LUẬN VĂN:
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu
dùng ở Việt Nam
lời nói Đầu
Gía cả ra đời khi có sự trao đổi, mua bán hàng hoá trên thị trường. Trong nền
kinh tế thị trường, giá cả là một trong những công cụ điều tiết nền kinh tế.
Gía cả luôn biến động lên, xuống phức tạp kéo theo sự thay đổi mọi mặt của nền
kinh tế xã hội. Do vậy, việc phân tích sự biến động của giá cả là rất cần thiết, tìm ra
nguyên nhân của sự biến động giá cả, giúp Nhà nước có những chính sách, biện pháp
điều tiết giá cả cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời
kỳ.
Để phân tích sự biến động của giá cả, cần phải tính chỉ số giá trong đó có chỉ số
giá tiêu dùng.
Ngoài tác dụng phản ánh sự biến động của giá tiêu dùng, chỉ số giá tiêu dùng còn
là công cụ để đo lường tỷ lệ lạm phát, là cơ sở để đánh giá mức sống dân cư...
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tính chỉ số giá nói chung và chỉ số giá
tiêu dùng nói riêng. Trong thời gian thực tập tại Cục thống kê Bắc Ninh em đã chọn đề
tài: “ Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam”, để viết luận văn tốt
nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương I: Những vấn đề lí luận chung về chỉ số giá và chỉ số giá tiêu
dùng
- Chương II: Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam
Chương III: Vận dụng phương pháp chỉ số giá tiêu dùng ở Cục Thống kê
Bắc Ninh
Chương I
Những vấn đề chung về chỉ số giá cả
và chỉ số giá tiêu dùng
i- Giá cả và các loại giá ở Việt Nam hiện nay
1. Khái niệm giá cả
Giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan, ra đời và phát triển cùng với sự ra
đời và phát triển của sản xuất hàng hóa. Mỗi một giai đoạn, một thời kỳ có những khái
niệm khác nhau về giá cả.
Trong điều kiện sản xuất hàng hoá giản đơn, giá cả chỉ phản ánh giá trị của sản
xuất hàng hoá và được định nghĩa như sau:
Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith và D. Ricardo cho rằng: giá trị thực
hiện (hay còn gọi là giá cả như hiện nay) là biểu hiện bằng tiền của giá trị tự nhiên
(hiện nay gọi là giá trị hàng hoá).
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac- Lênin đã kế thừa và phát huy tư tưởng
đó và đưa ra khái niệm: Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.
Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển, phạm vi giá cả được mở rộng, giá
cả không chỉ đơn thuần là giá trị hàng hoá mà nó còn là tổng hoà của nhiều mối quan
hệ kinh tế xã hội như: cung, cầu hàng hoá, tích luỹ và tiêu dùng trong, ngoài nước...
Giá cả là ngôn ngữ trong trao đổi, mua bán hàng hoá. Thông qua giá cả quan
hệ mua bán được xác lập, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa người mua và người bán
được giải quyết.
Giá cả là tiêu chuẩn để các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vực, phương án kinh
doanh hiệu quả và nó là công cụ để các doanh nghiệp thực hiện cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác.
Giá cả là công cụ phản ánh thực trạng nền kinh tế. Khi thị trường giá cả ổn
định, sẽ góp phần ổn định sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Ngược lại giá cả không ổn
định sẽ dẫn đến nền kinh tế bất ổn định. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm đến vấn đề giá cả, đưa ra những biện pháp nhằm điều chỉnh giá cả cho phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta trong từng thời kỳ.
Như vậy, giá cả là một phạm trù kinh tế đã “ăn sâu” vào “máu” của mọi quan
hệ mua, bán, trao đổi hàng hoá từ đơn giản đến phức tạp. Giá cả đi vào từng người,
từng nhà, từng cơ quan, xí nghiệp, từng ngành và tyừng quốc gia.
2. Các loại giá ở Việt Nam hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá và dịch vụ trên thị trường ngày càng
phong phú và đa dạng về chủng loại, quy cách, phẩm chất. Mỗi loại hàng hoá và dịch
vụ, mỗi nhóm hàng hoá và dịch vụ đều có giá cả riêng. Căn cứ vào tính chất kinh tế và
yêu cầu quản lí, hiện nay giá cả được chia làm 6 loại:
Giá tiêu dùng,
Giá bán sản phẩm của người sản xuất,
Giá bán vật tư cho sản xuất,
Giá cước vận tải hàng hoá,
Giá xuất, nhập khẩu hàng hoá,
Giá vàng và ngoại tệ.
a. Giá tiêu dùng (giá sử dụng cuối cùng)
Giá tiêu dùng là giá mà người tiêu dùng mua hàng hoá và chi trả các dịch vụ
phục vụ trực tiếp cho đời sống hàng ngày, được biểu hiện bằng giá bán lẻ hàng hoá
trên thị trường và dịch vụ phục vụ sinh hoạt, đời sống dân cư, không bao gồm giá hàng
hoá cho sản xuất và các công việc có tính chất sản xuất kinh doanh.
b. Giá bán sản phẩm của người sản xuất (giá sản xuất)
Giá sản xuất là giá mà người sản xuất trực tiếp bán sản phẩm của mình trên thị
trường. Giá sản phẩm của người sản xuất chia làm hai loại:
Giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm, thuỷ sản,
Giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp.
c. Giá bán vật tư cho sản xuất (giá cả sử dụng trung gian)
Giá bán vật tư cho sản xuất là giá của tổ chức kinh doanh vật tư bán trực tiếp
cho người sản xuất để sản xuất, chế biến ra sản phẩm. Theo quy định của Tổng cục
Thống kê, giá cả này không bao gồm chi phí vận chuyển và chi phí khác.
d. Giá cước vận tải hàng hoá
Giá cước vận tải hàng hoá là giá cước mà người thuê vận chuyển hàng hoá trả
cho các đơn vị vận tải hàng hoá. Nó được xác định thông qua sự thoả thuận miệng
hoặc thoả thuận dưới hình thức hợp đồng vận chuyển hàng hoá giữa các đơn vị vận tải
hàng hoá và chủ hàng hoá.
e. Giá xuất, nhập khẩu
Giá xuất khẩu là giá Việt Nam trực tiếp bán hàng hoá cho các tổ chức nước
ngoài, tính bằng ngoại tệ và được tính theo điều kiện giao hàng tại biên giới Việt Nam
(giá FOB) khi không muốn tính đến xuất khẩu dịch vụ vận tải, bảo hiểm...và tính theo
điều kiện tại biên giới nước nhập (giá CIF) nếu muốn tính cả xuất khẩu dịch vụ vận tải,
bảo hiểm...
Giá nhập khẩu là giá nước ta mua hàng hoá trực tiếp của nước ngoài, tính bằng
ngoại tệ và tính theo điều kiện giao hàng tại biên giới Việt Nam (giá CIF) nếu muốn
tính đến nhập khẩu dịch vụ vận tải, bảo hiểm... và theo điều kiện biên giới nước xuất
(giá FOB) nếu không muốn tính đến nhập khẩu dịch vụ vận tải, bảo hiểm ...
f. Giá vàng và ngoại tệ
Vàng là hàng hoá đặc biệt có giá cả riêng. Giá cả của hàng hoá đặt biệt này thể
hiện giá trị của nó tại thời điểm đang xét, là giá trị của lao động kết tinh trong hàng
hoá này. Trên thị trường, giá vàng là giá mà tổ chức tư nhân hay nhà nước bán ra tại
một thời điểm nhất định.
Giá ngoại tệ cũng được coi là hàng hoá đặc biệt và có giá cả riêng. Giá ngoại tệ
trên thị trường hàng hoá là giá bán ngoại tệ của các tổ chức tư nhân và Nhà nước.
Việc phân chia giá cả làm 6 loại như trên là hết sức cần thiết và rất khoa học,
giúp cho công tác thu thập giá cả ở nước ta hiện nay dễ dàng , có hệ thống, góp phần
nâng cao hiệu quả của công tác thống kê giá cả và quản lí của Nhà nước về giá cả.
II. CHỉ số giá cả
1. Khái niệm chỉ số giá cả và hệ thống chỉ số giá cả ở nước ta hiện nay
1.1. Khái niệm chỉ số giá cả
Chỉ số giá cả là chỉ tiêu tương đối (được tính bằng lần hoặc %), là chỉ tiêu phản
ánh sự biến động giá cả qua các khoảng thời gian khác nhau (tuần, tháng, quý, năm)
hoặc qua các vùng không gian khác nhau (vùng, địa phương, quốc gia, khu vực...).
1.2. Hệ thống chỉ số giá hiện nay
Theo quyết định số 302/TCTK – QĐ ngày 30 tháng 10 năm 1995 của Tổng cục
thống kê, hệ thống chỉ số giá ở Việt Nam bao gồm 6 loại:
+ Chỉ số giá tiêu dùng,
+ Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất,
+ Chỉ số giá bán vật tư cho sản xuất,
+ Chỉ số giá cước vận tải hàng hoá,
+ Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá và chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá,
+ Chỉ số giá vàng và ngoại tệ.
* Chỉ số giá tiêu dùng: là chỉ tiêu tương đối phản ánh xu hướng và mức độ biến
động của giá tiêu dùng hàng hoá , dịch vụ phục vụ cho sinh hoạt đời sống cá nhân và
gia đình. Chỉ số giá tiêu dùng được tính từ giá bán lẻ hàng hoá và giá dịch vụ phục vụ
cho nhu cầu dân cư của tất cả các thành phần kinh tế.
* Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất: bao gồm chỉ số giá bán sản
phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản và chỉ số giá bán sản
phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp.
Chỉ số bán sản phẩm của người sản xuất là chỉ tiêu tương đối, phản ánh xu
hướng và mức độ biến động của giá bán ra các sản phẩm của người sản xuất hàng
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và hàng công nghiệp.
* Chỉ số giá bán vật tư cho sản xuất: là chỉ tiêu tương đối phản ánh xu hướng
và mức độ biến động của giá bán vật tư cho sản xuất.
* Chỉ số giá cước vận tải hàng hoá: là chỉ tiêu tương đối, phản ánh xu hướng và
mức độ biến động của giá cước vận tải hàng hoá (chỉ số này đã bao gồm trong chỉ số
giá tiêu dùng).
* Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá và chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá:
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá: là chỉ tiêu tương đối, phản ánh xu hướng và
mức độ biến động của giá xuất khẩu hàng hoá.
Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa là chỉ tiêu tương đối, phản ánh xu hướng và mức
độ biến động của giá nhập khẩu hàng hoá.
* Chỉ số giá vàng và ngoại tệ: Chỉ số giá vàng là chỉ tiêu tương đối phản ánh xu
hướng và mức độ biến động của giá vàng. Giá vàng thống nhất trong cả nước là giá
bán ra của vàng 99,9%.
Chỉ số giá ngoại tệ là chỉ tiêu tương đối, phản ánh xu hướng và mức độ biến
động của giá ngoại tệ. Giá đô la Mỹ là giá đại diện được thu thập để tính chỉ số giá
ngoại tệ.
Mỗi loại chỉ số giá đều có mục đích và ý nghĩa riêng nhưng chúng đều là công
cụ hữu hiệu để phân tích sự biến động của giá cả hàng hoá và dịch vụ.
2. Sự cần thiết khách quan của việc tính chỉ số giá cả
Chỉ số giá là một trong những chỉ tiêu quan trọng cả trong lĩnh vực vi mô lẫn
lĩnh vực vĩ mô.
2.1. Trong lĩnh vực vi mô
Chỉ số giá là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà sản xuất kinh
doanh và người tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp, mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận nên bất cứ doanh
nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh cũng đều quan tâm đến các vấn đề như:
lựa chọn mặt hàng, hạch toán chi phí, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh... chỉ số
giá là chỉ tiêu giúp các doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng kinh doanh và đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
Nhìn vào chỉ số giá có thể biết được tốc độ tăng giảm của giá cả các loại hàng
hoá và dịch vụ. Các doanh nghiệp thường so sánh tốc độ tăng giảm của giá cả các loại
hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn mặt hàng kinh doanh sao cho có lợi nhất.
Chỉ số giá giúp các doanh nghiệp đánh giá chính xác hiệu quả của sản xuất kinh
doanh. Nhìn và chỉ số giá , doanh nghiệp biết được mức giá mà doanh nghiệp dự kiến
có sát với giá cả thị trường hay không, từ đó có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Chỉ số giá có liên quan đến các quyết định đầu tư vào sản xuất kinh doanh của
các chủ đầu tư. Khi chỉ số giá tăng hoặc giảm nhiều, thị trường giá cả bất ổn định, các
chủ đầu tư trong và ngoài nước hạn chế đầu tư cho sản xuất kinh doanh vì mức độ rủi
ro cao. Ngược lại, khi chỉ số giá giao động nhẹ, thị trường giá cả ổn định thì đầu tư cho
sản xuất kinh doanh lại tăng lên.
Đối với người tiêu dùng, họ sẽ theo dõi chỉ số giá để quyết định mua mặt hàng
nào, thay thế tiêu dùng một mặt hàng nào đó bằng mặt hàng nào, với số lượng bao
nhiêu thì có lợi nhất. Ngoài ra, dựa vào công thức: Lãi thực = lãi suất tiền gửi - tỉ lệ
lạm phát, người tiêu dùng sẽ xem xét có nên gửi tiền tiết kiệm hay không và gửi vào
thời điểm nào thì có lãi.
2.2. Trong lĩnh vực vĩ mô
Chỉ số giá là chỉ tiêu phản ánh thực trạng của nền kinh tế, nhìn vào chỉ số giá ta
có thể biết được thị trường giá cả có ổn định hay không. Khi chỉ số giá giao động nhẹ
có nghĩa thị trường giá cả ổn định, mức độ rủi ro trong kinh doanh thấp, đầu tư tăng
lên, sản xuất kinh doanh trong nước phát triển. Ngược lại, khi giá cả giao động mạnh,
rủi ro trong kinh doanh lớn làm hạn chế đầu tư cho sản xuất kinh doanh dẫn đến chênh
lệch giữa cung và cầu lớn, nền kinh tế bất ổn định.
Chính phủ cũng như các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương luôn theo
dõi chỉ số giá cả , nắm bắt kịp thời mức độ biến động của giá cả và đưa ra các biện
pháp điều chỉnh, làm cho quá trình sản xuất và trao đổi của xã hội diễn ra theo quy
luật của nó một cách có ý thức.
Chỉ số giá là một trong những cơ sở để xây dựng kế hoạch và chiến lược phát
triển kinh tế, đặc biệt là kế hoạch thu chi ngân sách, tài chính và ổn định giá cả:
Đối với thu chi ngân sách, Nhà nước ta luôn đặt ra mục tiêu tăng thu giảm chi
và thực hiện chi ngân sách đạt hiệu quả. Căn cứ vào chỉ số giá cả Nhà nước ta tiến
hành:
+ Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực đem lại hiệu quả cao, hạn chế và khắc
phục những lĩnh vực đầu tư kém hiệu quả.
+ Điều chỉnh giá đầu vào buộc các doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm vật tư,
tăng cường quản lí để giảm chi phí, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh trên
thị trường trong và ngoài nước.
+ Đổi mới chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, kiên quyết chống buôn
lậu.
+ Điều chỉnh tốc độ tăng lương phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số
lạm phát và tốc độ tăng năng suất lao động nhằm khuyến khích người lao động tăng
năng suất lao động.
+ Dùng một phần ngân sách nhà nước để khuyến phát triển kinh tế miền núi,
nông thôn, nâng cao mức sống của họ, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông
thôn.
ổn định giá cả là một trong những mục tiêu lớn của nước ta. Giá cả ổn định sẽ
khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. Căn cứ vào chỉ số giá, Nhà nước ta tiến
hành nhiều biện pháp tác động đến giá cả thị trường như:
+ Kiềm chế và đẩy lùi lạm phát bằng việc quản lí chặt chẽ khối lượng tiền trong
lưu thông,
+ Sử dụng quỹ bình ổn giá cả để hỗ trợ lãi vay ngân hàng, dự trữ lưu thông
hàng hoá đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu để giữ cho giá cả không xuống
quá thấp khi trong mùa thu hoạch và quá cao khi giáp vụ.
Tầm quan trọng của chỉ số giá đã khẳng định việc tính toán và công bố chỉ số
giá là rất cần thiết và quan trọng. Công việc này cần được tiến hành chính xác và
thường xuyên, liên tục.
3. Các phương pháp tính chỉ số giá
Ngay từ thế kỉ XVI, người ta đã dùng phương pháp tính chỉ số để phân tích biến
động giá cả. Tuy nhiên, phương pháp tính chỉ số giá không hoàn chỉnh ngay từ đầu mà
nó được phát triển và hoàn thiện dần, phương pháp sau hình thành trên cơ sở kế tục,
khắc phục nhược điểm của phương pháp trước.
Trước khi đưa ra phương pháp tính chỉ số giá, ta phải phân loại chúng. Có 2
cách phân loại chỉ số giá:
- Theo phạm vi tính toán, chỉ số giá được phân thành: chỉ số đơn về giá cả và
chỉ số tổng hợp về giá cả.
- Theo đối tượng chỉ số phản ánh, chỉ số giá được phân thành: chỉ số phát triển,
chỉ số không gian và chỉ số kế hoạch về giá cả.
3.1. Chỉ số phát triển của giá cả
3.1.1. Chỉ số đơn
Chỉ số đơn về giá cả là chỉ số phản ánh sự biến động của giá cả từng mặt hàng
hoặc dịch vụ trên thị trường.
Công thức tính:
ip =
Trong đó:
po
(1)
p1
+ ip là chỉ số đơn về giá cả
+ p1 là giá cả kỳ nghiên cứu
+p0 là giá cả kỳ gốc
+ ip > 1 có nghĩa là giá cả hàng hoá nào đó kỳ nghiên cứu tăng so với kỳ gốc
và ngược lại với ip < 1 .
Ví dụ:
Ip =
4.5
3
= 1.5 lần hay 150%, có nghĩa là giá cả hàng hoá A kỳ
nghiên cứu so với kỳ gốc tăng 50%.
3.1.2. Chỉ số tổng hợp
Chỉ số đơn về giá cả không phản ánh được sự biến động giá cả của toàn bộ
hàng hoá trên thị trường. Vì vậy, ta phải tính chỉ số tổng hợp về giá cả hàng hoá.
Khái niệm: Chỉ số tổng hợp về giá cả là chỉ số phản ánh sự biến động chung
của giá cả các mặt hàng và dịch vụ đại diện trên thị trường. Ký hiệu: Ip.
+Ip > 1 nói lên giá cả chung kỳ nghiên cứu tăng so với kỳ gốc và ngược lại với
Ip < 1.
Ví dụ: Ip = 1.3 nói lên giá cả chung kỳ nghiên cứu tăng 30% so với kỳ gốc. Ta
không thể tính: Ip =
p1
ip
=
n
po
vì nó đều không chú ý đến lượng hàng hoá
tiêu thụ khác nhau của các loại hàng hoá mà sự khác nhau này có ảnh hưởng khác
nhau đến sự biến động chung của giá cả.
Để tính chỉ số tổng hợp về giá cả, ta cần chọn quyền số thích hợp.
Quyền số là một nhân tố cố định, nó giống nhau cả ở tử và mẫu số.
Ví dụ:
D=pxq
Trong đó:
+ D: là doanh số
+ p: là giá cả hàng hoá
+ q: là lượng hàng hoá .
Doanh số chịu tác động của giá và lượng. Do đó để nghiên cứu sự biến động
của nhân tố giá thì ta phải cố định nhân tố lượng hàng hoá tiêu thụ ở một thời kỳ nhất
định. Vậy lượng hàng hoá tiêu thụ là quyền số của chỉ số tổng hợp về giá cả.
Tuỳ theo việc lựa chọn thời kỳ quyền số mà chúng ta có các chỉ số tổng hợp về
giá sau:
a. Chỉ số tổng hợp về giá cả của Laspayres
Năm 1871, nhà kinh tế học Laspayres đưa ra công thức:
IpL
=
p1q0
p0q0
(2)
Trong đó:
+ p1 : giá cả kỳ nghiên cứu
+ p0 : giá cả kỳ gốc
+ q0 : lượng tiêu thụ kỳ gốc
+ p1q0 : là tổng doanh thu kỳ nghiên cứu tính theo lượng kỳ gốc
+ p0q0 : Tổng doanh thu kỳ gốc
Chỉ số này nói lên ảnh hưởng của giá cả tới doanh thu với quyền số là lượng
hàng hóa tiêu thụ kỳ gốc. Nếu ta lấy tử số trừ đi mẫu số của công thức (2) thì ta sẽ có
lượng tăng hoặc giảm tuyệt đối của doanh thu tính theo lượng kỳ gốc.
Như ta đã biết:
(2)
ip =
ip.p0q0
=
p0.q0
p1
po
ip.do
=
ip D0
100
p = ip p 0
(3)
với do =
(4)
với Do =
poqo
p0.q0
poqo
x 100
p0.q0
d0: là tỷ trọng (hay kết cấu) doanh thu kỳ gốc, đơn vị tính lần.
D0: là tỷ trọng (hay kết cấu) doanh thu kỳ gốc, đơn vị tính %.
Nhược điểm của phương pháp này là lấy quyền số là lượng kỳ gốc nên chưa
phản ánh sát thực tế về lượng tiêu thụ từng mặt hàng đại diện cũng như kết cấu hàng
hoá tiêu dùng thực tế năm nghiên cứu, mà hàng năm thì lượng tiêu dùng từng mặt
hàng cũng như kết cấu tiêu dùng của chúng có sự thay đổi và sự thay đổi này có liên
quan đến giá cả, chẳng hạn: khi giá tăng thì sức mua giảm (hay lượng hàng hoá tiêu
thụ giảm) và ngược lại khi giá giảm thì sức mua tăng (hay lượng hàng hoá tiêu thụ
tăng)... Mặt khác, nếu ta lấy tử trừ mẫu số ta sẽ được lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối
của doanh thu kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc tính theo lượng kỳ gốc chứ không tính theo
lượng kỳ nghiên cứu nên không phản ánh chính xác lượng tăng giảm thực tế của doanh
thu đó.
b. Chỉ số tổng hợp về giá cả của Pasche
Năm 1871, nhà kinh tế học người Đức Pasche đưa ra công thức
IpP =
p1q1
p0q1
(5)
Trong đó :
+ p1q1 : là tổng doanh thu kỳ nghiên cứu .
+ p0q1 : Tổng doanh thu kỳ gốc tính theo lượng kỳ nghiên cứu .
Chỉ số này nói lên ảnh hưởng của giá cả với quyền số là lượng hàng hoá tiêu
thụ kỳ nghiên cứu.
Với
(5)
p1q1
=
p1q1
ip
1
do
io
=
100
D1
ip
po =
(6)
(7)
p1
ip
Với do =
Với Do =
p1q1
p1q1
p1q1
x 1
p1q1
Trong đó:
d0 : là tỷ trọng ( kết cấu) doanh thu kỳ nghiên cứu tính bằng lần.
Do: là tỷ trọng ( kết cấu) doanh thu kỳ nghiên cứu tính bằng %.
Chỉ số Laspeyres và chỉ số Paasche theo tư duy lô gíc khác nhau: chỉ số
Laspeyres so sánh giá cả hai kỳ khác nhau theo lượng tiêu thụ kỳ gốc còn chỉ số
Paasche so sánh giá cả hai kỳ khác nhau theo lượng tiêu thụ kỳ nghiên cứu.Trước đây,
ta hay dùng công thức Laspeyres vì nó không đòi hỏi phải tính ngay p1.q1 và thường
sẵn có khối lượng kỳ gốc. Nhưng giờ đây, khi máy tính đã hoàn thiện, người ta hay
dùng công thức Paasche, nó có tính hiện thực hơn vì khi sử dụng quyền số là lượng kỳ
nghiên cứu thì hệ thống quyền số thường xuyên phải thu thập, tính toán nên sát với
thực tế hơn, phản ánh đúng kết cấu hàng hoá tiêu dùng thực tế của dân cư hơn. Khi ta
lấy tử trừ đi mẫu thì sẽ phản ánh đúng thực tế lượng tăng hoặc giảm tuyệt đối của
doanh thu kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc.
Tuy nhiên, việc tính theo công thức này trong thực tế lại gặp khó khăn đó là
trong phạm vi nghiên cứu rộng ( tỉnh, thành phố, cả nước) việc tính chỉ số giá trong
thời gian ngắn khó đảm bảo tính kịp thời trong công tác nghiên cứu biến động giá cả
và đòi hỏi khối lượng công việc tăng lên vì phải thu thập giá cả thường xuyên do đó
tốn thời gian, công sức và chi phí hơn.
c. Chỉ số tổng hợp về giá cả của Fisher
Một hạn chế của hai công thức trên mà Fisher phát hiện là nó không có tính
nghịch đảo và tính liên hoàn. Để khắc phục nhược điểm này, Fisher đề nghị dùng công
thức:
IPF =
p1q1 p1q0
x
p0q1 p0q0
(8)
Chỉ số này là trung bình nhân của hai chỉ số Laspayres và chỉ số Passche. Nó
được sử dụng khi hai chỉ số: Laspayres và Passche có sự chênh lệch quá lớn như chỉ số
Laspayres lớn hơn 1 còn chỉ số Passche nhỏ hơn 1 hoặc ngược lại.
Tuy nhiên, điểm hạn chế của công thức này là chỉ quan tâm đến những tiêu
chuẩn toán học mà quên đi nội dung kinh tế và nó cũng mắc phải hạn chế như công
thức (5) đó là gặp phải khó khăn trong khâu tính toán hệ thống quyền số kỳ báo cáo ở
phạm vi rộng. Hơn nữa, chỉ số này cũng không có ý nghĩa kinh tế nên ít được sử dụng.
Hiện nay, hai công thức tính chỉ số giá của: Laspayres và Passche vẫn được các nước
trên thế giới sử dụng phổ biến hơn.
3.2. Chỉ số không gian về giá cả
3.2.1. Chỉ số đơn
Khái niệm: Chỉ số không gian đơn về giá cả là chỉ số phản ánh sự khác nhau về
giá cả của một mặt hàng ở hai loại thị trường khác nhau.
Công thức tính:
ip(A/B) =
pA
pB
(9)
Trong đó:
ip(A/B : là chỉ số giá của một hàng hoá nào đó của thị trường A so
với thị trường B,
PA: là giá cả hàng hoá đó của thị trường A,
PB: là giá cả hàng hoá đó của thị trường B.
iP(A/B) > 1 có nghĩa giá cả mặt hàng này ở thị trường A lớn hơn giá cả của nó ở
thị trường B và ngược lại với iP(A/B) < 1; với iP(A/B) = 1 tức giá cả của hai thị trường
bằng nhau.
iP(A/B) =
3
= 1.5 có nghĩa giá cả thị trường A cao hơn thị trường B: 0.5 lần hay
2
50%.
Phương pháp này chuyên dùng trong thống kê và được áp dụng khi chúng ta
không quan tâm đến phương thức thanh toán mà chỉ quan tâm đến giá cả hàng hoá đơn
thuần hoặc trong trường hợp thanh toán ngay. Nếu chúng ta cần xét đến phương thức
thanh toán trong việc tính chỉ số giá, công thức sau sẽ đề cập đến phương pháp tính chỉ
số giá theo phương thức trả dần tính theo lãi suất gọi là phương pháp so sánh hiện giá
mua (bán) hàng hoá cùng loại ở hai thị trường với cùng thời gian và chỉ số này gọi là
chỉ số hiện giá.
Công thức tính tổng quát :
IP =
G(x)
G(y)
(10)
Trong đó:
IP: Là chỉ số hiện giá,
G(x): là hiện giá hàng hoá ở thị trường x,
G(y): là hiện giá hàng hoá ở thị trường y.
IP > 1 hay G(x) - G(y) > 0 có nghĩa hiện giá của thị trường X lớn hơn hiện giá
của thị trường Y và ngược lại, với IP > = 1 thì hiện giá của hai thị trường bằng nhau.
G(x) - G(y) chính là lượng chênh lệch hiện giá của hai thị trường.
“ Hiện giá ” là giá của hàng hoá mà người mua phải trả cho người bán theo
phương thức trả dần (trả chậm) tính theo lãi suất. Nó chính là giá cả của một đơn vị
hàng hoá quy về hiện tại. Để hiểu rõ phương pháp tính hiện giá ta xét ví dụ sau:
Công ty X chào giá (giá giao ngay) 1000 USD, phương thức thanh toán trả dần
4 năm. Ngay sau khi giao hàng thanh toán 20%, một năm sau thanh toán 20%, ba năm
sau thanh toán số còn lại.
Công ty Y chào giá 800 USD, phương thức thanh toán trả đần trong 2 năm,
ngay sau khi giao hàng trả ngay 50%, sau một năm trả 30%, số còn lại trả nốt vào năm
thứ hai.
Với lãi xuất trả dần là 10%.
Vậy, hiện giá hai mặt hàng của hai công ty trên được tính như sau:
G(x) = 1000 x 0.2 +
100 x 0.2
x
(1 + 0.15)1
100 x 0.6
= 717 USD
(1 + 0.15)4
G(y) = 800 x 0.5 +
800 x 0.3
+
(1 + 0.15)1
800 x 0.2
= 730 USD
(1 + 0.15)2
IP =
717
730
= 0.9821 hay 98.21%
Số tuyệt đối G(x) - G(y) = -13 USD
Như vậy theo chỉ số hiện giá thì hiện giá của công ty X rẻ hơn hiện giá của
công ty Y là 1.79% hay 13 USD. Song nếu chỉ chú ý đến giá giao ngay thì giá cả của
công ty X đắt hơn công ty Y.
3.2.2. Chỉ số tổng hợp về giá cả
Khái niệm: chỉ số tổng hợp về giá cả là chỉ số phản ánh sự biến động chung về
giá các mặt hàng, dịch vụ của hai thị trường.
Công thức tính tổng quát :
Ip( A/B ) =
Trong đó:
pAQ
pB Q
(11)
Ip( A/B ): là chỉ số giá tổng hợp,
PA: là giá cả từng loại hàng hoá của thị trường A,
PB: là giá cả từng loại hàng hoá của thị trường B,
Q: là lượng hàng hoá tiêu thụ từng loại hàng hoá của hai thị
trường A và B.
Với Ip( A/B ) > 1: nói lên giá cả chung của thị trường A lớn hơn thị trường B và
ngược lại và với Ip( A/B ) = 1 thì giá cả của hai thị trường là bằng nhau.Và nếu lấy tử
trừ đi mẫu số ta sẽ có số tiền mà thị trường A lợi hơn (nếu là số dương) hoặc thiệt hơn
(nếu là số âm) so với thị trường B.
Ví dụ:
Ip(A/B) =
4x 2500 + 3x4000
3x 3000 + 3.5x 3000
= 1,13 lần hay 113%: Kết quả này
nói lên rằng giá cả chung của thị trường A cao hơn giá cả chung của thị trường B 0,13
lần hay 13%.
Công thức (11) chưa tính đến tốc độ trượt giá của thị trường và thường áp dụng
cho trường hợp thanh toán ngay, việc mua, bán hàng hoá thực hiện trong thời gian
ngắn, giá cả ở thị trường đó ổn định. Còn nếu không có các điều kiện trên , chúng ta
phải tính đến tốc độ trượt giá của thị trường.
Tốc độ trượt giá của thị trường là tốc độ tăng hoặc giảm giá hàng hoá của thị
trường đó trong thời gian thực hiện hợp đồng mua, bán.
Công thức tính tổng quát :
Ip( A/B ) =
pXQKX
pYQKY
(12)
Trong đó:
IP: Là chỉ số giá có tính đến tốc độ trượt giá,
KX: là tốc độ trượt giá hàng hoá của thị trường x trong kỳ nghiên cứu,
KY: là tốc độ trượt giá hàng hoá của thị trường y trong kỳ nghiên
cứu.
Công thức này có ưu điểm hơn công thức trên vì có tính đến sức mua của đồng
tiền. Tuỳ từng mục đích và yêu cầu cụ thể mà ta lựa chọn công thức cho phù hợp. Tuy
nhiên, trong lĩnh vực thống kê thường sử dụng công thức (11). Còn công thức (12) áp
dụng trong những trường hợp như: lựa chọn thị trường buôn bán: nếu Ip( A/B ) > 1 hay
pXQKX - pBQKY > 0: có nghĩa là bán hàng hoá ở thị trường X sẽ có lợi hơn bán
hàng hoá ở thị trường Y và ngược lại, còn nếu Ip(
A/B )
= 1 thì mua hoặc bán ở thị
trường nào cũng đem lại lợi ích như nhau.
Hai công thức (11) và (12) cho kết quả khác nhau. Để chứng minh sự khác
nhau đó ta lấy ví dụ cụ thể sau:
Tên
đơn
Khối lượng
hàn
Vị
hàng
g
tính
bán ra
A
Tấn
500
200
105
97
B
Kg
100.000
100
102
105
C
M
500.000
50
100
120
hoá PX(USD)
pXQ
= 30.625.000 USD
pYQ
= 35.100.000 USD
pXQKX
= 35.521.250 USD
pYQKY
= 35.305.000 USD
KX(%)
PY (USD)
KY(%)
Nếu tính theo (11) ta có:
I=
35.100.000
= 1,1461 lần hay 114,61%
30.625.000
Kết quả này cho ta thấy, nếu loại bỏ yếu tố trượt giá thì giá của thị trường X
tăng 14,61% so với thị trường Y, làm cho doanh thu thị trường X lớn hơn thị trường Y
4.475 USD.
Nếu tính theo công thức (12) ta có:
I =
35.305.000
= 0.9939 lần hay 99.39%.
35.521.250
Như vậy, nếu tính đến yếu tố trượt giá thì giá thị trường X giảm 0,61% và
doanh thu thị trường X giảm 31.752.875 USD so với thị trường Y.
III. khái niệm và sự cần thiết khách quan của việc tính chỉ số giá tiêu dùng
1. Khái niệm chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng: là chỉ tiêu thống kê, biểu hiện bằng số tương đối (lần hay
%), phản ánh xu hướng và mức độ biến động chung của giá cả hàng hoá và dịch vụ
tiêu dùng phục vụ đời sống dân cư trong một thời gian và không gian nhất định. CPI
được tính theo định kỳ hàng tháng và cả năm, tính chung cho cả nước và cho từng khu
vực, từng địa phương; tính cho tất cả các hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ phục vụ đời
sống của dân cư, tính cho từng nhóm hàng và ngành hàng.
Giá hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng gọi tắt là giá tiêu dùng, gía tiêu dùng được
biểu hiện bằng giá bán lẻ hàng hoá trên thị trường và giá dịch vụ phục vụ sinh hoạt đời
sống dân cư của tất cả các thành phần kinh tế tham gia bán lẻ hàng hoá và sản xuất,
kinh doanh dịch vụ phục vụ đời sống dân cư trên thị trường. Giá này bao gồm tất cả
các chi phí để sản xuất ra hàng hoá, các chi phí về vận chuyển lưu thông, các chi phí
bán hàng , các chi phí quản lí, thuế hàng hoá và các loại thuế khác..., không bao gồm
giá hàng hoá cho sản xuất là các công việc có tính chất sản xuất kinh doanh.
Giá tiêu dùng được thống kê trên các mặt hàng và dịch vụ tiêu dùng đại diện.
Cục Thống kê tỉnh, thành phố căn cứ vào tình hình tiêu dùng và thị hiếu tiêu dùng của
địa phương mình, đối chiếu với danh mục mặt hàng và dịch vụ đại diện, chọn các mặt
hàng có quy cách, phẩm chất làm danh mục hàng hoá, dịch vụ đại diện cho địa phương
mình.
2. Sự cần thiết khách quan của việc tính chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng là một trong những chỉ số giá quan trọng trong hệ thống
chỉ số giá của nước ta. Nó là chỉ tiêu chất lượng được nhiều cấp, nhiều ngành quan
tâm.
Để đo lường tỉ lệ lạm phát, mỗi một quốc gia trong từng giai đoạn sử dụng các
chỉ số giá khác nhau. Hiện nay, chỉ số giá tiêu dùng được nhiều quốc gia trên thế giới
sử dụng làm thước đo tỉ lệ lạm phát của nền kinh tế quốc dân, trong đó có nước ta.
Chỉ số giá tiêu dùng là cơ sở để Chính phủ điều chỉnh chính sách lương cho
công nhân viên chức: để xác định mức lương tối thiểu, Chính phủ ta căn cứ vào lượng
hàng hoá mà người công nhân cần mua để đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống
của họ. Khi giá tiêu dùng tăng lên, Chính phủ phải tăng mức lương cho phù hợp. Việc
xác định mức lương tối thiểu trở lên khó khăn khi giá tiêu dùng không ổn định.
Chỉ số giá tiêu dùng là công cụ gián tiếp phản ánh tình hình sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng. Khi giá cả hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng giảm, khả năng thanh
toán , chi trả cho hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng lên, người tiêu dùng sẽ mua sắm
nhiều hơn, dẫn đến cầu về hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng lên, cầu tăng lại đẩy giá
tăng lên, thúc đẩy sản xuất phát triển. Quá trình sẽ diễn ra ngược lại khi giá tiêu dùng
tăng lên.
Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh mức sống dân cư: Trong cuộc sống, con người có
hai nhu cầu cơ bản đó là nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần. Nhu cầu về tinh
thần chỉ được thoả mãn khi nhu cầu về vật chất đã được thoả mãn. Khi mức sống dân
cư tăng lên, họ sẽ quan tâm hơn đến các dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí, văn hoá, thể
dục thể thao... để thoả mãn nhu cầu tinh thần của mình, thúc đẩy cầu về các loại dịch
vụ này tăng lên làm cho giá cả của chúng tăng lên.
Chỉ số giá tiêu dùng cũng là một trong những chỉ tiêu mà căn cứ vào đó Nhà
nước đưa ra các chính sách tác động đến lợi ích của các tầng lớp dân cư, rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo. Ví dụ, để nâng cao mức sống của tầng lớp nông dân, Chính
phủ tìm mọi cách nâng giá sản phẩm nông nghiệp lên, giá nông sản tăng làm tăng thu
nhập cho họ và mức sống của họ được cải thiện.
Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng không những chỉ liên quan đến lĩnh vực sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng mà nó còn liên quan đến lĩnh vực tài chính, tiền tệ của một
quốc gia. Việc tính và tính toán một cách chính xác chỉ số giá tiêu dùng rất cần thiết,
giúp cho các cấp lãnh đạo đánh giá đúng thực trạng nền kinh tế từ đó có những biện
pháp điều chỉnh phù hợp góp phần làm ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Xem thêm -