Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở...

Tài liệu Quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở huyện long thành tỉnh đồng nai thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa

.PDF
155
233
110

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ___________________________ Mai Thị Chuyên Chuyên ngành : Địa lý học Mã số : 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS ĐẶNG VĂN PHAN Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các Thầy, Cô giáo trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Đặng Văn Phan – người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Qua đây, tác giả cũng trân trọng gửi lời cảm ơn đến các cơ quan: UBND huyện Long Thành, Phòng Thống kê huyện Long Thành, Phòng Tài nguyên – Môi trường huyện Long Thành, Phòng Kinh tế huyện Long Thành, BGH trường THPT Long Thành, Bưu điện huyện Long Thành đã giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu và thông tin có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Cuối cùng, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. TP. Hồ Chí Minh, ngày … tháng …. năm 2009 Tác giả luận văn Mai Thị Chuyên DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT CN : Công nghiệp CNH : Công nghiệp hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội DT : Diện tích HĐH : Hiện đại hóa KT : Kinh tế NN : Nông nghiệp NS : Năng suất SL : Sản lượng TB : Trung bình TCLTNN : Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp TCSX : Tổ chức sản xuất THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông TTCN : Trung tâm công nghiệp XH : Xã hội MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đất nước ta đang trên con đường hội nhập với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) sôi nổi, có sức lan truyền tới mọi địa phương. Quá trình này đã làm thay đổi rất lớn tới kinh tế, xã hội, tới đời sống của người dân. Bên cạnh những đóng góp tích cực, quá trình này cũng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mà trong thực tế khó tìm được cách giải quyết hợp tình, hợp lí. Long Thành – một trong những huyện thuộc tỉnh Đồng Nai – đã, đang và sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn từ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vị trí đặc biệt quan trọng trên tuyến quốc lộ 51 nối liền các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, lại có thể thông với quốc lộ 1A nên quá trình này càng phải có tốc độ phát triển nhanh hơn nữa để kịp thời đáp ứng những nhu cầu của xã hội. Vì vậy bên cạnh những thành tựu to lớn mà quá trình này đem lại thì cũng có nhiều vấn đề phức tạp đã nảy sinh. Là người sống tại địa phương, dưới góc độ khoa học Địa lí, chúng tôi muốn tìm hiểu quá trình chuyển đổi kinh tế từ một huyện sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở huyện Long Thành trong thời kì CNH – HĐH nhằm tìm ra những ảnh hưởng của nó đến kinh tế, xã hội, môi trường và đời sống người dân địa phương. Nhận thấy đây là vấn đề còn mới, tôi mạnh dạn chọn nó làm đề tài nghiên cứu của mình với tên: Quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai thời kì CNH – HĐH. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài được xác định là: - Nghiên cứu quá trình chuyển đổi kinh tế từ huyện sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai. - Kiến nghị những phương hướng và biện pháp giải quyết những vấn đề nảy sinh khi chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở huyện Long Thành trên cơ sở khoa học và lâu dài. Dựa trên mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài được xác định là: - Hệ thống hóa các vấn đề có liên quan đến quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, tìm hiểu các khái niệm và những tác động của quá trình này đến kinh tế, xã hội, đặc biệt là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm chuyển đổi quá trình sản xuất của các địa phương. - Điều tra, khảo sát các số liệu cần thiết. - Phân tích tác động của quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp đến một số mặt kinh tế, xã hội, môi trường và đời sống người dân trên địa bàn huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai: những thành tựu đạt được và những hạn chế cần khắc phục. - Tham khảo và đưa ra những định hướng phát triển của huyện trong tương lai và những biện pháp thực hiện khả thi. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng của đề tài được xác định là quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai trong thời kì CNH – HĐH và những ảnh hưởng của nó đến kinh tế - xã hội dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: tập trung nghiên cứu quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai trong thời kì CNH – HĐH và những ảnh hưởng của nó. Về không gian: nghiên cứu trên địa bàn huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai Về thời gian: chủ yếu tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ 1995 cho đến nay (năm 1994 huyện Nhơn Trạch mới tách ra khỏi Long Thành). 4. Hệ thống quan điểm và phương pháp nghiên cứu 4.1. Hệ thống quan điểm 4.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Đây là quan điểm cơ bản, truyền thống và được xem là đặc trưng của Địa lý học, đó là: khi xem xét các sự vật hiện tượng địa lý phải đặt chúng trong mối quan hệ về không gian. Quan điểm này luôn chiếm được sự đồng thuận bởi trong thực tế các sự vật và hiện tượng địa lý luôn luôn có sự phân hóa về không gian, làm cho chúng có sự khác biệt giữa nơi này với nơi khác. Trong nghiên cứu về quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp trong thời kì CNH – HĐH, chúng tôi luôn đặt Long Thành trong mối quan hệ không gian với các huyện khác trong tỉnh và trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để xem xét và đánh giá. 4.1.2. Quan điểm hệ thống Quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp của một địa phương không phải là một quá trình đơn lẻ, độc lập mà sẽ gắn kết với các quá trình khác. Xét trong mối quan hệ nhân quả thì đây vừa là kết quả của những vấn đề kinh tế xã hội này, vừa là nguyên nhân của những vấn đề kinh tế xã hội khác. Vì thế khi nghiên cứu quá trình này tại huyện Long Thành, chúng tôi luôn đặt quá trình này trong quan điểm hệ thống để nghiên cứu nhằm có những phân tích mang tính khoa học và đảm bảo tính chất dây chuyền của các đối tượng. 4.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh Các sự vật hiện tượng trong tự nhiên không chỉ biến đổi về mặt không gian mà còn có sự phát triển theo thời gian. Việc nghiên cứu quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai được xem xét kĩ lưỡng ttrong mối liên hệ quá khứ - hiện tại – tương lai để làm rõ hơn bản chất của vấn đề theo thời gian và dự báo được hướng phát triển của nó, bảo đảm tính logic, khoa học và chính xác. 4.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững Quá trình phát triển của con người luôn chịu ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Đồng thời con người cũng có những tác động làm biến đổi môi trường xung quanh. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của con người trong quá trình phát triển của mình đến môi trường xung quanh cần phải quán triệt quan điểm sinh thái và phát triển bền vững khi nghiên cứu vấn đề. Trong việc nghiên cứu quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp tại huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai cũng phải xem xét đến ảnh hưởng của nó đến môi trường xung quanh và đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội, tài nguyên môi trưvờng à phát triển bền vững. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã thực hiện các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp sưu tầm và xử lí tài liệu: quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài có nhiều nguồn tư liệu khác nhau nên cần có một quá trình sưu tầm và xử lí số liệu sao cho có hiệu quả và đáng tin cậy. - Phương pháp điều tra, đánh giá: do địa phương nghiên cứu giới hạn trong một huyện nên những tài liệu tìm được chưa đủ để có thể hoàn thành đề tài. Vì vậy, việc điều tra đánh giá để tìm ra những số liệu mới là rất quan trọng để có thể hoàn thành được đề tài. - Phương pháp thực địa: là phương pháp cần thiết để tăng thêm độ tin cậy và tính khách quan cho đề tài. - Phương pháp bản đồ: phương pháp này tạo một cái nhìn tổng quát và khách quan, đặc biệt là đối với những đối tượng không thể kiểm soát hết bằng mắt thường trong thực tế, đồng thời tìm ra mối quan hệ giữa các đối tượng với nhau để có những hướng giải quyết phù hợp. - Phương pháp chuyên gia: trong quá trình thực hiện đề tài, để đảm bảo tính khoa học và đưa ra được những dự báo chính xác, hợp lí... cần phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia, những nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực qui hoạch, kinh tế, môi trường... 5. Ý nghĩa của đề tài Cho đến hiện nay, chưa có đề tài nghiên cứu nào tại địa phương nghiên cứu về vấn đề này. Do vậy, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cung cấp một cách nhìn khách quan những vấn đề đang tồn tại và buộc các nhà quản lí phải có những thay đổi để giải quyết những vấn đề đó trong quá trình chuyển Long Thành thành một huyện sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài cũng giúp cho những địa phương khác có được những bài học kinh nghiệm để có thể thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mình tốt hơn. 6. Lịch sử nghiên cứu đề tài Quá trình CNH ở Việt Nam diễn ra muộn hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Vì vậy Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc học hỏi kinh nghiệm từ các nước đi trước để có được những kết quả nhanh chóng và hiệu quả như mong muốn. Việc gắn CNH với HĐH là một sự sáng tạo trong chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, do đó nó cũng nhận được nhiều sự quan tâm từ phía các nhà lãnh đạo, nhà khoa học và nhà kinh tế... Ở cấp vĩ mô và trong nhiều ngành kinh tế, đã có rất nhiều sách và công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau viết về vấn đề CNH – HĐH và những ảnh hưởng của nó như: - Trong giai đoạn đầu thực hiện CNH – HĐH, tác giả Đặng Kim Sơn đã cho xuất bản cuốn sách có tựa đề CNH từ nông nghiệp – lí luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam (2001) đã đặt nền móng cho việc thực hiện CNH – HĐH từ nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. - Năm 2002, dưới sự chủ biên của GS.TS. Nguyễn Trong Chuẩn; PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa; PGS. TS. Đặng Hữu Toàn cuốn sách có tựa đề CNH, HĐH ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng quan, toàn diện về quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam trong những năm đầu của thế kỉ XXI. - Năm 2004, đóng góp vào những nghiên cứu về quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam để có được kết quả toàn diện và sâu sắc hơn, nhóm tác giả Đào Thế Tuấn, Đào Thế Anh và Nguyễn Vũ Quang đã cho xuất bản cuốn sách Cơ sở khoa học của vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH – HĐH ở Việt Nam trong tương lai. - Để cụ thể hóa những chỉ tiêu trong quá trình thực hiện CNH – HĐH đất nước, tác giả Vũ Năng Dũng cũng đã cho ra đời cuốn sách được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cấp phép có tựa đề Nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí, bước đi, cơ chế chính sách trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn (năm 2004). - Năm 2006, nhìn lại chặng đường 20 năm đổi mới, tác giả Đỗ Quốc Sam đã viết Một số vấn đề CNH, HĐH sau 20 năm đổi mới với những đánh giá hết sức khách quan về những thành tựu đạt được và những tồn tại trong quá trình thực hiện CNH – HĐH đất nước. - Với những thay đổi to lớn của đất nước, các khía cạnh của quá trình CNH – HĐH cũng như ảnh hưởng của nó đến các ngành kinh tế cũng được nghiên cứu kĩ hơn trong những công trình nghiên cứu sau: + Đề tài Xác định nội dung và phương thức CNH – HĐH trong thương mại ở nước ta thời kì tới 2010 (năm 2003) của tác giả Vũ Tiến Dương và đề tài Nghiên cứu cán cân thương mại trong sự nghiệp CNH – HĐH ở Việt Nam (năm 2005) của tác giả Nguyễn Văn Lịch thuộc Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu rất kĩ những vấn đề trong ngành thương mại ở nước ta thời kì CNH – HĐH. + Nói đến một khía cạnh khác, tác giả Nguyễn Thành Nghị cũng có viết Nghiên cứu và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình CNH – HĐH đất nước (năm 2005). Bên cạnh đó, tác giả Đặng Hữu cũng có viết Xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức và tác động của nó đến sự phát triển và lựa chọn chiến lược CNH – HĐH ở Việt Nam (năm 2005), giúp chúng ta có một cách nhìn mới về quá trình CNH – HĐH. + Quan tâm đến việc phát triển kinh tế của lãnh thổ trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, năm 2006 tác giả Nguyễn Xuân Thu đã cho ra đời cuốn sách có tựa đề Phát triển kinh tế vùng trong quá trình CNH – HĐH. + Việc thay đổi cơ cấu kinh tế cũng là một vấn đề đáng quan tâm trong quá trình CNH – HĐH. Do đó Viện kinh tế Việt Nam đã cho xuất bản cuốn sách Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình CNH – HĐH năm 2006. Nhìn chung, có rất nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu đến vấn đề CNH – HĐH nhưng đa số đều ở tầm vĩ mô chứ chưa nghiên cứu nó trong một phạm vi lãnh thổ nhỏ (một huyện). Với đề tài Quá trình chuyển đổi kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai thì vấn đề CNH – HĐH với những ảnh hưởng của nó lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ vi mô và cũng là đề tài đầu tiên nghiên cứu về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Long Thành trong thời kì CNH – HĐH. Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa 1.1.1. Công nghiệp hóa 1.1.1.1. Khái niệm Trong quá trình phát triển của tất cả các nước trên thế giới, công nghiệp hóa (CNH) được xem là xu thế tất yếu khách quan. Vậy công nghiệp hóa là gì? Có nhiều cách hiểu khác nhau về CNH: [9], [21] - Theo B. Mazlish: “CNH là một quá trình được đánh dấu bằng một sự chuyển động của một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một nền kinh tế được gọi là công nghiệp”. - Một tác giả khác, Ladriere lại cho rằng: “CNH là một quá trình mà các xã hội ngày nay chuyển từ một kiểu kinh tế chủ yếu dựa trên nông nghiệp với các đặc điểm năng suất thấp và tăng trưởng cực kì thấp hay bằng 0 sang một kiểu kinh tế về cơ bản dựa trên công nghiệp với các đặc điểm năng suất cao và tăng trưởng tương đối cao”. - Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) lại đưa ra một khái niệm về CNH có chiều sâu hơn như sau: “CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kĩ thuật hiện đại. Đặc điểm cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng bảo đảm cho toàn nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội”. [21] Sự khác biệt của định nghĩa này là đã đặt CNH trong bối cảnh chung của phát triển kinh tế với nội dung cơ bản là phát triển cơ cấu kinh tế (trong đó công nghiệp chế tạo đóng vai trò quan trọng) trên cơ sở công nghiệp hiện đại nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, đồng thời hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. - Bên cạnh đó, Encyclpelu Francies năm 1973 cũng đưa ra một định nghĩa tương đối ngắn gọn: “CNH là hoạt động mở rộng tiến bộ kĩ thuật với sự lùi dần tính thủ công trong sản xuất và công nghiệp hàng hóa và dịch vụ”. [27] Tiếp thu các quan niệm về CNH của các nước, các nhà nghiên cứu và các nhà kinh tế ở Việt Nam lại có những quan niệm về CNH riêng cho mình. - Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 10: “công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, quản lý xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính sang dựa vào lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao”. [4] Dựa trên định nghĩa này, Đại hội cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp với tỉ trọng trong GDP của nông nghiệp chiếm 16-17%, công nghiệp khoảng 40-41%, dịch vụ chiếm 42-43%, tỷ trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động công nghiệp và dịch vụ là 50%, nông nghiệp là 50%. 1.1.1.2. Đặc điểm của quá trình CNH Dù trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về CNH, nhưng tựu chung lại tất cả các khái niệm CNH đều toát lên 3 đặc điểm của quá trình CNH: [21] - CNH là một sự biến đổi cơ cấu của nền kinh tế (theo cách phổ biến hiện nay là chuyển dịch cơ cấu kinh tế), một sự chuyển dịch từ kiểu kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp sang kiểu kinh tế được gọi là công nghiệp và sự biến đổi trong bản thân ngành công nghiệp, trước hết là trong công nghiệp chế tạo – một bộ phận đặc trưng nhất của công nghiệp. Đây là đặc điểm có tính chất bao trùm của quá trình CNH. Một mặt là sự giảm phần của khu vực nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế, sau đó là sự giảm tương đối của khu vực công nghiệp do sự gia tăng của khu vực dịch vụ nhờ chính kết quả phát triển của khu vực công nghiệp. Mặt khác, là sự thay đổi trong nội bộ khu vực công nghiệp chế tạo. Chính sự chuyển dịch cơ cấu sẽ là nguyên nhân của sự tăng trưởng kinh tế. - CNH đặc trưng với kiểu kinh tế công nghiệp có năng suất cao, tăng trưởng nhanh nhờ sự ra đời của những công nghệ mới và việc tích cực áp dụng công nghệ đó. Công nghệ là nhân tố đặc biệt quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu. Phát triển công nghệ là một nội dung quan trọng và không thể tách rời của CNH. Trong lịch sử CNH thế giới có 3 con đường phát triển công nghệ khác nhau: + Phát triển công nghệ chủ yếu lấy nghiên cứu cơ bản làm cơ sở. + Phát triển công nghệ bắt đầu bằng sử dụng công nghệ nhập từ nước ngoài. + Tự lực về công nghệ trên cơ sở coi trọng nghiên cứu cơ bản kết hợp với việc nhập công nghệ. Đáng chú nhất đối với các nước đang phát triển là mô hình về chính sách công nghệ trong công nghiệp hóa của Hàn Quốc: nước này đã chọn con đường thứ hai sử dụng công nghệ nhập, truyền bá, đồng hóa, thích nghi và cải tiến công nghệ nhập kết hợp với sáng tạo công nghệ mới và đã thành công, đẩy nhanh quá trình CNH của nước mình. Quá trình tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc trong suốt 25 năm (1967 – 1991) gắn chặt với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, với sự giảm tương đối của tỉ trọng nông nghiệp và tăng tỉ trọng công nghiệp trong GDP với bước đi từ công nghiệp nhẹ, qua công nghiệp nặng tới công nghiệp điện tử cao cấp. - CNH phải được đặt trong bối cảnh chung của phát triển kinh tế và đó là cách đi đạt được tăng trưởng nhanh, thúc đẩy sự phát triển. Dù trong thực tế lịch sử phát triển CNH có những hậu quả tiêu cực xảy ra về mặt xã hội, môi trường và văn hóa, CNH vẫn luôn luôn là một giai đoạn phát triển mà các quốc gia từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là nông nghiệp muốn vươn lên nhanh chóng đến một trình độ phát triển cao đều nhất thiết phải trải qua. CNH chắc chắn là nguyên nhân của quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, phát triển kinh tế thực chất được coi ngang với CNH. 1.1.2. Hiện đại hóa Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về hiện đại hóa (HĐH). Đây là một cụm từ có từ gốc là một tính từ: hiện đại. Từ này có nhiều cách giải thích khác nhau theo nhiều lĩnh vực về sử học, về văn học nghệ thuật, về kiến trúc… và rất ít khi trùng khớp với nhau. Theo cách dùng thông thường, hiện đại có nghĩa là “thuộc thời đại ngày nay” (Từ điển Tiếng Việt – 1996, Hoàng Phê chủ biên), đối lập với truyền thống là thói quen nhiều đời đã qua, tương tự như mới với cũ, tiên tiến với lạc hậu. Theo nghĩa này, HĐH là quá trình biến đổi từ tính chất truyền thống cũ sang trình độ tiên tiến, hiện đại. HĐH chỉ có tính so sánh về thời gian trước sau, còn thời gian khởi đầu và thời gian kết thúc lại xác định tùy theo ngữ cảnh cụ thể. [3] Theo ý nghĩa về kinh tế, HĐH được giải thích là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, kéo dài từ thế kỉ 17 – 18 cho đến ngày nay vẫn còn chưa kết thúc. HĐH về kinh tế vừa là sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác định về thời gian (có thời gian khởi đầu và thời gian kết thúc từng giai đoạn). Giai đoạn đầu của quá trình HĐH được coi là trùng với thời kì CNH, nên nhiều người cho rằng CNH là cốt lõi của HĐH trong giai đoạn này. Nếu tính đến định nghĩa CNH theo nghĩa rộng , có xét đến các mặt xã hội, văn minh, thì nội hàm của CNH và HĐH giai đoạn đầu cũng không khác nhau bao nhiêu. Sau giai đoạn đầu, HĐH sẽ chuyển sang giai đoạn hậu CNH, giai đoạn kinh tế tri thức (có thể tạm gọi là giai đoạn tri thức hóa). Có người còn nói đến một giai đoạn hậu hiện đại. Giữa HĐH và CNH có một mối quan hệ ràng buộc không dễ tách bạch ra được. [4] Ở mỗi trình độ phát triển khác nhau, HĐH mang những đặc trưng khác nhau. Đối với các nước phát triển, HĐH là quá trình chuyển dịch từ xã hội kinh tế công nghiệp sang xã hội kinh tế tri thức. Đối với các nước đang phát triển, HĐH là quá trình đẩy nhanh phát triển để đuổi kịp các nước phát triển, trước mắt là giai đoạn CNH. 1.1.3. Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam 1.1.3.1. Hình thành đường lối CNH – HĐH Chính sách CNH ở nước ta đã được nêu ra từ sau khi đổi mới, nó là một quá trình tự nhiên và không thể tránh khỏi trên con đường phát triển của Việt Nam cũng như của các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII của Đảng (1/1994) vấn đề công nghiệp hóa gắn kết với HĐH mới chính thức được đề xuất, khi nêu lên những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kì phát triển mới, thời kì đẩy tới một bước CNH, HĐH đất nước, kèm theo là 7 nhiệm vụ kinh tế - xã hội cho thời gian còn lại của nhiệm kì Đại hội VII. [4] Tiếp theo Hội nghị giữa nhiệm kì, Nghị quyết Hội nghị TW 7 khóa VII (7/1994) đã cụ thể hóa bước đầu ý tưởng CNH, HĐH nêu trên, đi đến hình thành một đường lối CNH, HĐH cho đất nước với một định nghĩa về CNH, HĐH cụ thể; đưa ra mục tiêu và quan điểm về CNH, HĐH cũng như các chủ trương phát triển công nghiệp và khoa học, công nghệ cùng các chính sách và biện pháp CNH, HĐH. CNH, HĐH được hiểu là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. [3] Mục tiêu và các quan điểm CNH – HĐH đã được chuẩn xác hóa trong văn kiện Đại hội VIII (1996). Đại hội VIII đã khẳng định những yếu tố cơ bản của đường lối CNH – HĐH của Việt Nam. Trong khi xác định mục tiêu thời gian, từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, và nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh CNH – HĐH (khác năm 1994 là đẩy nhanh một bước CNH). Đại hội VIII củng đã tái khẳng định: Mục tiêu của CNH – HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. [4] Bên cạnh đó, Đại hội cũng phác thảo một cách định tính những mục tiêu cụ thể về cơ cấu kinh tế, khoa học công nghệ, quan hệ sản xuất, đời sống vật chất và văn hóa… với một chỉ tiêu định lượng duy nhất cho năm 2020 là GDP tăng từ 8 đến 10 lần so với 1990. Sáu quan điểm về CNH – HĐH cũng đã được thông qua: - Độc lập tự chủ đi dôi với hợp tác quốc tế. - CNH – HĐH là sự nghiệp của toàn dân. - Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho phát triển nhanh và bền vững. - Khoa học và công nghệ là động lực của CNH – HĐH. - Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn phát triển. - Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh. Đến Đại hội IX, đường lối CNH – HĐH xây dựng từ Đại hội VIII đã được cụ thể hóa trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm từ 2010 đến 2020, trong đó có bao hàm phần chiến lược CNH – HĐH giai đoạn 2001 – 2010. Chiến lược này đề ra nhiệm vụ tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội cũng đã bổ sung, hoàn thiện nhiều quan điểm về CNH – HĐH. Văn kiện đại hội yêu cầu tìm ra con đường rút ngắn thời gian, nhấn mạnh đến trình độ công nghệ tiên tiến, từng bước phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện CNH gắn với HĐH ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Trong bối cảnh trong nước và quốc tế mới, Đại hội đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển vừa nhanh vừa bền vững; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ nhưng chủ động hội nhập quốc tế; đề cao vai trò của giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là nền tảng và động lực của CNH – HĐH; đẩy nhanh CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ lớn và cấp thiết của quá trình CNH – HĐH. Như vậy, quá trình hình thành đường lối CNH – HĐH có thể được tóm tắt như sau: - Năm 1994: Hội nghị giữa nhiệm kì khóa VII đã khởi động lại quá trình CNH với ý tưởng CNH – HĐH gắn kết với nhau. - Năm 1996: Đại hội VIII đã hình thành đường lối CNH – HĐH thời kì mới. - Năm 2001: Đại hội IX đã hoàn thiện đường lối CNH – HĐH và xây dựng bước đầu chiến lược CNH – HĐH. 1.1.3.2. Đặc điểm chủ yếu của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam CNH, HĐH ở Việt Nam có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, qui mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù này thể hiện ở một số điểm sau: - Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biến đổi về chất, … của các tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính chất bao trùm rất cao, theo đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước ta trở thành một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong CNH rồi mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH như một quá trình thống nhất. Về đại thể, riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: một là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo nền tảng vật chất – kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; và hai là quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập [4]. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới. - Quá trình CNH, HĐH ở nước ta có thể được rút ngắn. Việc cần được rút ngắn ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng rút ngắn quá trình CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: một là đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để đuổi kịp); và hai là lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể thống nhất với nhau và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta. - Quá trình CNH, HĐH ở nước ta có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH rút ngắn ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Từ những phân tích trên, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới như sau: + Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. + Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. + Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có. + Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ. + Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. 1.1.3.3. Mục tiêu CNH, HĐH ở Việt Nam a. Chặng đường đến năm 2010 Tính đến nay, chúng ta đã thực hiện được gần hết chặng đường của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010. Những kết quả đạt được cho đến nay tạo điều kiện và là tiền đề quan trọng cho chặng đường CNH, HĐH đến năm 2020. Trong những năm tới, nước ta tập trung tạo chuyển biến cơ bản về năng lực nội sinh về khoa học công nghệ và công nghiệp của đất nước, tiếp tục nâng cao vị thế trong hội nhập và chủ trương mở rộng hội nhập quốc tế, định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp. Cụ thể hơn là phải hoàn thành các mục tiêu chủ yếu sau: - Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao tích lũy trong nước. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo đó cơ cấu ngành và lĩnh vực tạo được hiệu quả cao và bền vững, cơ cấu kinh tế theo vùng tạo được sự hài hòa giữa vùng động lực phát triển và các vùng khác, các vùng khó khăn có thể tự lực phát triển và cơ bản hết đói nghèo. Trong nền kinh tế hình thành một số ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; khoa học và công nghệ có cơ sở tốt để chủ động tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài và tự tạo được đáng kể công nghệ tiên tiến của nước ta; giáo dục và đào tạo phát triển hình thành đội ngũ lao động và quản lí có trình độ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế ở mức cao hơn. - Định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu, thể chế đồng bộ, hoàn chỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực ở một vị thế tốt hơn, cân bằng lợi ích và mở rộng hội nhập ngoài khu vực. Hoàn chỉnh đồng bộ các kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển của chặng đường tiếp theo. - Tạo sự chuyển biến rõ rệt về đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân: no đủ, lành mạnh, yên vui, có nhiều yếu tố văn minh, hiện đại; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức trung bình cao trong so sánh quốc tế. Giải quyết tốt hơn, toàn diện hơn các vấn đề xã hội; cơ bản xóa nghèo, tạo nhiều việc làm, tạo điều kiện để đi tới thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và khoảng cách về mức sống giữa các tầng lớp dân cư. Tựu trung lại, kết thúc chặng đường 10 năm, quá trình CNH, HĐH đất nước đã định hình nên cơ sở vật chất, kĩ thuật, kinh tế để nước ta đi nhanh hơn, mạnh hơn, vững chắc hơn trong chặng đường tiếp theo (2010-2020). b. Chặng đường từ 2010-2020 Trong chặng đường này, nước ta đã hội đủ nhiều điều kiện mang tính tiền đề về kết cấu hạ tầng, khung thể chế, nguồn nhân lực, năng lực nội sinh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2020. Cụ thể đó là: - Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Đẩy mạnh chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH có hiệu quả và bền vững. Tỉ trọng nông nghiệp trong GDP và tỉ trọng lao động trong nông nghiệp giảm; ở nông thôn có nền nông nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ bản hiện đại, phát triển đa dạng các ngành công nghiệp và dịch vụ, thực hiện sự chuyển biến căn bản bộ mặt nông thôn Việt Nam phù hợp với một xã hội công nghiệp. Công nghiệp có đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh ngang bằng với các nước trong khu vực, có chỗ đứng vứng chắc trên thị trường quốc tế. Khu vực dịch vụ phát triển đa dạng, trong đó dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông phát triển hiện đại, tiếp cận trình độ quốc tế. - Hình thành hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tương hợp với trình độ quốc tế. Mở rộng hội nhập quốc tế ở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, tiền tệ, lao động, công nghệ, thông tin. Tham gia có hiệu quả vào WTO và các tổ chức quốc tế khác, về kinh tế có vị thế của một nước có trình độ phát triển trung bình trên thế giới.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan