Phần mở đầu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
******
HUỲNH THỊ HỒNG HOA
PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC GIỜ DẠY
HỌC NGỮ VĂN HIỆU QUẢ
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn
Giáo viên hướng dẫn:
TRẦN NGUYÊN HƯƠNG THẢO
Cần Thơ, tháng 5 năm 2011
1
Phần mở đầu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tầm nhìn đến năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia phát triển theo
định hướng “Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”.
Con người tự chủ, năng động, sáng tạo; con người có khả năng phát hiện và giải
quyết vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và xã hội, là mục tiêu và động lực của sự
phát triển xã hội Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu này, giáo dục Việt Nam, đặc biệt là
trong nhà trường phổ thông hiện nay đang trên xu hướng chuyển dịch mối quan hệ
tác động chủ yếu và phổ biến một chiều từ giáo viên đến học sinh sang mối quan hệ
tương tác hai chiều giữa giáo viên và học sinh, nhiều chiều từ học sinh đến học sinh
hay từ học sinh đến xã hội bằng cách tiếp cận dần mục tiêu, nội dung và đặc biệt là
các phương pháp dạy học tích cực. Trong đó, giáo viên đóng vai trò chủ đạo nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Vì thế mà hiện nay nhà
trường phổ thông đang trong xu thế liên tục đổi mới phương pháp dạy học sao cho
phù hợp với tình hình phát triển của thời đại. Nó đòi hỏi người giáo viên và học sinh
không ngừng tiếp cận và đổi mới phương pháp dạy học mới.
Song, tuy đã có sự thay đổi về quan niệm dạy học từ dạy học lấy giáo viên
làm trung tâm sang lấy học sinh làm trung tâm nhưng người giáo viên vẫn giữ vai
trò quan trọng, vai trò chủ đạo trong việc truyền tải những kiến thức cần thiết và
hơn bao giờ hết giáo viên phải là người nắm bắt và vận dụng những phương pháp
dạy học mới để có thể kích thích hứng thú học tập và khả năng tự tìm hiểu kiến thức
của học sinh. Muốn hoàn thành mục tiêu này thì người giáo viên phải biết lựa chọn,
vận dụng và tiến hành đồng thời nhiều phương pháp dạy học tích cực trong một tiết
học sao cho hiệu quả mang lại là cao nhất.
Riêng tôi sẽ trở thành một giáo viên trong tương lai nên điều mà tôi băn
khoăn, lo lắng và là mong muốn lớn nhất của tôi là làm sao có thể tổ chức một giờ
dạy cho thật hiệu quả trong đợt thực tập sắp tới và trong việc giảng dạy sau này. Và
đề tài “Phương pháp tổ chức giờ dạy học Ngữ Văn hiệu quả ” là một đề tài có tính
ứng dụng rất cao, giải quyết được lo lắng và rất có ích cho việc giảng dạy của tôi
sau này. Vì vậy đó là lý do mà tôi chọn đề tài Phương pháp tổ chức giờ dạy học
Ngữ Văn hiệu quả.
2. Lịch sử vấn đề
Về phương pháp dạy học Ngữ văn có tài liệu đề cập đến như quyển
“Phương pháp dạy học văn” ( tập II ) của Phan Trọng Luận (chủ biên). Ông đưa ra
2
Phần mở đầu
rất nhiều phương pháp dạy học văn như: phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp
gợi mở, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tái tạo, phương pháp nêu vấn
đề…nhưng vẫn còn giới hạn bởi nó chỉ thiên về lý thuyết mà chưa đề cập đến vấn
đề áp dụng những lý thuyết ấy vào thực tế như thế nào.
Quyển “Phương pháp dạy học văn” (tập I) của Phan Trọng Luận (chủ biên) –
Trương Dĩnh gồm có 2 phần và cả phần phụ lục. Trong nội dung tác giả đã phần
nào chú trọng đề cập đến vấn đề tổ chức cho học sinh hoạt động trong giờ học và đề
cập đến cả phương pháp dạy học bộ môn, phần nào cũng đã hướng đến quá trình tổ
chức giờ dạy học Ngữ văn hiệu quả (Phần II, chương V, phụ lục 3).
Quyển “Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường” của Phan Trọng
Ngọ gồm 3 phần có đề cập đến cách thức tổ chức lớp học theo định hướng lấy “học
sinh làm trung tâm” theo phương pháp dạy học tích cực. Tuy nhiên lại chưa đi vào
cụ thể từng phân môn sẽ áp dụng như thế nào.
Và hiện nay có chuyên đề của ThS. Nguyễn Minh Chính và TS. Nguyễn Thị
Hồng Nam (trường Đại học Cần Thơ) với chuyên đề Phương pháp giảng dạy Ngữ
Văn “Tổ chức học hợp tác trong dạy học Ngữ Văn” đã đi vào cụ thể trong việc tổ
chức giờ dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả song hình thức này không thể áp dụng để tổ
chức toàn bộ thời gian của một giờ dạy học Ngữ văn.
Đặc biệt là để hỗ trợ cho việc tổ chức giảng dạy của giáo viên đã có một số
sách “Thiết kế bài giảng Ngữ văn”. Tuy nhiên các quyển này hướng dẫn phần
phương pháp tổ chức vẫn còn chung chung chứ chưa cụ thể.
Nhìn chung vẫn chưa có tài liệu nào nghiên cứu một cách đầy đủ và cụ thể về
Phương pháp tổ chức giờ dạy học Ngữ văn hiệu quả. Do đó khi thực hiện đề tài
này người viết hi vọng việc nghiên cứu sẽ góp phần để việc giảng dạy Ngữ văn ở
trường phổ thông hiệu quả hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều phương pháp dạy học khác nhau nhưng mỗi môn học
lại có những đặc thù riêng nên việc lựa chọn những phương pháp dạy học nào cho
phù hơp và phương pháp tổ chức như thế nào cho hợp lý để có một giờ dạy thật
hiệu quả là một vấn đề rất là cần thiết. Vì vậy, tôi nghiên cứu đề tài này với mục
đích lựa chọn những phương pháp dạy học phù hơp với đặc thù của môn Ngữ văn
để có một giờ dạy học Ngữ văn hiệu quả.
4. Phạm vi nghiên cứu
3
Phần mở đầu
Với yêu cầu của đề tài này, người viết tiến hành nghiên cứu trong phạm vi
nhà trường phổ thông đặc biệt là qua các tiết học Ngữ văn cụ thể.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này người viết sử dụng các phương pháp sau:
- Tham khảo và thu thập tài liệu
- Nghiên cứu, phân tích tài liệu
- Tổng hợp tài liệu
- Chứng minh, so sánh….
4
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Phương pháp dạy học Ngữ Văn
1.1.1 Khái niệm phương pháp
Theo Đecactor một đại biểu của triết học Pháp thế kỉ XVIII đã nói: “Không
có phương pháp người tài cũng mắc lỗi, có phương pháp người bình thường cũng có
thể làm những chuyện phi thường”. Phương pháp là một thành tố quan trọng của
quá trình hoạt động. Hiện nay, trong lĩnh vực phương pháp dạy học hầu hết đều có
sự nhầm lẫn về khái niệm phương pháp, biện pháp, cách dạy, hình thức dạy học. Vì
vậy đã gây những khó khăn nhất định trong nhà trường phổ thông. Gần đây có một
số tác giả đã vận dụng 2 hướng tiếp cận về vấn đề phương pháp nói chung trong
triết học đó là hướng tiếp cận của Hêghen và hướng tiếp cận của Cac Mac để xem
xét phương pháp dạy học.
- Vận dụng hướng tiếp cận của Hêghen về phương pháp:
Hêghen cho rằng “Phương pháp là hình thức vận động của nội dung sự vật”.
Theo quan điểm này mỗi sự vật đều có nội dung riêng và được thể hiện qua hình
thức nhất định. Do đó mỗi sự vật đều có hình thức vận động riêng. Vận dụng cách
tiếp cận này vào trong quá trình dạy học ta thấy mỗi nội dung bài học có một
phương pháp dạy học đặc thù. Vì vậy mà không nên cho rằng phương pháp này tốt
và phương pháp kia không tốt mà phải xác định được rằng với nội dung này thì
người giáo viên nên vận dụng phương pháp nào cho phù hợp để hiệu quả mang lại
là cao nhất. Hệ quả từ cách tiếp cận này cho thấy muốn xác định và lựa chọn sử
dụng phương pháp dạy học nào là tốt nhất thì phải trả lời cho được câu hỏi: Dạy cái
gì và dạy như thế nào? Giữa phương pháp dạy học và nội dung dạy học có mối quan
hệ biện chứng tác động hai chiều lẫn nhau nghĩa là phương pháp dạy học phải phù
hợp với nội dung dạy học và ngược lại nội dung dạy học thay đổi kéo theo sự thay
đổi của phương pháp dạy học.
5
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
- Vận dụng hướng tiếp cận của Các Mác về phương pháp:
C.Mác cho rằng phương pháp là cách thức là phương tiện để đạt tới một mục
đích nhất định và để giải quyết một nhiệm vụ nhất định. Từ khái niệm này ta có thể
thấy rằng cùng một nội dung dạy học nhưng sẽ có rất nhiều phương pháp để triển
khai. Tuy nhiên trong số đó sẽ có một phương pháp là hiệu quả và tối ưu nhất. Vì
vậy muốn đạt hiệu quả cao trong quá trình tổ chức dạy học người giáo viên cần phải
trả lời cho được câu hỏi: Nội dung này có thể sử dụng những phương pháp, phương
tiện nào? Phương pháp, phương tiện nào là tối ưu nhất?. Khái niệm về phương pháp
của Các Mác đã được sự thống nhất khá cao khi đưa ra khái niệm về phương pháp
đặc biệt là trong quá trình dạy học vì khái niệm này có thể áp dụng vào trong lí luận
dạy học.
1.1.2 Phương pháp dạy học và cơ sở lựa chọn phương pháp dạy học
Theo Phan Trọng Ngọ thì phương pháp dạy học không phải là một thực thể
độc lập, vì mục đích tự thân, mà chỉ là hình thức vận động của một hoạt động đặc
thù: hoạt động dạy học. Và “định nghĩa chung nhất về phương pháp dạy học là
những con đường, cách thức tiến hành hoạt động dạy học” [1; tr.145].
Có 4 cơ sở để lựa chọn phương pháp dạy học:
1.1.2.1 Trình độ học sinh
Đây là vấn đề mà người giáo viên nhất thiết phải nắm rõ trước khi tiến hành
giảng dạy. Do rất nhiều yếu tố chi phối cho nên mỗi học sinh sẽ có một trình độ
khác nhau, nghĩa là có sự chênh lệch về trình độ giữa các học sinh. Mỗi một cấp
học, mỗi trường hay mỗi lớp khác nhau thì trình độ sẽ khác nhau. Do đó người giáo
viên cần nắm rõ trình độ của học sinh để có thể lựa chọn phương pháp giảng dạy
cho phù hợp và từ đó mới có thể làm cho học sinh tiếp thu được bài học hiệu quả.
1.1.2.2 Nội dung bài dạy
Đây là cơ sở quyết định phương pháp nào là chủ yếu. Phương pháp được cụ
thể hóa bởi nội dung và do hiện nay phương pháp dạy học khá phong phú cho nên
sẽ không có phương pháp tối ưu cho tất cả các dạng bài do đó nội dung cụ thể của
một bài học trong sách giáo khoa ở trường phổ thông sẽ quyết định việc người giáo
viên nên lựa chọn phương pháp dạy học này hay phương pháp dạy học khác.Ví dụ:
Nội dung bài dạy trong sách giáo khoa Ngữ văn là thơ thì phương pháp sử dụng sẽ
khác so với nếu bài học là kịch hay truyện.
1.1.2.3 Năng lực sở trường của giáo viên
6
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
Hiện nay phương pháp dạy học khá phong phú cho nên sẽ không có phương
pháp tối ưu cho tất cả mọi người. Chính vì vậy mà hiệu quả của phương pháp được
quyết định bởi người sử dụng phương pháp chứ không phải là bản thân phương
pháp quyết định. Mỗi người giáo viên đều có năng lực sở trường riêng và điều quan
trọng là người giáo viên phải biết nhận ra và vận dụng nó trong việc lựa chọn
phương pháp cho phù hợp với năng lực sở trường riêng của bản thân để có thể tổ
chức giờ học thật hiệu quả.
1.1.2.4 Phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học là một tập hợp những đối tượng vật chất được giáo viên
sử dụng với tư cách là những phương tiện để điều khiển hoạt động nhận thức của
học sinh. Hiện nay các phương tiện dạy học rất là đa dạng và phong phú. Phương
tiện dạy học góp phần làm cho giờ học đạt hiệu quả hơn vì giờ học sinh động và
hứng thú hơn.
1.2 Các phương pháp dạy học Ngữ văn
1.2.1 Phương pháp đọc văn (Đọc diễn cảm)
1.2.1.1 Vai trò của phương pháp đọc văn
Phương pháp đọc văn là phương pháp đặc thù ở nhà trường phổ thông. GS.
Trần Đình Sử trong bài báo “Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy - học
văn” (Văn nghệ số 10, 7-3-2009) đã cho thấy tầm quan trọng của phương pháp đọc
văn. Mở đầu bài viết của mình, GS. Trần Đình Sử đã khẳng định rõ: “Khởi điểm
của môn Ngữ Văn là dạy học sinh đọc hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn…
Nếu học sinh không trực tiếp đọc các văn bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi
như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp của môn văn đều chỉ là nói suông, khó với tới,
đừng nói gì tới tình yêu văn học”. Các nhà văn dùng ngôn ngữ để sáng tạo nên tác
phẩm ngôn ngữ văn học có một số tính chất sau:
- Tính chính xác
- Tính hàm súc
- Tính đa nghĩa
- Tính biểu cảm
- Tính tạo hình.
Khi tạo nên tác phẩm các tác giả có ý thức tạo nên lớp vỏ âm thanh và cả
nhịp điệu để có thể phản ánh hiện thực. Vì vậy muốn phát hiện giá trị tác phẩm thì
chúng ta phải đọc văn để nó tác động vào tư tưởng, tình cảm của người nghe từ đó
7
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
mới có thể lĩnh hội được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm. Vì thế đọc văn được xem
là một phương pháp dạy học và mang tính trực quan cao. Phương pháp này có tác
dụng làm cho người nghe có thể “nhìn thấy” cái nghe được. Ngoài ra đọc diễn cảm
cũng là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Có khác chăng là nhà văn đi từ tư tưởng
đến ngôn ngữ, người đọc lại đi từ ngôn ngữ đến tư tưởng [2; tr.193].
1.2.1.2 Mục đích của việc đọc văn
Hiện nay ở các trường phổ thông vẫn còn khá xem nhẹ việc đọc văn nên học
sinh đọc văn rất kém. Việc đọc văn của học sinh trong nhà trường phổ thông khác
so với đọc văn ở ngoài xã hội.
Học sinh: Vừa là tác phẩm vừa là bài học nên bị chi phối bởi tính nhà trường,
có sự khác nhau về không gian, thời gian và định hướng giáo dục.
Xã hội: Là tác phẩm, không bị chi phối bởi tính nhà trường.
Mục đích của việc đọc văn:
- Tạo ra một điều kiện thuận lợi cho học sinh khám phá tác phẩm và điều
quan trọng nhất là đọc tác phẩm mà chưa hề bị một ý kiến nào chi phối.
- Đọc văn có thể giúp học sinh rèn luyện trí tưởng tượng, rèn luyện khả
năng nhạy cảm với ngôn ngữ trong tác phẩm. Rèn luyện cách phát âm
đọc đúng ngữ điệu để chuyển tải đúng nội dung cho người nghe. Đối với
đọc văn ngữ điệu rất là quan trọng.
- Mục đích của việc đọc văn chỉ thực sự đạt được khi học sinh đọc theo
hướng tích cực nghĩa là không phải phát âm theo cách bình thường mà
phải suy nghĩ, tưởng tượng và nhập thân vào cảm xúc để khám phá hết
giá trị của tác phẩm.
- Đọc đúng thể loại: hịch, cáo, phú, văn tế, kịch… đối với kịch giáo viên
phải tổ chức đọc phân vai.
1.2.2 Phương pháp diễn giảng (Thuyết trình)
1.2.2.1 Khái niệm
“Diễn giảng là phương pháp trình bày, thông báo có hệ thống một vấn đề cho
học sinh, học sinh tiếp thu kiến thức sau đó tái hiện lại kiến thức” [3; tr.62]. Đây là
phương pháp dạy học phổ biến nhất từ thời phong kiến cho đến nay. Diễn giảng là
phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng lời nói trình bày vấn đề có hệ thống còn
học sinh lắng nghe ghi chép và tái hiện lại kiến thức mà các em đã tiếp thu được. Ở
Việt Nam cho đến nay phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong nhà trường
8
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
đặc biệt là đối với các phân môn thuộc khoa học xã hội. Diễn giảng là một phương
pháp truyền thống nhưng đến nay vẫn được sử dụng chủ yếu bởi những ưu điểm của
phương pháp này. Hiện nay người ta đã phân phương pháp diễn giảng ra làm 2
cách:
- Cách 1- Diễn giảng truyền thống : Giáo viên truyền thụ kiến thức còn
học sinh lắng nghe ghi chép. Kiểm tra học sinh tái hiện lại kiến thức đã
tiếp thu. Cách này đưa lại khụôn mẫu một lớp học yên lặng chỉ nghe tiếng
giáo viên.
- Cách 2 – Diễn giảng tích cực : Giáo viên giảng theo dạng nêu vấn đề và
điều chỉnh cách hiểu của học sinh cho đúng.
1.2.2.2 Ưu, nhược điểm
a. Ưu điểm
− Giáo viên có thể giúp học sinh nắm kiến thức một cách hệ thống, rõ ràng,
chặt chẽ.
− Giáo viên chủ động về thới gian và tiết kiệm được nhiều thời gian trên
lớp.
− Không đòi hỏi phải có những phương tiện đặc biệt nhất là đối với môn
Ngữ văn.
− Giáo viên không tốn nhiều công sức cho việc chuẩn bị bài.
b. Nhược điểm
− Học sinh thụ động, không phát huy được năng lực cá nhân và sự tập trung
chú ý của học sinh sẽ giảm sút nếu giáo viên giảng giải quá dài.
− Học sinh không phải là người sẽ cùng khám phá nội dung bài học cùng
với giáo viên mà giống như một người dự giờ có ghi chép. Các em có thể
hiểu bài nhưng sẽ không thể nhớ lâu và không nắm kĩ kiến thức.
− Có một số giáo viên trong giờ giảng chỉ sử dụng một phương pháp dạy
học duy nhất và chủ yếu là diễn giảng thì kết quả học tập của học sinh sẽ
thấp.
c. Hậu quả
Giáo viên tóm tắt bài dạy trong SGK và ghi lên bảng một cách có hệ thống.
Học sinh ghi chép giống nhau đến khi kiểm tra thì tái hiện lại những gì đã ghi chép
9
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
cho nên kết quả giống nhau. Điều này dẫn đến học sinh không thể hiện được năng
lực sáng tạo của bản thân.
d. Cách khắc phục
− Phải kết hợp phương pháp diễn giảng với các phương pháp dạy học khác
để có thể làm cho giờ học hiểu quả hơn.
− Diễn giảng tích cực
Bài học
Học sinh
Giáo viên
Hình 1.1. Diễn giảng truyền thống
Bài học
Học sinh
Giáo viên
Hình 1.2. Diễn giảng tích cực
1.2.2.3 Cấu trúc phương pháp diễn giảng
Gồm 3 bước:
− Giới thiệu bài mới
− Tổ chức, hướng dẫn học sinh khám phá bài mới
− Tổng kết
10
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
a. Giới thiệu bài mới (Lời vào bài)
Là bước mở đầu tiết học có tác dụng:
- Tạo ra bầu không khí thuận lợi cho học sinh tiếp thu kiến thức
- Tạo nên tính hấp dẫn cho bài sắp dạy học sinh tạo cho các em hăng hái,
hồ hởi thì lời vào bài của giáo viên cần đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Lời văn hay, hình ảnh đẹp.
+ Tập trung vào bài sắp dạy cho học sinh không được đi xa yêu cầu nội
dung chính của bài
+ Ngắn gọn vừa phải, tiết kiệm thời gian
+ Giáo viên thuộc lòng lời vào bài đó. Cần tránh một số lời vào bài
dông dài không tập trung vào bài chính, lời vào bài không liên quan
bài mới, không khiên cưỡng máy móc tránh sáo rỗng
+ Các cách giới thiệu bài mới: rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên
chúng ta có thể giới thiệu bài mới bằng một số cách sau:
+ Giới thiệu trực tiếp nội dung bài học.
+ Giáo viên có thể giới thiệu bằng cách gợi kiến thức về tác giả, tác
phẩm, một kiến thức học sinh đã học từ trước đến kiến thức mới.
+ So sánh những điểm giống nhau hoăc khác nhau về tác giả, tác phẩm
học sinh đã được học với tác giả, tác phẩm học sinh sắp học.
+ Giáo viên có thể đặt câu hỏi về tựa đề của tác phẩm hoặc nêu lên một
số hình ảnh trong bài mà mình sắp dạy và yêu cầu học sinh cảm nhận
ban đầu về hình ảnh đó. Có thể mở đầu bằng sự kiện thời sự nếu sự
kiện đó xuất hiện trên truyền hình mà ai cũng biết.
+ Tranh ảnh, sự vật có liên quan đến bài giảng.
+ Một câu chuyện liên quan hoặc một lời nhận xét của một nhà phê bình
có uy tín bàn về tác giả, tác phẩm sắp học.
b. Tổ chức hướng dẫn học sinh khám phá bài mới
Những bài giảng được phân chia thành nhiều phần nhỏ. Giáo viên có thể
phân chia thành 2 cách (con đường tư duy):
- Con đường diễn dịch:
11
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
+ Văn học sử: Khái quát thời kì, giai đoạn văn học và các bài về tác gia.
Giáo viên tiến hành diễn dịch theo hệ thống sách giáo khoa.
+ Tác phẩm: phần văn bản nếu ý khái quát thì phân tích chi tiết
+ Tiếng Việt – Tập Làm Văn: mô hình nêu khái niệm – ví dụ - khái
niệm
- Con đường quy nạp:
+ Văn học sử: theo hệ thống sách giáo khoa.
+ Tác phẩm: phân tích rồi rút ra ý nghĩa chi tiết
+ Tiếng Việt – Tập Làm Văn: mô hình nêu ví dụ - khái niệm – ví dụ
Hiện nay bài giảng trong SGK phần lớn đòi hỏi cách dạy quy nạp, quy nạp
đem lại hiệu quả tốt hơn so với diễn dịch. Con đường diễn dịch phần lớn mang tính
áp đặt. Theo con đường quy nạp giáo viên- học sinh cùng khám phá ý nghĩa cùng
rút ra nhận xét, đánh giá.
1.2.3 Phương pháp đàm thoại
1.2.3.1 Khái niệm
“Đàm thoại là phương pháp giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi cho học
sinh trả lời hoặc trao đổi, tranh luận dưới sự chỉ đạo của giáo viên, qua đó tiếp nhận
kiến thức” [3;tr.69]. Đàm thoại là phương pháp hỏi đáp. Trong truyền thống giáo
viên hỏi còn học sinh trả lời còn theo phương pháp đàm thoại tích cực quan niệm
đàm thoại với ý nghĩa rộng hơn:
- Giáo viên hỏi – Học sinh trả lời
- Học sinh hỏi – Giáo viên trả lời
- Học sinh hỏi – Học sinh trả lời
* Vấn đề quan trọng nhất là số lượng và chất lượng câu hỏi:
- Số lượng:
+ Tính toán số lượng câu hỏi vừa phải
+ Đặc điểm bài
+ Trình độ học sinh
+ Thời lượng bài dạy
+ Sự kết hợp các phương pháp khác
12
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
- Chất lượng:
+ Tất cả các câu hỏi phải đi theo tiến trình bài dạy
+ Tính định hướng cao: đối với tác phẩm thì tập trung vào vấn đề trọng
tâm là nội dung và nghệ thuật còn đối với nhà trường phải mang tính
giáo dục.
+ Câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng và tối đa 2 ý
+ Cần cân nhắc câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh
+ Nếu là câu hỏi của học sinh thì uốn nắn nếu chứ phù hợp.
* Nhận xét: Câu hỏi trong một lời giảng có vai trò quan trọng, câu hỏi giúp
học sinh từng bước khám phá kiến thức quá trình học sinh tìm câu trả lời cho câu
hỏi giúp các em xác định thông tin đúng nhất.
1.2.3.2 Ưu nhược điểm
a. Ưu điểm
- Phát huy năng lực chủ động của học sinh trong khám phá kiến thức học
sinh luyện tập thói quen trình bày trước đám đông, tạo ra không khí tự do
trong giờ học.
- Qua câu trả lời của học sinh giáo viên có thể nắm được thông tin phản hồi
về mức độ hiểu bài của học sinh từ đó có sự điều chỉnh cần thiết. Mặt
khác giáo viên có thể nắm được tính cách, trí tuệ, tình cảm của học sinh.
- Có được không khí tâm tình, trao đổi thân mật, tạo được mối quan hệ gần
gũi giữa giáo viên – học sinh, giữa học sinh – học sinh.
b. Nhược điểm
- Tốn nhiều thời gian cho học sinh suy nghĩ và trả lời nếu giáo niên không
biết điều hành thì sẽ không đủ giờ.
- Giáo viên mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án
- Giáo viên bị đặt vào tình huống sẵn sàng trả lời những câu hỏi phát sinh
của học sinh.
c. Chú ý
- Khi nêu câu hỏi cho học sinh giáo viên cần nêu câu hỏi trước gọi học sinh
sau.
- Có thể nhắc lại câu hỏi một lần nữa
13
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
- Nếu thấy học sinh lung túng trước câu hỏi thì có thể hỏi nội dung đó bằng
một hình tức khác dành một thời gian nhất định cho học sinh suy nghĩ.
- Nên động viên, khuyến khích, gợi ý cho học sinh trả lời và luôn khen
ngợi khi học sinh trả lời đúng không nên chế giễu hay chê bai khi học
sinh trả lời sai.
1.2.3.3 Một số loại câu hỏi thường dùng trong dạy Ngữ văn
* Câu hỏi phát hiện:
Câu hỏi đòi hỏi học sinh phát hiện, xác định những chi tiết trong bài học.
Những chi tiết đó có thể là một từ ngữ hoặc là những thủ pháp mà tác giả dùng
trong tác phẩm.
Ví dụ: Những từ ngữ, chi tiết nào thể hiện tính cách của nhân vật?
* Câu hỏi yêu cầu phân tích, giải thích, suy luận:
Đây là loại câu hỏi giúp học sinh khám phá biểu tượng trong tác phẩm hoăc ý
tại ngôn ngoại trong tác phẩm văn học. Loại câu hỏi đòi hỏi mức độ cao hơn so với
câu hỏi phát hiện. Loại câu hỏi này đòi hỏi học sinh phân tích, suy luận tìm ra ý
nghĩa hình ảnh hoặc câu trong tác phẩm. Nó cũng có thể giúp học sinh phân tích cấu
trúc tác phẩm nhận biết tính cách nhân vật qua ngoại hình, ngôn ngữ, hành động.
Ví dụ: Tác phẩm được chia làm mấy đoạn? Cách sắp xếp các đoạn thể hiện
dụng ý nghệ thuật gì của tác giả?
* Câu hỏi khái quát:
Đây là loại câu hỏi rèn luyện khả năng khái quát vấn đề của học sinh. Giáo
viên có thể yêu cầu học sinh tóm tắt một phần nội dung đã học rút ra bài học, nhận
biết quan điểm thái độ của tác giả đặt ra trong tac phẩm, cuộc đời của tác giả với nội
dung của tác phẩm
Ví dụ: Theo em chủ đề tác phẩm này là gì? Qua hình tượng nhân vật này nhà
văn muốn nói lên điều gì?
Dạng câu hỏi này thường được sử dụng khi giáo viên trình bày xong một vấn
đề hay xong cả bài giảng nhằm rèn luyện năng lực tổng hợp kiến thức cho học sinh
để củng cố kiến thức vừa học
1.2.3.4 Tiêu chí phân loại câu hỏi
Tùy vào mục đích, yêu cầu nội dung vấn đề đòi hỏi học sinh khám phá mà
giáo viên có thể sử dụng các loại câu hỏi khác nhau.
14
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
1.2.4 Phương pháp trực quan
1.2.4.1 Khái niệm
“Phương pháp trực quan là một trong những phương pháp dạy học cơ bản”
[3;76] Phương pháp trực quan là phương pháp có vai trò quan trọng trong giờ dạy.
Con người chúng ta tiếp nhận thông tin từ rất nhiều kênh: thị giác, khứu giác, thính
giác, xúc giác…nhưng trong nhà trường lại đề cao thị giác mà ít quan tâm đến thính
giác nhưng thị giác lại đóng vai trò hết sức quan trọng trong tiếp nhận tri thức.
Người ta đã thống kê tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học:
NGHE
20%
NHÌN
NGHE VÀ NHÌN
NÓI
LÀM
50%
80%
90%
30%
Vì vậy cần chú trọng phương pháp trực quan.
1.2.4.2 Các phương tiện trực quan có thể sử dụng
* Tranh ảnh, mẫu vật
Giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh mẫu vật trong giờ dạy học Ngữ văn vì
trong giờ Ngữ văn học sinh phải liên tưởng và tưởng tượng. Học sinh sẽ tiếp thu
kiến thức liên tưởng và tưởng tượng tốt hơn khi nhìn thấy nhưng nó phải đạt yêu
cầu thẩm mĩ để khơi gợi cảm xúc. Có thể sử dụng một số tranh ảnh sau:
- Tranh vẽ và ảnh chụp: Ví dụ: Chân dung nhà văn, tranh ảnh về thôn Vĩ,
ảnh lầu Hoàng Hạc…
- Mẫu vật giáo viên có thể lấy từ các nguồn:
+
Giáo viên tự sưu tầm phục vụ cho việc giảng dạy của mình, yêu cầu
học sinh sưu tầm theo khả năng xem như bài tập nhóm có tác dụng
rèn luyện học sinh sưu tầm tài liệu, ý thức học tập nâng cao, lĩnh hội
bài học, tri thức tốt hơn. Tránh giao học sinh sưu tầm những vật quá
sức, quá tốn tiền.
+
Giáo viên có thể tự làm lấy phương tiện dạy học trong khả năng của
mình.
+
Lấy ở trên mạng Internet
* Phương tiện nghe nhìn
15
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
- Sử dụng mức độ vứa phải nếu lạm dụng sẽ không phù hợp với Ngữ Văn.
- Có thể sử dụng các phương tiện sau đây:
+
Băng catset
+
Projector, overhead
* Sử dụng biểu bảng, mô hình
Sử dụng biểu bảng, mô hình, sơ đồ trong môn Ngữ văn sẽ có nhiều ưu thế. Sơ
đồ, biểu bảng mang tính khái quát rất cao vì vậy khi sử dụng giáo viên sẽ tiết kiệm
được nhiều thời gian và học sinh có thể nắm nội dung dễ dàng hơn.
- Bảng:
+ Tổng kết giai đoạn văn học
Những đặc điểm cơ bản
Các giai đoạn
+
Nhịp độ phát
triển
Thành tựu văn học
Các xu hướng
văn học
Nội dung
Nghệ thuật
Khái quát tính cách nhân vật
Chí Phèo
Thị Nở
Bá Kiến
16
Lí Cường
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
- Sơ đồ cấu trúc:giúp học sinh nhớ sơ đồ cấu trúc câu , sơ đồ khuyết…
Tính cách Chí Phèo
sau khi đi tù về
Liều lĩnh
Tất cả các hình thức sử dụng trong trực quan chỉ là gợi ý người giáo viên cần
sáng tạo nghĩ ra các phương tiện khác để đem lại hiệu quả giảng dạy cao nhất.
1.2.4 Phương pháp thảo luận nhóm
1.2.4.1 Khái niệm
“Hợp tác là một hình thức tổ chức dạy học trong đó nhóm học sinh cùng nhau
giải quyết các nhiệm vụ học tập do giáo viên nêu ra, từ đó rút ra bài học dưới sự
hướng dẫn của giáo viên” [5;2]. Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp được
sử dụng khá phổ biến ở nhà trường phổ thông. Hình thức tổ chức dạy học này thiết
lập được mối quan hệ giữa giáo viên – học sinh – học sinh rất khăng khít. Học sinh
khám phá kiến thức và tự rút ra kết luận cuối cùng. Giáo viên chỉ đóng vai trò là
người hướng dẫn còn học sinh là người trực tiếp khám phá kiến thức. Vai trò giữa
các thành viên trong nhóm là ngang nhau, tất cả các thành viên đều được phân công
nhiệm vụ trong quá trình giải quyết nhiệm vụ được giao.
1.2.4.2 Các loại hình nhóm
Giáo viên chia nhóm hoặc chỉ định một cách ngẫu nhiên: nhóm cố định và
nhóm không cố định.
17
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
- “Nhóm cố định là loại hình nhóm hoạt động cùng nhau trong suốt thời
gian một tuần hoặc vài tuần thậm chí một học kì có nhiệm vụ thực hiện
một bài tập lớn phức tạp mang tính nghiên cứu” [5; 10].
- “Nhóm không cố định là loại hình nhóm gồm những học sinh cùng nhau
làm việc từ vài phút đến một tiết và có thể thành lập nhiều lần trong một
giờ học số lượng thành viên trong nhóm là 3 hay 4,5 tùy thuộc vào số
lượng học sinh trong lớp” [5; 11].
- Nhóm không cố định có hai loại hình nhóm : nhóm 2 học sinh và nhóm 4
đến 5 học sinh, nhóm kim tự tháp, nhóm ghép và nhóm trà trộn. Khi chia
nhóm giáo viên cần chú ý đến độ khó của bài tập, dung lượng kiến thức,
thời gian thảo luận để có thể chia nhóm cho phù hợp.
Quá trình thảo luận gồm có 5 bước cơ bản:
- Bước 1: Giáo viên chia nhóm học sinh.
- Bước 2: Giáo viên giao bài tập và quy định thời gian thảo luận.
- Bước 3: Học sinh thảo luận giáo viên quan sát hướng dẫn.
- Bước 4: Nhóm cử đại diện trình bày kết quả.
- Bước 5: Giáo viên cùng học sinh tiến hành nhận xét đánh giá kết quả và
rút ra kết luận.
Trước khi tiến hành thảo luận nhóm giáo viên cần phải xây dựng câu hỏi thảo
luận. Tùy theo mục đích thảo luận, nội dung bài học mà giáo viên cần xây dựng câu
hỏi phù hợp, cụ thể. Khi xây dựng câu hỏi giáo viên cần lưu ý:
- Câu hỏi phải mang tính chất gợi mở, định hướng cho học sinh khám phá
kiến thức.
- Câu hỏi phải xoay quanh trọng tâm bài học.
- Câu hỏi phải vứa sức đối với học sinh.
- Câu hỏi phải phù hợp với thời gian thảo luận.
- Câu hỏi phải có vấn đề bắt buộc học sinh phải động não suy nghĩ, phải tư
duy song phải không quá khó đối với học sinh.
- Câu hỏi giao cho các nhóm phải có độ dài và độ khó đồng đều nhau.
Hiện nay phương pháp thảo luận nhóm không còn xa lạ đối với cả giáo viên
và học sinh ở nhà trường phổ thông bởi những ưu điểm vốn có ở phương pháp
này.Tuy nhiên không có phương pháp nào là toàn diện cả và phương pháp thảo luận
18
Chương 1: Cơ Sở Lý Thuyết
nhóm cũng vậy, phương pháp này vẫn còn tồn tại những nhược điểm. Vì vậy cần
phải phối hợp phương pháp thảo luận nhóm với các phương pháp khác để giờ học
hiệu quả hơn và tránh đơn diệu trong giờ học.
Tuy nhiên để có thể dạy - học văn một cách hiệu quả cần phải áp dụng đồng
bộ các phương pháp khác nhau. Thật không dễ dàng để có một phương pháp nào
toàn vẹn, thỏa mãn được tất cả các học sinh, các yêu cầu dạy và học văn.
1.3 Phương pháp tổ chức dạy học
Phương pháp tổ chức dạy học là cách thức giáo viên tiến hành tổ chức hướng
dẫn và điều khiển học sinh tìm hiểu nội dung bài học trong quá trình dạy học bằng
cách lựa chọn và phối hợp sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau.
19
Chương 2: Tìm hiểu chung về thực trạng dạy Ngữ Văn ở trường THPT
CHƯƠNG 2
TÌM HIỂU CHUNG VỀ THỰC TRẠNG
DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT
2.1 Những khó khăn và thuận lợi đối với việc dạy học Ngữ Văn ở trường
THPT hiện nay
2.1.1 Thuận lợi
Hiện nay ở các trường phổ thông đa số giáo viên và học sinh đều đã và đang
được tiếp cận với các Phương pháp dạy học tích cực.Và giáo viên đã từng bước áp
dụng các phương pháp dạy học tích cực ấy vào trong giảng dạy. Điều đó làm cho
việc dạy và học Ngữ Văn ở trường phổ thông trở nên hứng thú hơn đối với học sinh
đồng thời cũng giúp giáo viên giảng dạy dễ dàng và hiệu quả hơn. Qua đó phát huy
được năng lực sáng tạo của cả giáo viên và học sinh. Do phương pháp dạy học Ngữ
Văn đã dần hạn chế các tiết học Ngữ Văn được tổ chức giảng dạy theo phương pháp
truyền thống nghĩa là giờ Ngữ Văn truyền tải kiến thức một chiều, đọc chép những
gì có sẵn từ giáo án. Sự tham gia khám phá tìm hiểu từ bài học mới gần như không
có. Nhưng khi giáo viên áp dụng các phương pháp dạy học Ngữ Văn tích cực vào
trong việc tổ chức giảng dạy sẽ giúp học sinh chủ động tìm hiểu khám phá kiến thức
mới, đóng góp ý kiến tham gia xây dựng bài tứ chính sự cảm thụ của bản thân học
sinh. Giáo viên đóng vai trò định hướng cho học sinh tìm hiểu kiến thức mới. Sự
tương tác hai chiều làm cho giờ học Ngữ văn hiệu quả hơn không còn nhàm chán,
buồn ngủ, “khó trôi” nữa.
Cùng với sự đổi mới về phương pháp dạy học là sự thay đổi chương trình
sách giáo khoa ngày càng hoàn thiện hơn về cả nội dung và hình thức. Những câu
hỏi tìm hiểu nội dung bài mới cũng dần thay đổi mang tính chất định hướng khơi
gợi năng lực cảm thụ của học sinh và đang dần phù hợp với các phương pháp dạy
học mới.
2.1.2 Khó khăn
20
- Xem thêm -