dân tái định cư. Tính đến năm 2013, toàn huyện phải tổ chức di dời và ổn định đời sống cho 3.525 hộ (16.046 khẩu). Đối tượng di dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số - đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong quá trình phát triển bởi tập quán sản xuất lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp… Di dân tái định cư là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, nó liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực như: đất đai, nhà cửa, phong tục tập quán, tư tưởng, nhận thức, môi trường chế độ chính sách, đời sống, sản xuất, văn hoá, an ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.. Cuộc vận động di dân đến nơi ở mới là cả một cuộc cách mạng lòng người. Tuy nhiên, việc đảm bảo đời sống cho các hộ dân tái định cư như mục tiêu đã đặt ra: không những bằng mà phải tốt hơn nơi ở mới tại các khu tái định cư còn là cả một cuộc cách mạng về kinh tế - xã hội. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, tỉnh Sơn La đã chỉ đạo huyện Mường La tổ chức thực hiện công tác di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La theo đúng yêu cầu, góp phần đẩy nhanh tiến độ dự án xây dựng nhà máy, giúp Thuỷ điện Sơn La hoàn thành và đi vào vận hành ổn định xong trước 2 năm so với kế hoạch. Những đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc huyện Mường La trong xây dựng nhà máy thuỷ điện không thể không nhắc đến những đóng góp trong công tác di dân tái định cư. Chính vì vậy, nghiên cứu về quá trình di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La trên địa bàn huyện Mường La trong giai đoạn 2003 - 2013 có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 2 Nghiên cứu vấn đề di dân tái định cư để làm rõ cơ sở khoa học mà Đảng, Chính phủ, Quốc hội chủ trương xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La. Nghiên cứu vấn đề này còn cho thấy sự chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện xây dựng thuỷ điện; quyết tâm của tỉnh, huyện, tinh thần đoàn kết của nhân dân. Huyện Mường La tỉnh Sơn La là vùng địa đầu Tây Bắc của Tổ quốc, giải quyết tốt vấn đề di dân tái định cư còn làm ổn định tình hình ở khu vực nhạy cảm về an ninh, chính trị. Thực tiễn bài học của quá trình di dân tái định cư tại Mường La là mô hình điểm cho việc tổ chức di dân trên địa bàn rộng (các huyện khác trên địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng và hai tỉnh Điện Biên, Lai Châu nói chung cũng như việc di dân các công trình trọng điểm quốc gia sau này). Nghiên cứu về quá trình di dân tái định cư thủy điện Sơn La không những mang tính lịch sử mà còn mang tính thời sự. Giải quyết bài toán tái định cư đảm bảo mục tiêu cho đồng bào có cuộc sống nơi ở mới tốt hơn nơi ở cũ không phải là vấn đề có thể giải quyết được ngay trong thời gian ngắn. Trong quá trình thực hiện trên một phạm vi rộng dưới sức ép phải bàn giao mặt bằng cho công trình thủy điện, chắc chắn không tránh được những sai sót, yêu cầu địa phương phải thường xuyên quan tâm sát sao đến đời sống sản xuất của đồng bào nhằm đảm bảo đời sống của nhân dân trên quê hương mới. Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, với mong muốn tái hiện bức tranh toàn cảnh về công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức thực hiện và ổn định đời sống sản xuất cho đồng bào di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La, tôi lựa chọn vấn đề: Quá trình di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La trên địa bàn huyện Mường La giai đoạn (2003 - 2013) làm đề tài luận văn cao học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Công tác tổ chức di dân tái định cư trên địa bàn huyện đã được đề cập tới trong một số tác phẩm sách báo và công trình nghiên cứu khoa học. 3 Khoá luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung, Khoa Địa lý, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2006), với đề tài Đánh giá bước đầu mô hình tái định cư thuỷ điện Sơn La bản Nà Nhụng, xã Mường Chùm, huyện Mường La đã trình bày nhưng nét tổng quan về công trình Thuỷ điện Sơn La, các nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó, đề cập đến quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện di dân tái định cư ở bản Nà Nhụng - mô hình điểm về di dân tái định cư đầu tiên trên địa bàn huyện Mường La. Tuy nhiên, tác giả tập trung khai thác vấn đề dưới góc nhìn địa lý và những tác động của yếu tố kinh tế, xã hội tại một đơn vị hành chính nhất định (một bản) trên địa bàn huyện Mường La chứ chưa đi sâu nghiên cứu quá trình di dân tái định cư dưới góc nhìn lịch sử trên phạm vi toàn huyện. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của khoa học địa lý Nghiên cứu tình hình sản xuất và mức sống dân cư của các hộ gia đình ở một số khu tái định cư Thuỷ điện Sơn La của đồng tác giả Thạc sỹ Đào Thị Bích Ngọc và Thạc sỹ Nguyễn Thị Hồng Nhung (2010), Trường Đại học Tây Bắc đã nghiên cứu thực trạng về mức sống của các hộ gia đình tại một số khu tái định cư Thuỷ điện Sơn La trên địa bàn tỉnh Sơn La. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp phù hợp để ổn định đời sống nhân dân tại các khu tái định cư. Tuy nhiên, đề tài cũng chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu và đánh giá về mức sống các hộ gia đình tại một số khu tái định cư tiêu biểu trên địa bàn tỉnh (7 khu) chứ chưa đi sâu nghiên cứu việc quy hoạch tất cả các khu, điểm tái định cư, quá trình tổ chức di dân, việc bảo tồn các giá trị văn hóa của dân di cư. Luận án tiến sỹ giáo dục học Nghiên cứu sự thích ứng với điều kiện sống mới của dân di cư vùng thuỷ điện Sơn La (2012), của tiến sỹ Nguyễn Văn Hồng (Đại học Tây Bắc) đã nghiên cứu, khảo sát thực tiễn về vấn đề thích ứng của dân di cư vùng Thuỷ điện Sơn La. Luận án phân tích các yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng đến sự thích ứng môi trường sống và sản xuất tại nơi 4 ở mới của dân di cư vùng thuỷ điện Sơn La. Đề xuất những kiến nghị giúp dân di cư sớm thích nghi với điều kiện sống mới. Tác giả chỉ mới tập trung đi sâu khai thác yếu tố xã hội (diễn biến tâm lý) của dân di cư Thuỷ điện Sơn La chứ chưa nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện quá trình di dân tái định cư trên địa bàn tỉnh Sơn La nói chung, trên địa bàn huyện Mường La nói riêng. Năm 2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Ban Dân vận Trung ương đã xuất bản Báo cáo chuyên đề công tác vận động, tuyên truyền và những bài học kinh nghiệm trong cuộc di dân tái định cư dự án thuỷ điện Sơn La (2003 - 2010), tác giả nghiên cứu các chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác di dân tái định cư Thủy điện Sơn La; quá trình chỉ đạo của tỉnh Sơn La với các đơn vị cơ sở để tuyên truyền, vận động, giúp đỡ nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước di dân đến tái định cư nơi mới và những bài học kinh nghiệm thực tiễn rút ra trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác di dân tái định cư trên địa bàn tỉnh Sơn La sau chặng đường 6 năm thực hiện (2003 - 2010) nhiệm vụ di dân tái định cư. Tuy nhiên, báo cáo mới chú trọng nghiên cứu các chủ trương, chỉ đạo chung của Trung ương, của tỉnh và những kết quả bước đầu, chung nhất về công tác di dân chứ chưa nghiên cứu một cách cụ thể từng đơn vị cũng như chưa đề cập các biện pháp để giải quyết công tác tái định cư, ổn định đời sống của đồng bào. Bên cạnh đó, công tác di dân tái định cư còn được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu về lịch sử địa phương khác như như Đặc san Mường La anh hùng do Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Mường La xuất bản năm 2003; Tỉnh Sơn La 110 năm (1895 - 2005) do Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La xuất bản năm 2005, luận án tiến sỹ khoa học nông nghiệp Thực trạng và giải pháp bố trí sử dụng đất nông nghiệp và phục vụ tái định cư công trình thuỷ điện Sơn La trên địa bàn tỉnh Điện Biên, luận án của Tiến sỹ Nguyễn Văn Quân, năm 2013…. Những tác phẩm trên đã phần nào phản ánh quá trình di dân tái định cư 5 Thuỷ điện Sơn La. Tuy nhiên, các công trình trên mới chủ yếu là các công trình nghiên cứu của khoa học địa lý, nông nghiệp, giáo dục học. Chưa có một công trình của khoa học lịch sử nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về công tác di dân tái định cư. Các công trình mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về diễn biến tâm lý dân tái định cư, thực trạng mức sống của đồng bào tái định cư trên phạm vi toàn tỉnh. Theo nghiên cứu của tác giả, mới chỉ có một công trình khoa học địa lý nghiên cứu chuyên sâu về công tác di dân tái định cư tại huyện Mường La nhưng mới chỉ dừng lại nghiên cứu trên phạm vi 1 bản tiêu biểu của 1 xã trên địa bàn huyện Mường La (bản Nà Nhụng, xã Mường Chùm). Quá trình di dân tái định cư ở huyện Mường La giai đoạn 2003 - 2013 chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện cũng như nhiều khía cạnh về các giải pháp ổn định và phát triển kinh tế - xã hội cho nhân dân vùng tái định cư hay các bài học kinh nghiệm về công tác di dân tái định cư trên địa bàn huyện, đóng góp chung cho công tác di dân tái định cư các công trình sau này. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình, kết hợp với việc sưu tầm, khai thác tư liệu tại các thư viện, các cơ quan lưu trữ của Trung ương và tỉnh, tôi bước đầu tập hợp, sắp xếp và trình bày vấn đề nghiên cứu theo một hệ thống nhằm làm sáng tỏ một số nội dung của đề tài. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên quá trình tuyên truyền, vận động, tổ chức di chuyển và ổn định đời sống nhân dân tại các điểm, khu tái định cư của huyện Mường La. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Đề tài nghiên cứu 7 khu, 44 điểm tái định cư thủy điện Sơn La trên địa bàn huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Các khu (xã): Chiềng Lao 6 (17 điểm), Hua Trai (4 điểm), Mường Trai (5 điểm); Pi Tong (Ít Ong) 1 điểm; Nậm Dôn (8 điểm); Mường Chùm (4 điểm); Mường Bú (4 điểm). Ngoài ra, đề tài còn nghiện cứu một số điểm ngoài huyện có di dân của huyện chuyển đến tái định cư. Về mặt thời gian: Nghiên cứu quá trình quán triệt, chỉ đạo triển khai, tuyên truyền vận động, tổ chức thực hiện, ổn định đời sống nhân dân vùng tái định cư từ năm 2003 - 2013. 3.3. Nhiệm vụ của đề tài Nghiên cứu đề tài làm rõ được vị trí, tầm quan trọng của công trình thuỷ điện Sơn La đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; công cuộc di dân tái định cư xây dựng thuỷ điện trên địa bàn huyện Mường La; quyết tâm của Đảng và Nhà nước, sự đồng sức, đồng lòng vươn lên khắc phục khó khăn của nhân dân trong quá trình di dân tái định cư.Tác động của quá trình di dân đến sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Từ đó, tác giả rút ra những nhận xét, bài học kinh nghiệm, những đóng góp của nhân dân các dân tộc huyện Mường La trong việc xây dựng thuỷ điện Sơn La. 4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu 41. Nguồn tư liệu Các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, liên Bộ về chỉ đạo công tác di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La. Tài liệu lưu trữ: các chỉ thị, kế hoạch, báo cáo, quyết định của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La; Ban Di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La tỉnh Sơn La; Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân huyện Mường La, Ban Di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La huyện Mường La. Sách báo chuyên khảo liên quan đến đề tài, các đề tài nghiên cứu khoa 7 học cấp bộ, luận án tiến sĩ, báo cáo chuyên đề, luận văn, khóa luận tốt nghiệp, kỷ yếu hội thảo đánh giá công tác tổ chức, tuyên truyền công tác di dân tái định cư; tình hình sản xuất, và dân cư; diễn biến tâm lý dân cư vùng tái định cư Thuỷ điện Sơn La… Báo chí: Báo Sơn La, báo nhân dân, Internet... Tư liệu điền dã. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối chiến lược trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp phương pháp lôgic, phương pháp so sánh, điều tra xã hội học, thống kê, phương pháp liên ngành nhằm tái hiện quá trình di dân tái định cư. Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu, quy nạp để rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La trên địa bàn huyện Mường La. 5. Đóng góp của luận văn Tái hiện quá trình thực hiện chủ trương di dân tái định cư trên địa bàn huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Luận văn góp phần kiểm nghiệm thực tiễn xây dựng đề án “Ổn định đời sống và phát triển sản xuất cho các hộ tái định cư Thuỷ điện Sơn La” của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La. Thực tiễn công tác di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La trên địa bàn huyện Mường La là bài học kinh nghiệm, mô hình điểm cho công tác di dân tái định cư trên địa bàn tỉnh Sơn La và các địa phương khác trong diện phải di dời do ảnh hưởng của công trình Thuỷ điện Sơn La và những công trình trọng điểm khác. Luận văn còn cho thấy chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta 8 trong việc sớm ổn định đời sống nhân dân. Các giải pháp của tỉnh Sơn La, huyện Mường La trong việc giải quyết bài toán tái định cư. Những kinh nghiệm của huyện trong việc ổn định đời sống trước mắt cũng như lâu dài cho nhân dân các điểm tái định cư. Luận văn hoàn thành còn là nguồn tư liệu đóng góp cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn lịch sử, địa lý địa phương. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu tạo thành 3 chương. Chương 1: Khái quát chung về huyện Mường La và chủ trương di dân tái định cư Nhà máy Thuỷ điện Sơn La. Chương 2: Quá trình thực hiện chủ trương di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La trên địa bàn huyện Mường La giai đoạn 2003 - 2013 Chương 3: Tác động của quá trình di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La đến sự phát triển kinh tế - xã hội huyện Mường La giai đoạn 2003 - 2013 KẾT LUẬN PHỤ LỤC 9 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN MƯỜNG LA VÀ CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG , DI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN SƠN LA 1. Khái quát chung về huyện Mường La và chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà máy thủy điện Sơn La trên địa bàn huyện Mường La Mường La là một huyện miền núi của tỉnh Sơn La, cách thành phố Sơn La 42 km về phía Đông Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 380km, giới hạn toạ độ địa lý từ 21015’ - 21042’ vĩ độ Bắc; 103045’ - 104024’ kinh độ Đông. Ranh giới của huyện tiếp giáp với tỉnh Yên Bái và tỉnh Lai Châu ở phía Đông và phía Bắc; phía Tây và Tây Nam giáp huyện Quỳnh Nhai và huyện Thuận Châu; phía Nam giáp các huyện Bắc Yên, Mai Sơn và thành phố Sơn La. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 142.924 ha. Toàn huyện có 16 xã, thị trấn (trong đó có 9 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn), 251 bản. Tính đến tháng 1/2003, Mường La có 23.967 hộ với 82.233 nhân khẩu, mật độ trung bình 57 người/km2. Tuyến đường giao thông chính của huyện là tuyến tỉnh lộ 106A, trải dài từ thành phố Sơn La qua địa bàn huyện sang huyện Mù Cang Chải (tỉnh Yên Bái) với chiều dài khoảng 60km. Đây là tuyến đường giao thông huyết mạch của huyện, đã được mở rộng, nâng cấp nhiều lần để phục vụ yêu cầu vận tải xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La. Ngoài ra, nội huyện còn có các tuyến đường nhánh, đường liên bản, liên xã. Địa hình chủ yếu của huyện Mường La là đồi núi, có độ dốc lớn. Dọc các khe núi là hệ thống các sông suối xen kẽ. Tuy nhiên các suối chủ yếu là suối nhỏ, có độ dốc lớn, là các phụ lưu của suối Chiến, suối Pia, lớn nhất trong hệ thống sông suối là sông Đà. Những suối nhỏ có lưu lượng nước biến đổi theo mùa, ít có giá trị trong điều tiết nước sản xuất nhưng lại là một tiềm năng lớn để xây dựng các thuỷ điện dựa vào độ dốc của địa hình và tốc độ dòng chảy của các suối. 10 Đáng kể nhất trong hệ thống sông suối của huyện Mường La là sông Đà. Sông Đà là hệ thống chi lưu lớn nhất của sông Hồng, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy qua các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình của Việt Nam. Sông Đà chảy qua địa phận tỉnh Sơn La dài khoảng 239 km, có diện tích lưu vực trên 10.000km với 14 phụ lưu lớn, độ chênh dòng chảy 100m nên có nhiều thác ghềnh. Hai phụ lưu quan trọng của sông Đà là Nậm Chiến (bên bờ trái) dài 51 km và Nậm Bú (bên bờ phải). Với độ cao chênh lệch khoảng 300m, uốn khúc quanh co, núi non trùng điệp. Sông Đà và những chi lưu của nó chứa đựng những tiềm năng thuỷ điện to lớn. Toàn bộ lưu vực sông Đà, trong đó có đoạn sông chảy trên địa phận tỉnh Sơn La có lưu lượng nước lớn, cung cấp 48 % lượng nước cho sông Hồng. Vì địa hình mới được nâng lên mạnh nên các sông suối của lưu vực sông Đà đều thuộc loại sông trẻ, thung lũng sông hẹp, nhiều hẻm vực sâu ít có giá trị trong giao thông đường thủy nhưng lại là một tiềm năng lớn trong phát triển công nghiệp thủy điện. Việc nghiên cứu, khảo sát, xây dựng các bậc thang thuỷ điện trên Sông Đà đã và đang phát huy những hiệu quả tích cực. Toàn huyện có diện tích 142.924 ha, trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 16.700 ha. Độ cao bình quân của huyện từ 500 - 700 m so với mực nước biển. Khí hậu, thổ nhưỡng của huyện phù hợp để trồng lúa nước và các cây lương thực khác như ngô, đậu tương… Tuy nhiên, phần lớn đời sống của đồng bào còn gặp rất nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp do địa hình đồi núi là chủ yếu, đất canh tác ít, lại phụ thuộc rất lớn vào yếu tố tự nhiên. Người dân chỉ tận dụng được các khe suối để làm ruộng bậc thang nhỏ trồng lúa nước hay đào ao thả cá nhưng năng suất chưa cao. Thành phần dân tộc của huyện khá đa dạng gồm 6 tộc người cùng sinh sống là người Thái, Mông, La Ha, Kinh, Kháng, Khơ Mú. Người Thái là tộc người chủ yếu, còn lại là các cộng đồng dân tộc ít người khác. 11 Người Thái là tộc người chiếm đa số (chiếm 65,12% dân số toàn huyện), chủ yếu là người Thái đen, phân bố trên tất cả các xã, thị trấn của huyện. Đời sống chủ yếu dựa vào canh tác lúa nước. Các bản của người Thái tập trung theo các thung lũng, dọc theo suối, sông nơi có các phiêng bãi bằng có thể dẫn nước vào làm ruộng được. Họ khá thuần thục các kỹ thuật khai khẩn ruộng đồng như đắp phai, khơi mương, bắc máng dẫn nước (dẫn thủy nhập điền). Họ biết lợi dụng nguồn nước dồi dào của sông, suối để phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Ngoài ra, đồng bào dân tộc Thái còn rất thành thục trong việc làm nương rẫy trồng các cây như ngô, sắn, bông, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Người Thái nổi tiếng với các sản phẩm thủ công như đan lát, sản phẩm cắt may, thêu thùa thổ cẩm trên khăn, váy, mặt chăn, nẹp đệm…Cũng như các dân tộc khác, dân tộc Thái có một nền văn hóa phong phú và độc đáo, có chữ viết riêng. Người Thái ở Mường La còn được biết đến nhờ những lễ hội phong phú như lễ xên hươn, xên bản, lễ hội bắt cá… đã và đang đóng góp thêm những giá trị văn hóa vào kho tàng văn hóa dân tộc vốn đang rất cần được bảo tồn và lưu giữ. Dân tộc Mông ở huyện Mường La sống ở các bản vùng cao của các xã Ít Chiềng Công, Ngọc Chiến, Ít Ong, tuy có một ít ruộng nước nhưng người Mông vẫn coi làm nương rẫy là phương thức sản xuất và là nguồn sống chính. Trong đời sống hàng ngày, nam giới người Mông giỏi về kỹ thuật rèn, đúc kim loại như đúc, khoan nòng làm súng kíp và các nông cụ như rèn lưỡi cày, cuốc, dao, nữ giới giỏi trồng bông và se lanh dệt vải. Họ có kỹ thuật nhuộm màu và trang trí, thêu thùa những hoa văn trên các trang phục của mình thể hiện tính độc đáo và trình độ thẩm mỹ khá cao, tiêu biểu là các hình trang trí trên váy, áo của người phụ nữ. Người Mông có đời sống văn hóa phong phú với các điệu múa khèn, thổi đàn môi, khèn lá… Người Mông rất coi trọng yếu tố dòng tộc, họ quan niệm những người cùng dòng họ đều là anh em cùng 12 chung tổ tiên phải đoàn kết, cưu mang và giúp đỡ lẫn nhau. Dưới thời phong kiến và thực dân, đồng bào Mông bị phân biệt đối xử, họ phải lao động, phục dịch, cống nộp các sản phẩm cho các chức dịch người Thái. Ngày nay, với các chính sách của Đảng và Nhà nước, đời sống đồng bào dân tộc Mông ở Mường La đã và đang có những đổi thay tích cực. Người La Ha thuộc nhóm ngôn ngữ Kađai. Tại Mường La, họ sinh sống ở các xã như Ít Ong, Nặm Păm, Nậm Giôn.., họ có mối quan hệ mật thiết với người Kháng về kinh tế, xã hội và văn hóa. Dân tộc La Ha sống chủ yếu bằng nghề nương rẫy, ngày nay đồng bào đã biết làm ruộng. Họ không dệt vải mà chỉ trồng bông đem trao đổi với người Thái lấy quần áo mặc nên trang phục có nhiều nét giống người Thái đen. Phong tục, tập quán của người La Ha có nhiều nét độc đáo và phong phú. Ngoài ra đồng bào vùng dọc ven sông Đà còn thuần thục các kỹ năng đánh bắt cá trên sông [1;tr8] Dân tộc Kháng thuộc nhóm người dân tộc thiểu số của tỉnh Sơn La. Tại Mường La, người Kháng sinh sống tại Ít Ong, Nậm Giôn, Hua Trai…người Kháng còn có tên gọi khác là Xá Khao, Xá Xúa. Tiếng Kháng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme. Người Kháng thông thạo trồng trọt trên nương với loại cây trồng chính là lúa nếp, ngô, bông. Trang phục phụ nữ Kháng có nhiều nét giống trang phục phụ nữ Thái. Do lối sống du canh, du cư nên địa bàn cư trú của người Kháng khá rải rác, xen kẽ với nhiều dân tộc khác. Dân tô ̣c Kinh sinh số ng ta ̣i huyện Mường La tâ ̣p trung ở khu vực xung quanh thi ̣ trấ n Ít Ong, khu vực trung tâm của các xã vùng thấp như Chiềng Lao, Mường Bú, Mường Chùm, Tạ Bú.. Người Kinh ở Mường La chủ yếu sống bằng hoạt động kinh doanh buôn bán. Người Kinh ta ̣i Ít Ong di cư đế n đây theo 2 đơ ̣t lớn. Đơ ̣t 1, di cư ta ̣i các tin̉ h vùng đồ ng bằ ng Bắ c bô ̣ như Thái Bình, Hà Tây (cũ)… lên khai hoang xây dựng kinh tế mới từ những năm 60 của thế kỷ XX.. Từ năm 2000 đế n nay, viêc̣ xây dựng Nhà máy Thủy điê ̣n 13 Sơn La đã thu hút lươ ̣ng lớn dân cư (chủ yế u là người Kinh) từ các điạ phương trong cả nước đế n huyện lao đô ̣ng, buôn bán. Hiê ̣n nay, dân tô ̣c Kinh đóng vai trò quan tro ̣ng trong sự phát triể n kinh tế của điạ phương. Đời sống của đồng bào duy trì lối sống tự túc, tự cấp, giao lưu trao đổi còn hạn chế vì sống thành các bản biệt lập, dựa vào thông thương đường thuỷ trên sông Đà và các chợ phiên, do giao thông đi lại giữa các bản, các xã với huyện còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vào mùa mưa lũ. Trước năm 2003, về cơ bản Mường La vẫn là một huyện nghèo của cả nước. Việc Đảng, Quốc hội, Chính phủ, quyết định xây dựng Nhà máy thuỷ điện Sơn La trên địa bàn huyện Mường La vừa là thời cơ mới giúp kinh tế của huyện có những bước phát triển mới nhưng đồng thời cũng là thách thức không nhỏ bởi Mường La sẽ là huyện đầu tiên của tỉnh thực hiện công tác di dân tái định cư để giải phóng mặt bằng xây dựng thuỷ điện. Công trình Thuỷ điện Sơn La là công trình trọng điểm quốc gia, được đầu tư xây dựng trên sông Đà, tại tuyến Pá Vinh, xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Đây là bậc thang thứ 2 trong sơ đồ khai thác năng lượng trên sông Đà. Trước đó, chúng ta đã xây dựng và đi vào hoàn thành vận hành thành công 8 tổ máy của Thuỷ điện Hoà Bình với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô. Dự án xây dựng nhà máy Thuỷ điện Sơn La đã được xem xét từ những năm 1960 trong các nghiên cứu tổng hợp nguồn nước các bậc thang sông Đà. Năm 1978, báo cáo tổng quan khai thác sông Đà đã được nhà nước phê duyệt với nội dung sẽ xây dựng 2 đập thuỷ điện, đập Hoà Bình (tỉnh Hoà Bình) và đập Tạ Bú (tỉnh Sơn La). Tuy nhiên, do nhiều nhân tố chủ quan, khách quan khác nhau, dự án này mới chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát tiềm năng, vị trí chứ chưa tiến đến lập quy hoạch chi tiết việc xây dựng nhà máy thuỷ điện ở bậc thang 2 và 3. 14 Sau nhiều năm nghiên cứu, chủ trương xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La chính thức được đẩy nhanh và trình Quốc hội vào kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá X để xem xét, bàn bạc. Đến kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XI, Quốc hội đã đi đến thống nhất, quyết định xây dựng Dự án Thuỷ điện Sơn La với tuyến trình được chọn tại Pá Vinh, xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Quyết định này đã đạt được sự thống nhất cao trong Bộ Chính trị, Chính phủ và Quốc hội theo phương án 3 bậc trên sông Đà. (Bậc 1 xây dựng máy thuỷ điện Hoà Bình, bậc 2 xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La , bậc 3, xây dựng nhà máy thuỷ điện Lai Châu). Ngày 16/12/2002, Quốc Hội đã thông qua Nghị quyết về phương án xây dựng thuỷ điện Sơn La. Để đảm bảo tính an toàn tuyệt đối của công trình, Chính phủ đã quyết định xây dựng thuỷ điện Sơn La với mực nước dâng từ 205m - 215 m, không vượt quá ngưỡng 215m. Sáng ngày 2/12/2005, công trình thuỷ điện Sơn La đã được Thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước chính thức phát lệnh khởi công xây dựng tại tuyến Pá Vinh, xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Là một công trình trọng điểm quốc gia, thuỷ điện Sơn La có vị trí, vai trò quan trọng, cần thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Theo Nghị quyết số 44/2001/QH10 về chủ trương xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Sơn La, Quốc hội đã đề ra những mục tiêu chính của công trình này: Một là, cung cấp nguồn điện năng để phát triển kinh tế - xã hội phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Hai là, nâng cao tầng suất chống lũ cho sông Đà (từ 125 năm lên 500 năm) và cung cấp nước cho vùng hạ du với hơn 20 triệu người và hàng trăm ngàn ha lúa khu vực đồng bằng sông Hồng. 15 Ba là, thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho nhân dân 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình và vùng Tây Bắc. Ngoài 3 mục tiêu trên. Theo yêu cầu của Chính phủ, phương án xây dựng Thuỷ điện Sơn La cần phải đảm bảo được 5 yêu cầu sau: Thứ nhất, đảm bảo an toàn cho công trình, vùng hạ du và thủ đô Hà Nội. Thứ hai, đạt hiệu quả kinh tế tổng hợp. Ba là, đảm bảo quốc phòng an ninh vùng Tây Bắc. Bốn là, giảm thiểu tác động xấu tới môi trường sinh thái, đa dạng sinh học. Năm là, bảo vệ và phát huy các di sản dân tộc [37;tr7]. Để tiến hành các mục tiêu cơ bản trên, việc lựa chọn phương án nào hiệu quả nhất là một vấn đề rất quan trọng. Công ty Khảo sát thiết kế điện 1, đơn vị trực tiếp khảo sát việc thiết kế xây dựng thuỷ điện Sơn La đã xây dựng các phương án tổ hợp hợp công trình bậc thang trên dòng chính và các phụ lưu của sông Đà. Từ năm 1978 - 1996, hàng loạt các phương án được đưa ra, mỗi giai đoạn lại nổi lên những phương án ưu tiên. Đến tháng 8/1996, hai phương án được đưa ra là Sơn La cao và Sơn La thấp. Đây là 2 phương án tổ hợp công trình bậc thang thuỷ điện được lựa chọn. Với mỗi phương án, đều có những mặt mạnh và mặt yếu. Khi so sánh các phương án bậc thang, các chuyên gia đã tiến hành xem xét một cách toàn diện hiệu ích cả về các mặt: phát điện, phòng lũ, cấp nước hạ du của tất cả các hồ chứa và nhà máy thuỷ điện trong hệ thống. Đồng thời, lựa chọn phương án nào sẽ quyết định quy mô của dự án thuỷ điện Sơn La. Đối với phương án xây dựng thuỷ điện Sơn La cao, khả năng cung cấp điện là tối ưu hơn nhưng dự án xây dựng các nhà máy thuỷ điện tại nấc thang thứ 3 sông Đà và các chi lưu lại không hiệu quả. Việc hình thành hồ chứa thuỷ điên Sơn La cao sẽ làm ngập một diện tích rất lớn đất đai, cao hơn phương án Sơn La thấp 16.393 ha (trong đó có 4.903 ha đất canh tác). Số hộ phải di chuyển cũng được tính toán kỹ lưỡng. Theo đó, mức chênh lệch giữa 16 phương án Sơn La cao với Sơn La thấp là 4.386 hộ với 26.500 nhân khẩu. Khai thác năng lượng, khả năng điều tiết nước không đạt được mực tối đa như phương án Sơn La cao song xét về yêu cầu đảm bảo sự phát triển của Tây Bắc và cả nước, đặc biệt là yêu cầu về đảm bảo an ninh quốc phòng thì phương án Sơn La thấp có những ưu điểm hơn cả. Đặc biệt nhất đó là hạn chế tối đa số dân phải di dời, đảm bảo an toàn cho đập Hoà Bình, theo đúng 3 mục tiêu, 5 yêu cầu Quốc hội đã đặt ra. [67; tr11-13] Ngày 16/12/2002, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về phương án xây dựng thuỷ điện Sơn La (phương án Sơn La thấp). Để đảm bảo tính an toàn tuyệt đối cho công trình, chính phủ đã quyết định xây dựng thuỷ điện Sơn La với mực nước dâng không vượt quá 215m. 2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác di dân tái định cư Nhà máy thuỷ điện Sơn La Việc xây dựng công trình thuỷ điện Sơn La đặt ra nhiệm vụ to lớn cho tỉnh Sơn La nói chung và các huyện trong địa bàn ảnh hưởng bởi thuỷ điện nói riêng những nhiệm vụ lịch sử to lớn, đầy khó khăn, thách thức là phải tổ chức tuyên truyền, vận động và di chuyển các hộ dân ra khỏi vùng ảnh hưởng bởi công trình này. Nếu xem xét theo vùng, địa bàn tỉnh, huyện, có thể thấy, Mường La là một trong những huyện bị tác động, ảnh hưởng nặng nhất, có diện di dân, tái định cư lớn nhất trong tỉnh. Công tác di dân tái định cư đã được Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ quan tâm đặc biệt và chỉ đạo kiên quyết đảm bảo việc di dân diễn ra khẩn trương, nhanh gọn trên cơ sở tự nguyện và phấn đấu mục tiêu ổn định đời sống cho đồng bào. Ngay khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 44/2001/QH10 ngày 29/6/2001 và Nghị quyết số 13/2002/QH11 ngày 16/12/2002 về chủ trương đầu tư và quy mô dự án Thuỷ điện Sơn La, Bộ Chính trị đã ban hành Thông báo kết luận số 84-TB/TW ngày 20/10/2002 về dự án thuỷ điện Sơn La và 17 yêu cầu: “Tổ chức làm thí điểm các mô hình tái định cư; tạo điều kiện để đồng bào tái định cư sớm ổn định được chỗ ở, cuộc sống, sản xuất, tiến lên thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập”[38; tr1]. Theo quan điểm này, một là bố trí di dân tái định cư phải gắn với cuộc điều chỉnh dân cư, phân bố lại sản xuất và lao động, chuyển đổi cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế nhằm khai thác được lợi thế, tiềm năng của từng vùng, xây dựng kinh tế gắn với đảm bảo an ninh quốc phòng. Hai là, di dân nội tỉnh là chính, nếu không bố trí được mới ra ngoài tỉnh. Đời sống nhân dân phải di chuyển đến nơi ở mới và nhân dân sở tại nơi đón dân phải có cuộc sống tốt hơn so với trước và cũng được hưởng lợi từ đầu tư phát triển sản xuất và xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng của dự án. Ba là, tổ chức cho dân di chuyển tập trung đến điểm tái định cư từ 50 hộ trở lên để xây dựng bản mới thực sự theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Bốn là, cùng với sự hỗ trợ của nhà nước, phát huy cao độ tinh thần sáng tạo, tự lực tự cường, thực hiện phương châm “nhân dân và nhà nước cùng hợp tác để xây dựng khu tái định cư” chống tư tưởng trông chờ, ỉ lại và sự hỗ trợ từ chính phủ. Năm là, về quy hoạch tái định cư, phải do địa phương chủ động là chính, trung ương hỗ trợ. Tiến độ quy hoạch di dân và đầu tư xây dựng tái định cư, di dân khỏi vùng ngập phải nhanh hơn tiến độ xây dựng công trình, chủ động di dân khỏi vùng ngập theo hình thức “một chốn đôi quê” không chờ nước dâng mới di chuyển dân. Về lựa chọn hình thức di dân tái định cư, từ kinh nghiệm đúc rút trong các công trình thuỷ điện lớn, trong công trình này, hình thức di dân tập trung đến vùng định cư mới là chủ yếu, di chuyển lên trên cốt nước ngập và bố trí xen ghép nhỏ lẻ phân tán được tính toán hợp lý đảm bảo bền vững, lâu dài. 18 Vấn đề di dân tái định cư được coi là yếu tố then chốt, quyết định thành bại của công trình thuỷ điện, phải đảm bảo mục tiêu “Tạo điều kiện để đồng bào tái định cư sớm ổn định chỗ ở và đời sống, trên cơ sở khai thác tiềm năng về tài nguyên sức lao động, từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, cuộc sống vật chất và tinh thần tốt hơn nơi ở cũ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái”[69; tr1] Cũng theo nội dung Quyết định này, Chính phủ yêu cầu có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, ban ngành, đoàn thể từ Trung ương tới địa phương. Tổ chức thực hiện theo phương châm: Trung ương quy định và hướng dẫn cơ chế chính sách chung, các tỉnh cụ thể hoá và tổ chức triển khai thực hiện. Tập trung tái định cư trong tỉnh là chính. Linh hoạt trong việc thực hiện các hình thức tái định cư phù hợp với từng địa phương. Các địa phương thực hiện nhiệm vụ di dân tái định cư ưu tiên nguồn vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án đầu tư khác trên địa bàn với dự án di dân, tái định cư để xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng tại các vùng tái định cư. Dự án thuỷ điện Sơn La bao gồm 3 dự án thành phần là: Dự án xây dựng công trình thuỷ điện Sơn La do Tổng công ty Điện lực Việt Nam (nay là Tập đoàn điện lực Việt Nam) là chủ đầu tư; Dự án di dân tái định cư theo địa bàn quản lý do uỷ ban nhân dân 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu và Điện Biên làm chủ đầu tư và dự án công trình giao thông tránh ngập do Bộ Giao thông vận tải làm chủ đầu tư. Như vậy, dự án di dân, tái định cư theo địa bàn quản lý là dự án cần phải được triển khai sớm nhất trong số 3 dự án thành phần nhằm giải phóng cho mặt bằng công trình. Do quy mô to lớn và tính chất đặc thù của công trình, công tác di dân - tái định cư cho đồng bào đến và ổn định sản xuất tại nơi ở mới là chương trình đặc biệt quan trọng của dự án thuỷ điện 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất