Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình chuyển biến của cách mạng trung quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu ...

Tài liệu Quá trình chuyển biến của cách mạng trung quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới

.PDF
62
231
58

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÙI THỊ PHƯỢNG QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN CỦA CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC TỪ HÌNH THỨC DÂN CHỦ TƯ SẢN KIỂU CŨ SANG DÂN CHỦ TƯ SẢN KIỂU MỚI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÙI THỊ PHƯỢNG QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN CỦA CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC TỪ HÌNH THỨC DÂN CHỦ TƯ SẢN KIỂU CŨ SANG DÂN CHỦ TƯ SẢN KIỂU MỚI Chuyên ngành: Lịch sử thế giới KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn: Ths. Đặng Thị Hồng Liên SƠN LA, NĂM 2013 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô giáo – Thạc sĩ Đặng Thị Hồng Liên đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc, các bạn sinh viên trong tập thể Lớp K50 ĐHSP Lịch sử đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian thực hiện khóa luận này. Khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn chỉnh hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn!. Sơn La, tháng 5 năm 2013 Người thực hiện Bùi Thị Phượng MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 2 3. Đối tượng nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 4 3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu và đóng góp của đề tài ............................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu................................................. 4 4.1. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 4 4.2. Nguồn tài liệu ............................................................................................. 5 5. Kết cấu đề tài ................................................................................................ 5 CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN TRUNG QUỐC DƯỚI HÌNH THỨC CÁCH MẠNG DÂN CHỦ TƯ SẢN KIỂU CŨ .......................................................................................................... 6 1.1. Khái quát hoàn cảnh lịch sử Trung Quốc giữa thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ..................................................................................................................... 6 1.1.1. Sự suy yếu của chế độ phong kiến Trung Quốc .................................... 6 1.1.2. Quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây vào Trung Quốc .................................................................................................................. 8 1.1.3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc chống phong kiến, thực dân .......................................................................................................... 14 1.2. Cách mạng Tân Hợi năm 1911 – Cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ ...... 20 1.2.1. Hoàn cảnh nổ ra cuộc cách mạng ........................................................ 20 1.2.2. Diễn biến của cuộc cách mạng ............................................................. 22 1.2.3. Kết quả và ý nghĩa của cuộc các mạng ................................................ 24 CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN CỦA CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC TỪ HÌNH THỨC DÂN CHỦ TƯ SẢN KIỂU CŨ SANG DÂN CHỦ TƯ SẢN KIỂU MỚI ...................................................................................... 27 2.1. Những cơ sở cho sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới ......................... 27 2.1.1. Sự thất bại của các phong trào yêu nước của nhân dân Trung Quốc dưới hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ .......................................................... 27 2.1.2. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại và sự ra đời của giai cấp công nhân Trung Quốc .................................................................................. 29 2.1.2.1. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại Trung Quốc ................ 29 2.1.2.2. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Trung Quốc .......... 30 2.1.3. Ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng Trung Quốc ................................................................................................................ 34 2.1.4. Kết quả của Hội nghị Véc-xai đối với Trung Quốc............................. 38 2.2. Quá trình chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới ........................................................... 40 2.2.1. Phong trào Ngũ Tứ (4 – 5 – 1919) ........................................................ 40 2.2.2. Sự ra đời của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1921 ......................... 43 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dưới ảnh hưởng của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại, một phong trào đấu tranh với quy mô to lớn chưa từng thấy đã diễn ra ở các nước phương Đông thuộc địa. Cùng với cao trào cách mạng vô sản ở châu Âu tấn công vào dinh lũy của chủ nghĩa đế quốc, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc dồn dập tiến công vào hậu phương của chủ nghĩa tư bản. Tiêu biểu cho châu Á là phong trào yêu nước và dân chủ ở Trung Quốc đặc biệt với sự chuyển biến của phong trào đấu tranh từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới. Sự chuyển biến ấy được thể hiện thông qua phong trào Ngũ Tứ (4 – 5 – 1919) và sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921. Trước phong trào Ngũ Tứ là thời kì cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ, nhân dân Trung Quốc đã tiến hành nhiều cuộc đấu tranh với quy mô hết sức to lớn. Đó là phong trào đấu tranh của nông dân Thái Bình thiên quốc kéo dài 14 năm (1851 – 1864), phát triển thế lực trong 17 tỉnh; là phong trào Nghĩa hòa đoàn (1899 – 1902) tập trung mũi nhọn tấn công chủ nghĩa đế quốc. Đó là cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, tiến hành dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản dân tộc lật đổ nền thống trị của triều đình phong kiến Mãn Thanh, lập ra Trung Hoa Dân quốc và chính phủ lâm thời cách mạng Nam Kinh. Song những cuộc đấu tranh đó, dù là phong trào nông dân hay phong trào do sự lãnh đạo của giai cấp tư sản – một giai cấp sinh sau đẻ muộn và yếu ớt cũng đều bị thất bại. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại đó chính là do thiếu sự lãnh đạo đúng đắn của một giai cấp mới, một Đảng Cộng Sản có khả năng đề ra cương lĩnh đấu tranh đúng đắn, có khả năng đoàn kết mọi lực lượng trong và ngoài nước để tiến hành cuộc đấu tranh tiên quyết chống đế quốc và phong kiến. Giữa lúc cách mạng Trung Quốc rơi vào thoái trào, khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo, cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga đã giành được thắng lợi và nhanh chóng ảnh hưởng tới cách mạng Trung Quốc. Từ ngọn lửa của cách mạng tháng Mười, nhiều trí thức yêu nước có tư tưởng dân chủ ở Trung Quốc đã tiếp thu được ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và hi vọng dùng ánh sáng đó soi rọi con đường giải phóng nhân dân Trung Quốc, soi rọi con đường phục hưng đất nước Trung Hoa. Họ dốc hết bầu nhiệt huyết ngợi ca cách mạng tháng Mười, ngợi ca chủ nghĩa Bôn-sê-vích, từ đó từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin vào Trung Quốc. Cách mạng tháng Mười giúp nhân dân Trung Quốc nhận thức rõ kẻ thù, xác định giai cấp có thể đảm đương nhiệm 1 vụ lãnh đạo cách mạng Trung Quốc thành công, giúp họ tìm thấy chân lý để tự giải phóng mình. Hơn nữa, với cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, mặc dù bị thất bại nhưng cuộc cách mạng đó cũng đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho cách mạng Trung Quốc về Đảng và giai cấp lãnh đạo. Đây chính là điều kiện tiên quyết dẫn tới sự chuyển biến trong cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Sự chuyển biến này có tác dụng to lớn đối với cách mạng Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Mặt khác, nó cũng để lại nhiều bài học to lớn về đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn và sự lãnh đạo sáng tạo của Đảng Cộng sản. Nó có ý nghĩa thiết thực cho công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá sao cho thực sự sâu sắc, chi tiết về sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp vô sản lãnh đạo mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản thì chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách cụ thể, nhiều vấn đề cốt lõi chưa được làm rõ. Vì vậy, tôi tiến hành đi sâu tìm hiểu nghiên cứu vấn đề: “Quá trình chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới” làm đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề quá trình chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới được đề cập trong một số tác phẩm sau: Trong cuốn: “Lịch sử Trung Quốc” của tác giả Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý tuy đã làm rõ được quá trình xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây vào Trung Quốc và các phong trào đấu tranh dân chủ, dân tộc ở Trung Quốc nửa sau thế kỉ XIX (1840 – 1900) cũng như cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, song cũng chưa thật đầy đủ và sâu sắc. Hướng chính của cuốn sách là tập trung trình bày một cách hệ thống những vấn đề mang tính chất tiêu biểu của lịch sử Trung Quốc từ thời cổ đại cho đến thời kỳ Trung Quốc trên con đường cải cách, mở cửa, hiện đại hóa đất nước (từ 1978 đến nay). Mặc dù quá trình phân chia phạm vi thế lực của các nước đế quốc trên lãnh thổ Trung Quốc trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX cũng được đề cập trong cuốn giáo trình: “Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỉ XX – Một cách tiếp cận” do PGS.TS Đỗ Thanh Bình (chủ biên), Nxb ĐHSP (2010). 2 Nhưng do hướng chính của cuốn sách là nghiên cứu tổng quát về lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới nên vấn đề quá trình phân chia phạm vi thế lực của các nước đế quốc trên lãnh thổ Trung Quốc chỉ được đề cập ở mức độ sơ lược. Trong tác phẩm: “Lịch sử và văn hóa Trung Quốc” của W.Scott Morton – C.M. Lewis, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (2008). Mặc dù có đề cập đến sự suy yếu của chế độ phong kiến Trung Quốc, nhưng cũng chỉ ở mức độ sơ lược. Trong cuốn giáo trình: “Lịch sử thế giới hiện đại (Giai đoạn 1917 - 1945)” của tác giả Phạm Việt Trung, Nguyễn Huy Quý, Hoàng Bá Sách mặc dù có đề cập đến phong trào yêu nước và dân chủ ở Trung Quốc mà tiêu biểu là phong trào Ngũ tứ (4 – 5 – 1919) cũng như sự gia đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921 song cũng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát hóa do hướng chính của cuốn sách là trình bày về những vấn đề trọng tâm tiêu biểu của lịch sử thế giới trong giai đoạn từ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đến khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945. Trong cuốn: “Lịch sử cận đại Trung Quốc – Quyển I: Từ nha phiến chiến tranh đến thống trị của Bắc Dương quân phiệt (1840 – 1918)” do tác giả Đinh Hiểu Tiên (biên soạn). Mặc dù cuốn sách này có ghi chép các sự kiện lịch sử từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện, cụ thể là từ lúc bắt nguồn vấn đề thông thương của các cường quốc tây phương trên đất Trung Quốc, là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phương Tây bắt đầu bành trướng khắp thế giới và kết thúc với thời kỳ thống trị Trung Quốc của bọn Bắc Dương quân phiệt song những vấn đề liên quan đến phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc dưới hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ cũng chỉ được trình bày một cách khái quát. Trong cuốn: “Lịch sử cận đại Trung Quốc - Quyển II: Từ Ngũ tứ vận động đến bắt đầu kiến thiết Tân Trung Quốc (1918 - 1950)” do tác giả Đinh Hiểu Tiên và Miêu Dựng Hoa (biên soạn) cũng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát một số sự kiện tiêu biểu mà chưa đi sâu làm rõ được quá trình chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới. Trong cuốn: “Lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc giản yếu” của nhóm tác giả Vương Thực, Vương Kiều, Mã Kỳ Binh, Chương Lăng đã trình bày được các vấn đề liên quan đến sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới như: Sự ra đời của giai cấp công nhân Trung Quốc và phong trào công nhân trong thời kỳ đầu; cuộc vận 3 động Ngũ tứ và sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin; sự thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc… song cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát hóa mà chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề. 3. Đối tượng nghiên cứu vấn đề 3.1. Đối tượng nghiên cứu Làm rõ quá trình chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới. 3.2. Phạm vi nghiên cứu và đóng góp của đề tài Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những sự kiện liên quan đến sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới từ giữa thế kỉ XIX đến khi Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập tháng 7 – 1921. Đóng góp của đề tài: Đề tài có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn như sau: Về mặt khoa học: Làm rõ thêm những điều kiện chủ quan và khách quan đưa đến sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới. Làm rõ thêm quá trình dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921. Về mặt thực tiễn: Bổ sung thêm nguồn tài liệu nghiên cứu về sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XX. Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy cho giảng viên, sinh viên khi nghiên cứu, học tập về cách mạng Trung Quốc. 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 4.1. Phương pháp nghiên cứu Đề tài kết hợp hai phương pháp: phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đề tài còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: sưu tầm, hệ thống hóa tư liệu, so sánh, đối chiếu… 4 4.2. Nguồn tài liệu Sách, báo, tạp chí, sách dịch. Ngoài ra còn tham khảo tài liệu trong: http:// Wikipedia.com.vn. 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo thì đề tài được kết cấu thành 2 chương: Chương 1: Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc dưới hình thức cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ. Chương 2: Quá trình chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ hình thức dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu mới. 5 CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN TRUNG QUỐC DƯỚI HÌNH THỨC CÁCH MẠNG DÂN CHỦ TƯ SẢN KIỂU CŨ Trung Quốc có diện tích lớn thứ ba thế giới (sau Liên bang Nga và Canađa). Chiều dài từ Đông sang Tây khoảng 5.700 km, từ Bắc xuống Nam hơn 3.650 km. Đường biên giới dài 21.500 km. Trung Quốc tiếp giáp với nhiều nước ở phía bắc và tây nam là Việt Nam, Lào, Myanma, Ấn Độ, Nêpal, Butan, Liên bang Nga, Mông Cổ, Cộng hòa dân chủ Nhân dân Triều Tiên… Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán bằng đường bộ. Bên cạnh đó về phía Đông, lãnh thổ Trung Quốc tiếp giáp với các biển thuộc Thái Bình Dương, có nhiều đảo lớn như: Hải Nam (3.400 km2), đảo Đài Loan (36.000 km2), nhóm các đảo Hồng Kông… Dọc bờ biển có nhiều hải cảng lớn thuận lợi cho giao thương và phát triển kinh tế. Lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn, điều kiện tự nhiên phong phú, lịch sử phát triển lâu đời… Mặt khác, từ lâu các nước phương Tây đã biết đến Trung Quốc là một xứ sở của hương liệu, lụa là gấm vóc, những đồ gốm tinh xảo, lại có “con đường tơ lụa” thuận lợi cho việc giao thương chuyên chở hàng hóa. Hơn nữa, với dân số đông, lãnh thổ rộng lớn, do đó Trung Quốc là thị trường tiêu thụ hàng hóa mà các nước phương Tây đang ao ước có thể chiếm lĩnh được trong khi sức sản xuất của các nước tư bản phương Tây đang phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, các nước tư bản phương Tây rất cần có thị trường để tiêu thụ hàng hóa. Chính vì lẽ đó mà đối với người phương Tây nói chung thì Trung Quốc luôn là một xứ sở huyền bí và lôi cuốn. Bức màn bí mật này bắt đầu được vén lên sau khi Trung Quốc buộc phải mở cửa vào thế kỉ XIX và sự xuất hiện của chế độ cộng sản. Ngày nay bức màn bí mật này ngày càng mỏng hơn và Trung Quốc trở thành tâm điểm chú ý không chỉ ở các nước phương Tây mà hầu như khắp thế giới. 1.1. Khái quát hoàn cảnh lịch sử Trung Quốc giữa thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX 1.1.1. Sự suy yếu của chế độ phong kiến Trung Quốc Sự suy yếu của chế độ phong kiến Trung Quốc được biểu hiện thông qua những chính sách cai trị hà khắc, bảo thủ của triều đình phong kiến Mãn Thanh. Cụ thể là: Người Mãn Châu vốn là dân tộc thiểu số sống ở suốt một giải núi Tràng Bạch, năm 1644 xâm nhập vào miền đất trong (hay Sơn hải quan), dựng nên triều Thanh, thống trị cả Trung Quốc. Bởi vậy, người Hán tộc là người chiếm 6 đại đa số nhân khẩu Trung Quốc, cũng như các dân tộc khác thì người Hán đều bị hai tầng áp bức: giai cấp và dân tộc. Chính phủ Mãn Thanh nuôi 20 vạn quân Bát Kỳ người Mán, Mông, Hán; hơn 60 vạn quân lục doanh để trấn áp sự phản kháng của người Hán và các dân tộc khác. Trong khoảng hơn 150 năm, từ năm 1640 đến năm 1790, triều đình Mãn Thanh liên tiếp dùng binh lực để trấn áp các cuộc khởi nghĩa. Trong 40 năm đầu, triều Thanh chuyên chú trấn áp người Hán, còn hơn 100 năm sau thì chuyên chú chinh phục người Mông Cổ, Tây Tạng và Hồi dân, Miêu dân. Trong thời đó, bờ cõi của triều Thanh ngoài bản bộ Trung Quốc và Mãn Châu thì còn có rất nhiều phiên bộ và thuộc quốc. Triều Thanh muốn nắm vững quyền thống trị của mình nên thường hay dùng thủ đoạn châm chọc làm cho các dân tộc xung đột lẫn nhau. Mãi đến giữa thế kỷ XIX, Trung Quốc vẫn còn ở vào giai đoạn xã hội phong kiến. Xã hội phong kiến tức là xã hội địa chủ bóc lột nông dân, nông dân là người sản xuất chính còn địa chủ thì chiếm hữu một số lớn ruộng đất. Hoàng đế Mãn Thanh tức là đại địa chủ các trang trại, ruộng nương của bọn quý tộc và người Bát Kỳ về thời đó chiếm mất năm, sáu phần mười số ruộng đất toàn quốc. Bọn họ hùa nhau cùng bóc lột nông dân. Đó là quyền lợi độc nhất của họ. Trong chính phủ Mãn Thanh, họ nhà vua là địa chủ, các quan văn võ ở trung ương và ở các địa phương cũng đều là địa chủ. Các thế lực này kết hợp nhau lại thành một tập đoàn thống trị lớn mạnh. Xung quanh họ lại còn có rất nhiều thư lại, nha dịch và quân đội cũng ở trong tập đoàn của họ. Nhưng mà, các quan cao cấp ở các địa phương cũng như ở trung ương đều là người Mãn chiếm đa số, quyền lớn hoàn toàn ở trong tay các thế lực có họ với nhà vua. Triều Mãn Thanh lại còn áp dụng chế độ học hiệu và chế độ thi cử của các triều trước, thu hút một số địa chủ người Hán và phần tử trí thức vào trong tập đoàn thống trị. Đó là lối mà các quý tộc Mãn Thanh kết hợp với địa chủ người Hán thành một khối để xây dựng nền thống trị phong kiến thời đó. Hồi cuối thế kỷ thứ XVIII, triều Thanh bắt đầu suy đồi, tập đoàn thống trị và quân đội của họ cũng đều thối nát, nhân dân bị áp bức đến mức cùng cực không thể chịu nổi bèn tiến hành nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Những lãnh đạo khởi nghĩa là một số các hội bí mật phản Mãn Thanh, phản địa chủ. Khẩu hiệu chung của các hội bí mật lãnh đạo khởi nghĩa ấy là “Phản Thanh phục Minh” (nghĩa là: Lật đổ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh), “Quan bức dân phản” (Quan áp bức thì dân lật đổ), “Sát phú tế bần” (Giết người giàu cứu giúp người nghèo). Năm 1796, có cuộc khởi nghĩa nông dân ở Tây Bộ tỉnh Hồ Bắc. Vì quân đội bát kỳ và quân đội lục doanh của chính phủ Mãn Thanh lúc đó đã thối nát nên quân khởi nghĩa có điều kiện thuận lợi để phát triển về các miền Tứ Xuyên, Hà Nam, 7 Thiểm Tây, Cam Túc. Mãi đến năm 1804, chính phủ Mãn Thanh nhờ vào lực lượng võ trang của các thế lực địa chủ Hán tộc – gọi là quân hương dũng thì mới tạm dẹp yên được cuộc phản kháng lần thứ nhất của người Hán. Triều đình Mãn Thanh không chỉ thi hành chính sách thống trị hà khắc đối với nhân dân mà còn tiến hành hạn chế việc thông thương, làm cho nền kinh tế đất nước kém phát triển. Mấy năm đầu triều Thanh, cuộc phản kháng có tổ chức của người Hán chống lại Mãn Thanh duy trì được lâu nhất ở miền diên hải đông nam; Hạ Môn và Đài Loan là căn cứ địa kháng chiến của người Hán thời đó. Chính phủ Mãn Thanh vì muốn thực tế thi hành việc phong tỏa căn cứ địa kháng chiến của người Hán nên nghiêm cấm các nước ngoài đến thông thương ở miền diên hải, lại cũng nghiêm cấm người Trung Quốc đi ra nước ngoài buôn bán. Đó gọi là chính sách phong tỏa vùng biển. Những chính sách mà triều đình Mãn Thanh thi hành như trên làm cho đời sống của nhân dân Trung Quốc vô cùng cơ cực. Cùng với đó, việc triều đình Mãn Thanh thi hành chính sách hạn chế việc thông thương hay những thương nhân nước ngoài thường gọi là “chính sách bế quan” làm cho nền kinh tế của Trung Quốc kém phát triển. Lợi dụng điều này mà các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã tiến hành liên hợp, xúm lại với nhau cùng xâm chiếm Trung Quốc. Cuộc chiến tranh Trung – Anh bùng nổ từ tháng 6 – 1840 mà lịch sử thường gọi là cuộc “chiến tranh nha phiến” đã mở đầu cho quá trình xâm lược của các đế quốc tư bản đối với Trung Quốc, từng bước biến Trung Quốc từ một quốc gia phong kiến độc lập thành một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa. 1.1.2. Quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây vào Trung Quốc * Thực dân Anh xâm lược vào Trung Quốc với cuộc chiến tranh thuốc phiện lần 1 (1840 – 1842) Từ lâu các nước đế quốc Âu, Mỹ mà trước hết là đế quốc Anh đã nhòm ngó Trung Quốc. Trong khi đó triều đình Mãn Thanh thi hành chính sách “đóng cửa” ngoại thương (chỉ cho phép thông thương với nước ngoài qua cảng Quảng Châu). Vì vậy, để bắt Trung Quốc mở cửa, đế quốc Anh đã sử dụng mặt hàng đặc biệt là thuốc phiện để xâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Do đó, lượng thuốc phiện của thương gia Anh từ các thuộc địa Arập, Ấn Độ và các nơi khác ở Đông Nam Á đưa vào bán trên thị trường Trung Quốc ngày một tăng với tốc độ nhanh chóng (giữa thế kỉ XVIII mỗi năm khoảng 1000 thùng, đến năm 1839 đã lên tới 35.500 thùng – mỗi thùng nặng khoảng 50 kg). [7,229]. Việc nhập thuốc phiện đã làm cho Trung Quốc rơi vào tình trạng “chảy máu trắng” nghiêm trọng, 8 từ năm 1821 đến năm 1840 trung bình mỗi năm mất khoảng 5 triệu lạng bạc (tương đương 1/10 tổng thu ngân sách của triều đình Mãn Thanh). Không những thế, thuốc phiện còn làm bại hoại con người và xã hội Trung Hoa. Nhiều quan lại trong triều đình nhà Thanh cũng nghiện hút thuốc phiện, ăn hối lộ qua việc buôn bán thuốc phiện. Trước tình hình đó, một số quan lại thức thời tiêu biểu là Lâm Tắc Từ (1785 – 1850) đã tấu trình Hoàng đế Đạo Quang xin nghiêm cấm thuốc phiện. Lâm Tắc Từ được nhà vua cử làm Khâm sai đại thần, Tiết chế Quảng Đông thủy sư tới Quảng Châu để thực hiện lệnh nghiêm cấm thuốc phiện. Đầu tháng 3 – 1839, Lâm Tắc Từ tới Quảng Châu cùng Tổng đốc Lưỡng Quảng Đặng Đình Trinh, Đề đốc Quảng Đông thủy sư Quan Thiên Bồi tích cực chỉnh đốn việc phòng thủ bờ biển, nghiêm cấm buôn bán và hút thuốc phiện. Lâm Tắc Từ thề rằng: “Chưa triệt được thuốc phiện thì bản quan quyết chưa về triều”. Thái độ kiên quyết của Lâm Tắc Từ đã được đông đảo quần chúng hưởng ứng nhiệt liệt. Một phong trào chống buôn bán thuốc phiện, tịch thu, thiêu hủy thuốc phiện đã diễn ra rầm rộ ở Quảng Châu. Chỉ tính từ hạ tuần tháng 4 đến trung tuần tháng 5 – 1839, các nhà buôn thuốc phiện Anh, Mỹ đã phải nộp cho chính quyền Trung Quốc 19.187 thùng và 2.119 bao tải thuốc phiện, tổng cộng khoảng 1,18 triệu kg. Số thuốc phiện đó đã được tổ chức thiêu hủy công khai.[7,230]. Phong trào chống thuốc phiện ở Quảng Châu đã trở thành cái cớ để chính phủ Anh phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Tháng 6 – 1840, Saclơ Enliơt chỉ huy hạm đội Anh chở hơn 4000 lính (về sau tăng lên 15.000), với 540 khẩu pháo, mệnh danh là “Đội quân viễn chinh phương Đông” từ Ấn Độ tới vùng biển Quảng Đông (Trung Quốc), chính thức phát động cuộc chiến tranh thuốc phiện. Cuộc chiến tranh kéo dài hơn 2 năm (1840 – 1842) thường gọi là cuộc Chiến tranh thuốc phiện lần 1 và cuộc chiến tranh này trải qua 3 giai đoạn. Cụ thể là: + Giai đoạn thứ nhất: từ tháng 6 – 1840 đến hạ tuần tháng 1 – 1841. Trong thời gian này, quân Anh đã cho phong tỏa cửa sông Chu Giang, chiếm Định Hải, đưa quân lên Thiên Tân uy hiếp triều đình Mãn Thanh. Ngược lại, phía Trung Quốc chưa có hoạt động tác chiến tích cực mà chỉ có một số hoạt động chuẩn bị chiến đấu ở Quảng Đông. + Giai đoạn thứ hai: từ khi chính phủ Anh tuyên chiến (ngày 20 – 1 – 1841) đến khi kí Hòa ước Quảng Châu (ngày 27 – 5 – 1841). Trong thời gian này, triều đình Mãn Thanh tuy đã tuyên chiến với chính phủ Anh nhưng không thực sự có 9 quyết tâm kháng chiến. Những tướng lĩnh do Hoàng đế Đạo Quang phái đến Quảng Châu thì tinh thần nhu nhược, đánh trận nào thua trận ấy. Cuối cùng, họ đã kí Hòa ước Quảng Châu và Hòa ước này quy định trong vòng 6 ngày quân Thanh phải rút ra ngoài Quảng Châu 60 dặm Anh; trong một tuần phải bồi thường cho quân Anh 6 triệu đồng (bạc) và bồi thường cho các hãng buôn Anh 30 vạn đồng. + Giai đoạn thứ ba: từ khi quân Anh tấn công Hạ Môn (tháng 8 – 1841) đến khi kí Điều ước Nam Kinh (ngày 29 – 8 – 1842). Trong giai đoạn này quân Anh tập trung tấn công vùng Giang Tô, Chiết Giang. Quân Thanh được điều đến Chiết Giang nhưng thua trận liên tiếp. Cuối cùng, triều đình Mãn Thanh đã buộc phải kí Điều ước Nam Kinh. Đây là điều ước bất bình đẳng đầu tiên mà triều đình Mãn Thanh buộc phải kí kết với chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Điều ước Nam Kinh quy định: 1. Trung Quốc phải mở 5 cửa khẩu thông thương là: Quảng Châu, Phúc Châu, Hạ Môn, Ninh Ba, Thượng Hải. Người Anh được đến cư trú và lập lãnh sự quán tại những nơi đó. 2. Trung Quốc cắt Hương Cảng (Hồng Kông) nhượng cho nước Anh. 3. Trung Quốc bồi thường cho nước Anh 21 triệu bảng, trả hết trong 4 năm. 4. Hải quan Trung Quốc không được tự quyết định thuế xuất nhập khẩu mà phải bàn bạc với phía Anh. 5. Xóa bỏ chế độ “công hành”, thương nhân người Anh hoàn toàn tự do giao dịch tại các cửa khẩu thông thương. [7,231]. Ngày 8 – 10 – 1843, Anh còn buộc triều đình Mãn Thanh kí Điều ước Hổ Môn, quy định một số đặc quyền của người Anh như: quyền “lãnh sự tài phán”, quyền được hưởng chế độ “tối huệ quốc”, quyền tự do cư trú và thuê đất. Sau khi Anh khuất phục được triều đình Mãn Thanh thì các nước đế quốc khác đã uy hiếp, buộc Trung Quốc kí kết các hiệp ước bất bình đẳng khác như: Điều ước Vọng Hạ (kí kết với Mỹ ngày 3 – 7 – 1844); Điều ước Hoàng Phố (kí kết với Pháp ngày 24 – 10 – 1844). Các nước Bỉ, Thụy Điển, Na Uy cũng được hưởng quyền thông thương với Trung Quốc. Bồ Đào Nha được quyền cai quản Ma Cao. Nước Nga Sa hoàng cũng thừa cơ tăng cường hoạt động xâm lược lại các vùng Đông Bắc và Tây Bắc Trung Quốc. * Liên quân Anh – Pháp xâm lược Trung Quốc với cuộc chiến tranh thuốc phiện lần 2 (1856 – 1860) Từ năm 1856 đến năm 1860, liên quân Anh – Pháp được Nga và Mỹ giúp 10 sức đã gây ra cuộc Chiến tranh thuốc phiện lần thứ 2. Liên quân Anh – Pháp đã tấn công Quảng Châu, tiến lên Thiên Tân và dọa sẽ tấn công Bắc Kinh. Triều đình Mãn Thanh đã buộc phải kí Điều ước Thiên Tân với Anh (ngày 26 – 6) và với Pháp (ngày 27 – 6 – 1857), mở một loạt các cửa khẩu khác cho Anh, Pháp thông thương. Đầu năm 1860, hơn 18.000 quân Anh, 7.000 quân Pháp, với hơn 200 chiến hạm đã mở cuộc tấn công lớn, lần lượt đánh chiếm Đại Cô, Thiên Tân rồi đánh thẳng vào Bắc Kinh. Vua Hàm Phong bỏ chạy lên Nhiệt Hà (nay là Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc). Trong hai ngày 24 và 25 – 10 – 1860, triều đình Mãn Thanh đã phải kí Điều ước Bắc Kinh với Anh và Pháp, mở thêm cảng Thiên Tân cho Anh, Pháp thông thương, mở rộng nhượng địa của Anh, Pháp ở Cửu Long và Hương Cảng, bồi thường chiến phí 8 triệu lạng bạc cho quân Anh – Pháp… Điều ước Thiên Tân và Điều ước Bắc Kinh đã tạo điều kiện cho các đế quốc phương Tây xâm phạm chủ quyền, tiến sâu thêm một bước trong quá trình nô dịch Trung Quốc. * Thực dân Pháp xâm lược Trung Quốc (1884 – 1885) Cuộc chiến tranh Trung – Pháp năm 1885 và sự thất bại của triều đình Mãn Thanh đánh dấu một mốc mới trong quá trình xâm nhập của chủ nghĩa đế quốc vào Trung Quốc. Cuộc xâm lược Việt Nam của đế quốc Pháp được triều đình Mãn Thanh coi là sự xâm phạm lợi ích của Trung Quốc và là mối đe dọa đối với miền Nam Trung Quốc. Tháng 8 – 1883, triều đình Huế đã buộc phải kí Hiệp ước Hacmăng thừa nhận quyền “bảo hộ” của Pháp. Sau đó, quân Pháp đã đòi triều đình Mãn Thanh triệu hồi Lưu Vĩnh Phúc (bấy giờ đang chỉ huy quân Cờ Đen đánh nhau với quân Pháp ở Bắc Kỳ), mở cửa biên giới Vân Nam. Từ đó, mâu thuẫn Trung – Pháp trở nên gay gắt. Tuy nhiên, thái độ của triều đình Mãn Thanh rất nhu nhược và ngày 11 – 5 – 1884 tại Thiên Tân, Tổng đốc Trực Lệ Lý Hồng Chương – người được sự ủy nhiệm của triều đình Mãn Thanh đã kí với Trung tá hải quân Pháp Phuốcniê một quy ước (thường được gọi là Quy ước Thiên Tân hoặc Hiệp ước Fournier) gồm 5 điều, thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Theo quy ước, quân Thanh ở Việt Nam sẽ rút về nước. Một tháng sau quân Pháp đi tuần tra biên giới đã tấn công quân Thanh ở Lạng Sơn và quân Pháp đã bị thương vong nhiều. Vin vào cớ đó, mấy tháng sau hạm đội Pháp đã tấn công căn cứ hải quân Trung Quốc ở Phúc Châu. 11 Ngày 6 – 7 – 1884, triều đình Mãn Thanh đã chính thức tuyên chiến với Pháp. Cuối năm 1884, hạm đội Pháp tấn công, bao vây Đài Loan, chiếm cảng Cơ Long, đầu năm 1885 chiếm quần đảo Bành Hồ. Tháng 2 – 1885, quân Pháp thất bại trong trận tấn công Trấn Nam Quan (nay là Hữu Nghị Quan). Nhưng triều đình Mãn Thanh đã không muốn nhân đà thắng lợi đó để đẩy mạnh chiến tranh chống Pháp mà lại muốn cầu hòa, chịu mất quyền lợi ở Việt Nam để đổi lấy việc Pháp rút khỏi quần đảo Bành Hồ và cảng Cơ Long ở Đài Loan, không tấn công vào các vùng ven Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Còn quân Pháp do đang bị sa lầy trong chiến sự ở Bắc Kỳ (Việt Nam), Mađagaxca… nên chưa thể tăng cường lực lượng tấn công Trung Quốc và đã chấp nhận hòa đàm. Ngày 9 – 6 – 1885 tại Thiên Tân, Lý Hồng Chương thay mặt triều đình Mãn Thanh đã kí với Đại sứ Pháp tại Trung Quốc là Patơnôtơrơ bản Trung – Pháp tân ước (còn gọi là Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và thương mại). Theo hiệp ước này, Trung Quốc thừa nhận việc Pháp thống trị Việt Nam; chấm dứt việc coi Việt Nam là một thuộc quốc của mình; đồng ý mở cửa thông thương qua biên giới Trung – Việt tại các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông; Pháp được xây dựng đường sắt ở miền Hoa Nam. Từ đó, thực dân Pháp từ Bắc Kỳ (Việt Nam) đã từng bước xâm nhập vào các tỉnh phía Nam Trung Quốc. * Quân phiệt Nhật xâm lược Trung Quốc (1894 – 1895) Cuộc chiến tranh Trung – Nhật bùng nổ năm 1894 (trong lịch sử thường gọi là “chiến tranh Giáp Ngọ”) đánh dấu một bước mới trong quá trình chủ nghĩa đế quốc xâm lược Trung Quốc. Cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868 đã mở đường cho nước Nhật tiến lên chủ nghĩa tư bản, đồng thời từ đó nước Nhật quân phiệt cũng trở thành mối đe dọa nền độc lập của các dân tộc Đông Á. Triều Tiên là nạn nhân đầu tiên của chủ nghĩa quân phiệt Nhật. Năm 1876, quân Nhật tấn công uy hiếp buộc Triều Tiên phải kí Hiệp ước Giang Hoa, cho phép Nhật Bản thông thương và hưởng nhiều đặc quyền ở Triều Tiên. Triều đình Mãn Thanh coi cuộc xâm lược của Nhật Bản đối với Triều Tiên là sự xâm phạm đối với Trung Quốc vì Triều Tiên là nước phụ thuộc của Trung Quốc. Nhật Bản cũng ý thức được rằng không thể chiếm lĩnh được Triều Tiên nếu không đánh bại được Trung Quốc. Do đó mà quan hệ Trung – Nhật ngày càng trở nên căng thẳng. Ngày 1 – 8 – 1894, vua Quang Tự tuyên chiến với Nhật Bản. Cùng ngày, Nhật Bản cũng đã chính thức tuyên chiến với Trung Quốc. Trung tuần tháng 9/1894, quân Thanh thua trận, tháo chạy khỏi Bình Nhưỡng, vượt sông Áp Lục 12 về nước. Cuối năm 1894 – đầu năm 1895, quân Thanh thất bại trong chiến dịch Hoàng Hải, quân Nhật lần lượt đánh chiếm Đại Liên, Lữ Thuận, Uy Hải Vệ… Từ đây mà tinh thần kháng chiến và lòng tin thắng lợi của vua Quang Tự cùng với phái chủ chiến trong triều đình Mãn Thanh lạnh nguội dần. Phái chủ hòa do Từ Hi Thái Hậu cầm đầu đã mời Anh cùng Mỹ, Nga làm trung gian hòa giải để cầu hòa với Nhật Bản. Và ngày 17 – 4 – 1895, Trung Quốc và Nhật Bản đã kí Hiệp ước Mã Quan (hay còn gọi là Hiệp ước Simônôseki). Bản Hiệp ước này quy định: 1. Trung Quốc thừa nhận quyền thống trị của Nhật Bản đối với Triều Tiên. 2. Trung Quốc cắt bán đảo Liêu Đông, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ “nhượng” cho Nhật Bản. 3. Trung Quốc bồi thường chiến phí cho Nhật Bản 200 triệu lạng bạc. 4. Trung Quốc mở thêm 4 cửa khẩu Sa Thị, Trùng Khánh, Tô Châu, Hàng Châu cho Nhật Bản thông thương, tàu thủy của Nhật được tự do theo các dòng sông tiến sâu vào nội địa. 5. Thần dân Nhật Bản được phép xây dựng các xưởng máy tại các cửa khẩu thông thương. [7,234]. * Các nước đế quốc khác xâm lược Trung Quốc Theo sau Anh, Pháp, Nhật, các nước đế quốc khác như Mỹ, Đức, Nga… cũng ép triều đình Mãn Thanh kí các điều ước bất bình đẳng, tăng cường các hoạt động tranh giành, phân chia phạm vi thế lực trên lãnh thổ Trung Quốc. Cụ thể: + Anh và Pháp nắm toàn khu vực Tứ Xuyên và Vân Nam. + Anh độc quyền xây dựng đường sắt từ Nam Sơn Đông đến Trấn Giang. + Đức độc quyền xây dựng đường sắt từ Sơn Đông đến Thiên Tân, vùng phụ cận đường sắt thuộc Đức. + Nhật Bản khống chế vùng Đông Bắc và Phúc Kiến. + Phía Bắc Trường Thành là phạm vi thế lực của Nga. + Mỹ có quyền lợi ở Trung Quốc tương đối ít. Do đó, năm 1889 Mỹ đề ra chính sách “mở cửa” để chen chân vào thị trường Trung Quốc; bởi vì, “đối với Mỹ, Trung Quốc là một thị trường và có thể là một đồng minh trong một cuộc xung đột với Nhật Bản” [319, Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 1] và các nước đế quốc đã phải công nhận thế lực của Mỹ. 13 Tóm lại, quá trình xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đã biến Trung Quốc từng bước trở thành một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Với sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản nước ngoài, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã từng bước phát triển, mặc dù quan hệ sản xuất phong kiến vẫn chiếm vị trí chủ đạo ở Trung Quốc. Một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc đã trở thành thuộc địa dưới nhiều hình thức của đế quốc thực dân. Triều đình phong kiến Mãn Thanh vẫn tồn tại nhưng chủ quyền dân tộc thì bị xâm hại, nền độc lập của đất nước Trung Hoa chỉ còn mang tính chất tương đối. Thế lực phong kiến và chủ nghĩa đế quốc thực dân đã trở thành hai vật cản chủ yếu trên con đường phát triển của xã hội Trung Quốc. Hơn nữa, trước khi các nước tư bản phương Tây xâm lược vào Trung Quốc thì trong lòng xã hội Trung Quốc đã tồn tại rất nhiều mâu thuẫn chồng chéo lên nhau như mâu thuẫn giữa địa chủ phong kiến với nông dân, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Trung Quốc với triều đình phong kiến Mãn Thanh, hay mâu thuẫn giữa triều đình phong kiến Mãn Thanh với các phiên bộ và các thuộc quốc khác… Mặt khác, khi các nước tư bản phương Tây xâm lược vào Trung Quốc, từng bước xâm phạm đến chủ quyền quốc gia, dân tộc thì triều đình Mãn Thanh lại tỏ ra nhu nhược, thay đổi thái độ từ chỗ “bài ngoại” chuyển sang chỗ “mỵ ngoại” (nịnh người ngoài). Trái ngược lại hoàn toàn với thái độ của triều đình phong kiến thì nhân dân Trung Quốc đã dũng cảm vùng lên kiên quyết đấu tranh chống lại các nước xâm lược tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh lịch sử đó, các phong trào dân chủ, dân tộc của nhân dân Trung Quốc đã không ngừng bùng nổ nhằm chống các thế lực phong kiến và đế quốc thực dân. 1.1.3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc chống phong kiến, thực dân * Phong trào nông dân Thái bình Thiên quốc (1851 – 1864) Từ năm 1851 đến năm 1864, ở Trung Quốc đã nổi lên phong trào nông dân Thái bình Thiên quốc. Đây là phong trào nông dân chống triều đình phong kiến có quy mô lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Phong trào Thái bình Thiên quốc đã bùng nổ trong bối cảnh đất nước Trung Hoa sau cuộc chiến tranh thuốc phiện bị các nước đế quốc xâm hại, triều đình phong kiến Mãn Thanh ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân, các cuộc phản kháng của nông dân nổi lên khắp nơi trong cả nước, nhất là ở các tỉnh phía nam với những tổ chức và ngọn cờ khác nhau. Lãnh tụ của phong trào nông dân Thái bình Thiên quốc là Hồng Tú Toàn (1814 – 1864). Ngày 11 – 1 – 1851, Hồng Tú Toàn tổ chức lực lượng vũ trang ở thôn Kim Điền (Quảng Tây) tuyên bố khởi nghĩa, lập hiệu là Thái bình Thiên quốc. Quần 14 chúng nông dân các vùng lân cận nhiệt liệt hưởng ứng, phong trào khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng ra các địa phương khác ở Quảng Tây. Triều đình Mãn Thanh điều hơn 1 vạn quân đến bao vây, trấn áp nhưng đã bị nghĩa quân đánh bại. Nghĩa quân Thái bình Thiên quốc thừa thắng đánh chiếm thành phố Vĩnh An (nay thuộc huyện Mông Sơn). Tại Vĩnh An, Hồng Tú Toàn đã cho ban hành “Thiên lịch”, hạ chiếu phong vương. Dương Tú Thanh được phong Đông vương, Tiêu Triều Quý được phong Tây vương, Phùng Vân Sơn được phong Nam vương, Vi Xương Huy được phong Bắc vương, Thạch Đạt Khai được phong Dực vương. Một hình thức chính quyền trung ương của Thái bình Thiên quốc đã bước đầu hình thành. Chiếu lệnh của Thiên vương Hồng Tú Toàn còn quy định từ Tây vương trở xuống đều chịu sự chỉ huy của Đông vương và trên thực tế, Đông vương Dương Tú Thanh đã nắm trong tay quyền hành rất lớn về quân sự và chính trị. Được sự hưởng ứng của quần chúng nông dân, lực lượng của phong trào nông dân Thái bình Thiên quốc ngày càng lớn mạnh. Nghĩa quân Thái bình Thiên quốc đã đánh bại nhiều cuộc bao vây tấn công của quân Thanh và chỉ trong một thời gian hơn 2 năm đã từ Quảng Tây tiến đánh sang 5 tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy, Giang Tô; lần lượt đánh chiếm các thành phố quan trọng là Hán Dương, Hán Khẩu, Vũ Xương. Ngày 20 – 3 – 1853, nghĩa quân Thái bình Thiên quốc đã đánh chiếm thành phố Nam Kinh, chính thức thành lập Thiên triều Thái bình Thiên quốc (Nam Kinh được gọi là Thiên Kinh). Sau khi định đô tại Nam Kinh, nghĩa quân Thái bình Thiên quốc lại tiến hành các cuộc tiến công lớn để đối phó với phong kiến Mãn Thanh và đẩy mạnh sự phát triển của phong trào, trong đó tập trung vào “Bắc phạt” và “Tây chinh”. Mục tiêu của cánh “Bắc phạt” là tấn công Bắc Kinh – đô thành của triều đình Mãn Thanh, nhưng cuộc tấn công này đã bị thất bại. Mục tiêu chiến lược của cánh “Tây chinh” là khống chế miền trung du Trường Giang, phát triển lực lượng xuống miền Nam Trung Quốc. Sau 3 năm chiến đấu (1853 – 1856), cánh quân Tây chinh đã lập được nhiều chiến công, gây cho “đội quân Hồ Nam” (Tương quân) do Tăng Quốc Phiên chỉ huy nhiều tổn thất, khống chế cả vùng hạ lưu và trung du Trường Giang, chiếm lĩnh nhiều vùng thuộc các tỉnh An Huy, Giang Tây, Hồ Bắc, Giang Tô… Được sự cổ vũ của cuộc khởi nghĩa nông dân Thái bình Thiên quốc, nhân dân các dân tộc ở nhiều nơi tại miền Nam và duyên hải Đông Nam Trung Quốc đã nổi dậy chống chính quyền phong kiến Mãn Thanh. Nhưng Thái bình Thiên quốc đã không tập hợp được tất cả các lực lượng nổi dậy đó dưới ngọn cờ lãnh đạo của mình. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất