Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương pháp hoạt động nhóm để học sinh chủ động tích cực và hứng thú trong giờ h...

Tài liệu Phương pháp hoạt động nhóm để học sinh chủ động tích cực và hứng thú trong giờ học môn sinh học khối thpt hiệu quả

.DOC
66
63989
175

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐĂK LĂK TRƯỜNG PTDTNT TÂY NGUYÊN  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHÓM ĐỂ HỌC SINH CHỦ ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC MÔN SINH HỌC KHỐI THPT HIỆU QUẢ NGƯỜI THỰC HIỆN: ĐỖ THỊ MINH HẢI Đăk Lăk, năm học 2010 - 2011 GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 1 Sáng kiến kinh nghiệm A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài 1. Lý do khách quan Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành đổi mới toàn diện về giáo dục ở các cấp học trong đó có cấp Trung học phổ thông (THPT) nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Công cuộc đổi mới này liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa (SGK): ngày 05 tháng 5 năm 2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kí Quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT về việc ban hành Chương trình Giáo dục phổ thông. Đổi mới thiết bị dạy học, đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới quan niệm và cách thức kiểm tra đánh giá … Tuy nhiên, những đổi mới này có đem lại hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào người giáo viên, những người trực tiếp thể hiện tinh thần đổi mới nói trên trong từng tiết học. Vì vậy, sau khi chương trình SGK mới đã biên soạn xong thì việc đổi mới phương pháp dạy và học lại trở thành vấn đề rất quan trọng và cấp bách. Chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy và học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII ( 1 – 1993 ), Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII ( 12 – 1996 ), được thể chế hoá trong Luật Giáo dục (2005), được cụ thể chế hoá trong các Chỉ thị của Bộ Giáo dục và đào tạo, đặc biệt Chỉ thị số 14 ( 4 – 1999). Luật Giáo dục, điều 28.2, đã ghi “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. 2. Lý do chủ quan Gần 4 năm áp dụng Chương trình Giáo dục phổ thông mới, chúng ta đã, đang gặt hái được những kết quả khả quan, không dừng ở đó mỗi người giáo viên vẫn không ngừng suy nghĩ, tìm tòi làm thế nào để nâng cao chất lượng của bộ môn, lớp mình dạy, GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 2 Sáng kiến kinh nghiệm làm thế nào để tạo cho các em hứng thú học tập, yêu thích môn học, phát triển năng lực trí tuệ, rèn luyện thao tác tư duy cơ bản, đồng thời tạo cho các em nếp sống, thói quen thể hiện trong suy nghĩ, giao tiếp ứng xử, hình thức tổ chức lớp học nào sẽ giải quyết những vấn đề trên …? Với bản thân tôi là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn sinh học THPT, ngoài những hình thức tổ chức lớp học tích cực tôi tiếp thu được từ các buổi tập huấn, tham dự các tiết dạy Giáo viên giỏi, các tiết thao giảng và bản thân trải nghiệm trong quá trình giảng dạy, học hỏi, tham khảo đồng nghiệp tôi nhận thấy thông qua hoạt động làm việc theo nhóm dưới hình thức thi đua giáo viên có thể khơi dậy và khai thác khả năng học tập tích cực chủ động ở học sinh, học sinh tự bộc lộ mình, tự học tập lẫn nhau, tự chiếm lĩmh kiến thức mới thông qua cách làm việc chung nhóm và làm sao để tiết học trở nên nhẹ nhàng, tự nhiên sinh động, học sinh có cảm giác như được vui chơi giữa giờ học ngay trên lớp. Từ ý nghĩ trên tôi đã tìm tòi và thực nghiệm trên lớp dạy của mình và nhận được kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm của mình về “ Phương pháp hoạt động nhóm để học sinh chủ động tích cực và hứng thú trong giờ học môn sinh học khối THPT hiệu quả” cụ thể của bản thân đã thực hiện khi giảng dạy để đồng nghiệp tham khảo. II. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh khối lớp 10, 11 năm học 2006 – 2010 trường PTDTNT Tây Nguyên. III. Phạm vi nghiên cứu Tập trung nghiên cứu về chương trình, nội dung sách giáo khoa, đối tượng học sinh và việc thực hiện mục tiêu dạy học hiện nay của trường PTDTNT Tây Nguyên. IV. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lí luận: Phân tích - tổng hợp- khái quát. - Nghiên cứu thực tiễn: Chủ yếu rút ra từ thực tế kinh nghiệm của bản thân và các bạn đồng nghiệp qua quan sát, thực hành, kiểm tra, đối chiếu chất lượng. GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 3 Sáng kiến kinh nghiệm B. NỘI DUNG I. Đặc điểm của dạy học theo nhóm và vai trò của hình thức học tập theo nhóm 1. Đặc điểm dạy học theo nhóm - Hoạt động dạy học vẫn được tiến hành trên quy mô cả lớp, như mô hình giờ học truyền thống. - Việc phân chia nhóm học sinh vừa tuân theo đặc điểm tâm lý - nhận thức của học sinh vừa phụ thuộc vào nhiệm vụ học tập học sinh phải giải quyết. - Trong mỗi nhóm phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, phải cùng hợp tác giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm. - Học sinh phải trực tiếp tham gia các hoạt động, giải quyết các nhiệm vụ học tập được đặt ra cho mỗi nhóm. - Trong các giờ học tổ chức theo nhóm giáo viên phải là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh chứ không phải làm thay, không áp đặt. Nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo viên trong các giờ học này là phải căn cứ vào nhiệm vụ của giờ học mà thiết kế các nhiệm vụ học tập cụ thể và các hoạt động để học sinh giải quyết trong mỗi nhóm, đồng thời thiết kế các yêu cầu cụ thể cho mỗi nhóm, thiết kế các bài tập trắc nghiệm để kiểm tra lại mức độ hiểu, kỹ năng thực hành, hành vi thái độ cần hình thành ở học sinh. - Có thể hiểu tổ chức giờ học theo nhóm là một kiểu tổ chức giờ học trên lớp. Tuy nhiên, tuỳ từng nhiệm vụ của mỗi giai đoạn giờ học, nếu thoả mãn một số điều kiện, có thể tổ chức học sinh thành các nhóm, tiến hành các hình thức học tập khác nhau để giải quyết bài tập của nhóm mình, qua đó đạt mục tiêu giờ học. 2. Vai trò của hình thức học tập theo nhóm - Học tập theo nhóm nuôi dưỡng một môi trường học tập có lợi, bởi học tập theo nhóm bao giờ cũng sôi nổi. Nó tạo cơ hội cho học sinh sử dụng các phương pháp, nguyên tắc diễn đạt ngôn ngữ. Các học sinh nhút nhát, thường là ít phát biểu trong lớp sẽ có môi GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 4 Sáng kiến kinh nghiệm trường động viên để tham gia xây dựng bài. Hơn thế nữa, hầu hết các các hoạt động nhóm đều mang trong nó cơ chế tự sửa lỗi và học sinh dạy lẫn nhau, theo đó các lỗi sai đều được giải đáp, mà thường là trong bầu không khí rất thoải mái. Với việc thảo luận cùng với các thành viên khác trong lớp và nhóm, nhiệm vụ học tập được giải quyết dễ dàng hơn. Thông qua trao đổi trong nhóm kết hợp được sức mạnh của từng cá nhân, dẫn đến sự hỗ trợ và giúp đỡ nhau trong học tập. Trên cơ sở những hoạt động chung sẽ khơi dậy tinh thần tập thể, vì lợi ích của nhóm, của cộng đồng và xã hội. - Trong các giờ học theo nhóm, cùng một đơn vị thời gian nhưng có thể huy động được nhiều học sinh tham gia vào các hoạt động học tập, điều này rất có ý nghĩa đối với việc tăng tính tích cực và tính năng động của người học. Dạy học theo nhóm còn rất thuận lợi cho tổ chức trong các trường hợp thiếu đồ dùng dạy học (hoạt động theo kiểu gánh xiếc). - Khi học tập trong nhóm, học sinh sẽ thảo luận xoay quanh từng đề tài cụ thể. Hoạt động này không những lý thú mà còn tạo nhiều cơ hội cho các em học hỏi. Người học sẽ phải xử lý các tài liệu mới, sau đó tự mình tìm hiểu nó. Phương pháp học theo nhóm đã chuyển trách nhiệm phải hiểu được bài sang cho người học. Khi làm việc trong nhóm sẽ có sự so sánh thường xuyên các kết quả của từng cá nhân, học sinh sẽ có một ý niệm rõ ràng về giá trị chân thực của chính mình, lòng tự trọng, chính đó là điều kiện đầu tiên của sự trưởng thành về mặt nhân cách xã hội. - Nếu xét các thành tố giáo dục, có tính đến yếu tố “dạy lẫn nhau”, hoạt động nhóm bao gồm tất cả những gì học sinh cần. Học sinh có cơ hội thực hành các kỹ năng trí tuệ bậc cao như kỹ năng sáng tạo, đánh giá, tổng hợp và phân tích. Các em cũng thực hành các “kỹ năng thông thường” như khả năng cùng làm việc và giao tiếp với nhau. - Ngoài ra, hoạt động nhóm mang lại cho học sinh một cơ hội thuận lợi để làm quen với nhau. Nó cũng khơi dậy sự gắn bó tập thể, đặc biệt là khi có hiện diện yếu tố cạnh tranh, sẽ là một động cơ học tập rất mạnh. II. Quy trình tổ chức dạy học theo nhóm Quy trình tổ chức giờ học theo nhóm bao gồm 4 bước cơ bản: GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 5 Sáng kiến kinh nghiệm Điểm xuất phát Giáo viên Học sinh Đối tượng học tập Bước 1: Tự nghiên cứu Kinh nghiệm cá nhân Hướng dẫn Bước 2: Tổ chức HS HS Kinh nghiệm cá nhân (hợp tác, thảo luận) Bước 3: Tổ chức Nhóm Nhóm Nội dung học tập (hợp tác, thảo luận) Bước 4: Trọng tài, cố vấn Tự điều chỉnh kiến thức Tri thức cá nhân thu nhận được Trong 4 bước trên, cần lưu ý trong bước 2 và bước 3 HS làm việc theo nhóm, còn bước 1 và bước 4 là bước làm việc cá nhân, HS tự suy nghĩ, tìm tòi. Bước 4 giúp HS tự lĩnh hội, tự điều chỉnh tri thức thu nhận được. Nó giúp cho kiến thức HS được lĩnh hội vững chắc hơn. Điều này được thể hiện rõ qua các bước trong quy trình sau: Các bước Giáo viên (GV) Học sinh (HS) - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ - Nhận xét, phát hiện vấn đề nhận thức Bước 1 - Tổ chức các nhóm, giao nhiệm - Tham gia vào các nhóm, tổ chức vụ cho các nhóm nhóm - Hướng dẫn cách làm việc theo - Thu thập thông tin, tái hiện tri thức nhóm chuẩn bị làm việc trong nhóm - Kích lệ HS làm việc, khuyến - Tự đặt mình vào các tình huống, tự khích sự tham gia của mỗi cá nhân sắm vai đưa ra cách xử lý tình HS vào các hoạt động học tập huống, trao đổi ý kiến, thảo luận chung của nhóm. Bước 2 trong nhóm, xử lý thông tin. - Đưa ra những câu hỏi gợi ý khi - Tự ghi lại ý kiến theo chủ kiến của thảo luận bế tắc hoặc đi chệch mình, khai thác những gì đã hợp tác hướng. với bạn hoặc tham khảo thêm ý kiến của GV để bổ sung sản phẩm ban GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 6 Sáng kiến kinh nghiệm đầu của mình - Yêu cầu mỗi nhóm báo cáo kết - Đại diện các nhóm trình bày, bảo quả. Bước 3 vệ sản phẩm của mình trước lớp. - Ghi lại những điểm nhất trí và - Tỏ thái độ trước những ý kiến của chưa nhất trí, những khía cạnh mà các nhóm khác các nhóm bỏ qua. - Khai thác bổ sung ý kiến của các - Tổ chức thảo luận toàn lớp nhóm khác, điều chỉnh sản phẩm của nhóm mình. - Tóm tắt từng vấn đề. - So sánh, đối chiếu kết luận của GV và của các bạn với sản phẩm ban đầu Bước 4 của mình. - Đưa ra những nhận xét đánh giá - Tự sửa sai, bổ sung, điều chỉnh về kết quả của từng nhóm, từ đó những gì cần thiết. đưa ra các kết luận khoa học - Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề - Tự rút kinh nghiệm về cách học, tiếp theo cách sử lý tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình. III. Biện pháp tổ chức dạy học theo nhóm 1. Thành phần nhóm - Tuỳ thuộc vào mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề học tập mà ta có nhiều cách chia nhóm. Thông thường để đảm bảo học sinh cùng làm việc nên xếp mỗi nhóm từ 2 đến 8 học sinh (Các nhóm này có thể lựa chọn theo bàn, theo dãy, số thứ tự, ngẫu nhiên, theo ý thích, bạn giúp bạn …). Các nhóm được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học. Khi thành lập nhóm học tập tại lớp, cần lưu ý: + Nhịp điệu làm việc của các thành viên trong nhóm. GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 7 Sáng kiến kinh nghiệm + Trình độ học lực của các cá nhân trong nhóm. + Mối quan hệ giữa học sinh với nhau. - Các nhóm HS có khả năng khác nhau có thể làm việc cùng nhau rất tốt, tuy nhiên vẫn phải tạo điều kiện cho những học sinh có cùng khả năng, đặc biệt là những học sinh có khả năng cao làm việc cùng nhau. Chẳng hạn những học sinh có khả năng cao có thể đóng vai trò “giáo viên” giúp cho việc học tập nhóm để những HS khác dễ dàng học hỏi bạn mình. Nhóm nói chung là không có nhóm trưởng mà chỉ thay nhau làm đại diện cho nhóm trong những thời điểm nhất định. Với phương pháp này để tránh học sinh có thể làm qua loa, hình thức, nếu không có sự kiểm tra theo dõi của giáo viên, một số em yếu, thụ động không chịu động não, suy nghĩ, hoặc thuộc lòng đọc vẹt, không bày tỏ ý kiến của mình ngược lại những em nhanh nhẹn thì tự quyết định vấn đề mà không có sự thảo luận trong nhóm. Song, trong hoàn cảnh trình độ tổ chức của các thành viên còn yếu thì có thể cử nhóm trưởng trong thời gian đầu. Khi các thành viên nhóm đã quen dần với việc tổ chức học nhóm thì có thể loại bỏ. Tất nhiên, nhóm trưởng phải là người có kết quả học tập tương đối tốt, có ý thức giúp đỡ các thành viên trong nhóm.Các nhóm sẽ làm việc tốt nhất nếu các HS hài hoà được kỹ năng hợp tác. - Xây dựng đồng đội là việc làm cần thiết để giúp vượt qua những vấn đề khác nhau gắn liền với việc cùng làm việc. Do đó, giáo viên phải dạy cho học sinh các kỹ năng xây dựng đồng đội bao gồm: + Khả năng hiểu được nhu cầu của người khác và biết nhận lượt mình. + Khả năng biểu đạt được một quan điểm. + Khả năng nghe quan điểm của người khác. + Khả năng đáp lại, đặt câu hỏi, thảo luận, tranh luận và lập luận. - Để học sinh có được những kỹ năng trên, giáo viên cần cho học sinh nhận thức được mục đích của việc học tập hay làm việc theo nhóm là: Hợp tác và giúp nhau, nghe lẫn nhau, cùng suy nghĩ. 2. Ra quy tắc cho nhóm GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 8 Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn cho học sinh ngay từ những lần đầu tiên làm việc theo nhóm theo các hình thức đến khi quen việc, các em phải cùng nhau hợp sức để hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Đôi khi học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm có những hành vi cản trở bao gồm thái độ định kiến, cạnh tranh, bác bỏ người khác và xa lánh mọi người vì vậy GV cùng HS đưa ra những quy tắc nhóm để giúp nhóm làm việc tốt: + Các thành viên trong nhóm đều có lượt được nói, cần tạo điều kiện để HS phát biểu hết các loại ý kiến khác nhau, đặc biệt ưu tiên các HS yếu kém phát biểu trước. Phải có sự phân công, các thành viên trong nhóm đều có nhiệm vụ, trách nhiệm giải quyết các vấn đề học tập của nhóm. + Hãy ủng hộ và giúp nhau bổ sung chi tiết + Không cười nhạo điều ai đó đã nói + Hãy suy nghĩ trước khi đặt câu hỏi... - Ghép đúng học sinh vào nhóm và giao việc phù hợp cho từng nhóm. “Thành công trong hoạt động nhóm có nghĩa là đã ghép đúng được HS vào với nhau, giao việc đúng cho nhóm.” - Các thành viên trong nhóm phải giải đáp các vấn đề học tập cho nhau trước khi trao đổi với giáo viên. 3. Giao việc cho nhóm - Giao việc cho nhóm nhiệm vụ thật cụ thể để thực hiện bằng lời, bằng phiếu học tập giao việc, bằng viết trên bảng ... Nếu các thành viên trong nhóm phải giải quyết những vấn đề khác nhau thì giáo viên cần định rõ nhiệm vụ cho từng thành viên từ đầu. GV chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ, giúp đỡ cho hoạt động các nhóm và đánh giá, khen thưởng sự nỗ lực của tập thể nhóm. - Cần chú ý trình độ và năng lực của các thành viên trong mỗi nhóm a. Điều khiển thảo luận GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 9 Sáng kiến kinh nghiệm Thảo luận có thể dùng như một thuật ngữ chung chỉ một loạt tình huống thông thường trong đó diễn ra cuộc trao đổi giữa mọi người đồng thời đó cũng là một dạng tương tác nhóm đặc biệt trong đó các thành viên cùng giải quyết một vấn đề cùng quan tâm, trao đổi các quan điểm khác nhau nhằm đạt tới một sự hiểu biết chung về vấn đề đó. Thảo luận là một hình thức không thể thiếu được trong tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học. Hình thức thảo luận có tác dụng phát huy cao độ tính tích cực, tính độc lập của cá nhân kết hợp với sự giúp đỡ, sự hợp tác với nhau để cùng giải quyết vấn đề đặt ra, giúp học sinh trình bày và bảo vệ ý kiến của mình trước một số đông người. Để tổ chức thảo luận có hiệu quả: - GV phải chú ý đến việc bố trí chỗ ngồi sao cho mọi HS tham gia thảo luận có thể nhìn thấy mặt nhau một cách rõ ràng (có thể xếp lại bàn ghế hoặc bàn ghế đã sắp sẵn cho HS chỉ cần đổi hướng) Trong dạy học qua thảo luận GV không nên can thiệp sâu vào cuộc thảo luận, thể hiện đúng vai trò của mình: + GV với tư cách chuyên gia: Trong nhiều tình huống GV cần phải đóng vai trò chuyên gia, duy trì sự chú ý của các cá nhân hay các nhóm, dẫn dắt HS đến những cấp độ hiểu biết cao hơn thông qua các phương pháp dạy học trực tiếp. Ví dụ: nội dung HS thảo luận: “Pha tối quang hợp không phụ thuộc vào pha sáng có chính xác không?” Qua thảo luận HS chỉ biết được là pha tối có phụ thuộc vào pha sáng nhưng không giải thích được vì sao. GV có thể gợi ý: Sản phẩm của pha sáng là gì? Nguyên liệu pha tối sử dụng? Nếu không có ánh sáng kéo dài thì pha tối có xảy ra không? Qua sự gợi ý này, chắc chắn HS sẽ hiểu đầy đủ và giải quyết chính xác được vấn đề đưa ra. + GV với tư cách là người tạo điều kiện: Trong khi các nhóm thảo luận, HS có thể tự do tìm hiểu các ý tưởng và cộng tác với nhau, GV không cần thường xuyên tham vấn, GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 10 Sáng kiến kinh nghiệm GV chỉ nên can thiệp khi các nhóm bị lạc đề. GV nên can thiệp bằng cách tổ chức thêm các tình huống cho HS làm việc theo nhóm. Ví dụ: Nội dung HS thảo luận: “Các đại phân tử như prôtêin, axit nuclêic, các siêu cấu trúc như các màng bào quan có phải là vật chất sống không và chúng có được xếp vào các cấp tổ chức của sự sống không?” HS thảo luận cho rằng: Các đại phân tử này có những hoạt động sống, quyết định sự sống nên HS cho rằng chúng là vật chất sống và có thể xếp vào các cấp tổ chức của sự sống. GV tạo thêm tình huống: “Nếu tách ra khỏi tế bào, các đại phân tử này có thực hiện được vai trò sống của chúng không?” HS sẽ tìm hiểu và nhận ra rằng, các đại phân tử này nếu bị tách ra khỏi tế bào thì chúng là những phân tử chết và không còn thực hiện được vai trò sống của chúng. Các bào quan này có thể thực hiện được chức năng sống trong điều kiện vô bào nhưng là những điều kiện giống như điều kiện của tế bào sống. Qua đó HS có thể điều chỉnh được rằng các đại phân tử và các bào quan không được xếp vào các cấp độ tổ chức của sự sống. + GV với tư cách người tham gia: Tức là làm cho HS nói và nghe nhau nói, chứ không phải chỉ đạo mọi điều HS nói qua GV. Mục đích là HS cảm thấy độc lập và bình đẳng trong trả lời các bạn. GV có thể tham gia ngồi chung cùng độ cao với HS, cùng đưa ra ý kiến, ý tưởng hoặc kinh nghiệm của riêng mình để kích thích HS suy nghĩ, thay vì hỏi quá nhiều câu hỏi. b. Bắt đầu thảo luận - GV trình bày kế hoạch chuẩn bị thảo luận cũng như giao nhiệm vụ cho cả lớp, cho từng nhóm hoặc từng người chuẩn bị để báo cáo (GV thông báo cho HS cách tổ chức nhóm theo từng giai đoạn). GV có thể bắt đầu phần thảo luận bằng việc trình bày trực quan, chiếu phim...hoặc tạo ra sự bất đồng ý kiến để kích thích thảo luận. Phương pháp phổ biến nhất là bắt đầu thảo luận bằng đặt câu hỏi. - HS có thể được thông báo trước các vấn đề thảo luận để chuẩn bị hoặc chuẩn bị trong một thời gian ngắn tùy theo nội dung và khối lượng vấn đề thảo luận. GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 11 Sáng kiến kinh nghiệm c. Tiến hành thảo luận - Mở đầu, người điều khiển thảo luận (GV hoặc HS được chỉ định) trình bày ngắn gọn mục đích, yêu cầu và nội dung vấn đề thảo luận (nội dung thể hiện trong các phiếu học tập giao việc, bằng lời nói...) - Trong học tập qua thảo luận, một số HS luôn ở trạng thái thụ động, HS không phát biểu có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là sự nhút nhát. Để giái quyết tình trạng này, GV nên chia HS thành những nhóm nhỏ để thảo luận, có thể thảo luận theo cặp trước khi thảo luận chung. Gọi tên HS để khuyến khích tham gia thảo luận. Cách tốt nhất để khuyến khích HS ít phát biểu tham gia thảo luận là yêu cầu HS đóng góp ý kiến về lĩnh vực mà HS đó hiểu một cách thấu đáo hoặc đặt câu hỏi trước cho cả lớp, giao nhiệm vụ cho HS chuẩn bị và chỉ định HS sẽ báo cáo vấn đề thảo luận trước lớp. - Đôi khi để có sự thay đổi trong tổ chức học tập, thông thường các nhóm sau khi thảo luận để giải quyết các vấn đề trong Phiếu học tập giao việc sẽ có đại diện các nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm, ta có thể cho các nhóm sau khi thảo luận không báo cáo kết quả, mà đưa ra các vấn đề mà nhóm chưa giải quyết được để các nhóm khác giải quyết hoặc GV giúp giải quyết (GV với tư cách là người tham gia). Sau đó trên tinh thần các vấn đề học tập đã được giải quyết, GV gọi bất kỳ HS trình bày các vấn đề học tập còn lại. - Khi những người phát biểu tranh luận những vấn đề vụn vặt, không trọng tâm hoặc trình bày những vấn đề xuôi chiều, GV có thể hướng sự thảo luận lại và nêu lên những vấn đề mâu thuẫn với ý kiến chung của những người tham gia thảo luận. Ngoài ra, GV phải nhận xét thêm về tinh thần, thái độ chuẩn bị của cả lớp, của các cá nhân đặc biệt sau đó đánh giá cho điểm. - Việc cho HS thảo luận thường xảy ra tình trạng cháy giáo án, có thể khắc phục bằng cách chỉ cho HS thảo luận những vấn đề trọng tâm đồng thời xác định rõ lượng thời gian cho mỗi bài tập. Bên cạnh đó, có thể giao cho HS một số bài tập ở nhà, đến lớp chia nhóm thảo luận bài tập trên cơ sở đã chuẩn bị trước ở nhà. GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 12 Sáng kiến kinh nghiệm - Cần tạo ra một bầu không khí mà ở đó những ý kiến đóng góp quan trọng không bị mất đi, bởi vì đôi khi những người có ý kiến hay lại không dám bày tỏ. 4. Đánh giá hoạt động nhóm Đánh giá quá trình và kết quả hoạt động nhóm là việc quan trọng, GV cần theo dõi hành vi hợp tác của các nhóm. - Quan sát HS làm việc trong các nhóm. - Đánh giá sự tiến bộ của nhóm trên cơ sở thu thập những thông tin về sự tiến bộ của mỗi thành viên trong nhóm, qua kết quả báo cáo của nhóm, kết quả học tập chung của cả nhóm. Sau khi đánh giá, cần đưa ra những phản hồi nhanh chóng, tích cực với học sinh và nhận thức được những khó khăn cản trở việc học tập nhóm, dựa vào các biểu hiện: không chú ý, có ý chống đối hoặc các câu hỏi chệch hướng .... Cuối cùng, cho điểm thưởng hoặc điểm phạt các cá nhân, các nhóm có biểu hiện tốt hay không tốt. IV. Các hoạt động theo nhóm 1. Các hoạt động đơn lẻ Yêu cầu các nhóm tiến hành giải một bài tập, ví dụ: thiết kế một thí nghiệm, trả lời một câu hỏi; phân tích đánh giá; tiến hành nghiên cứu một bài học, một quyển sách để tìm thông tin cụ thể. Bài tập này cần phải hết sức rõ ràng và nếu cần thì nên chia nhỏ. Nếu có thể ta vừa ra đề bài cho cả nhóm vừa yêu cầu nhiệm vụ cho từng cá nhân. Ví dụ Yêu cầu mỗi học sinh ghi chép lại các phát hiện của cả nhóm. Nếu sau phần hoạt động nhóm ta có chuẩn bị phần bài tập cho cá nhân, làm như vậy từng cá nhân học sinh sẽ nắm bài tốt hơn. 2. Bài tập giống nhau, tuỳ chọn khác nhau Bài tập các nhóm có thể giống nhau hoặc giáo viên cho một số lựa chọn để các nhóm tự quyết định. Mỗi nhóm có thể làm các bài tập khác nhau, sau đó, kết quả nghiên cứu của nhóm sẽ được trình bày lại trước lớp. Ta thường có thể sử dụng các bài tập tự do. GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 13 Sáng kiến kinh nghiệm 3. Cạnh tranh thi đua giữa các nhóm Các nhóm cùng làm một bài tập, mục đích là để thi đua giữa các nhóm. Bài tập ở đây có thể là đưa ra một cách giải quyết một vấn đề , thiết kế một thí nghiệm… hay chỉ đơn giản là trả lời các câu hỏi trắc nghiệm. Sau khi bài tập đã hoàn tất, giáo viên hay cả lớp có thể đứng ra làm giám khảo; đơn giản hơn và ít cạnh tranh hơn là mỗi nhóm trình bày công việc của nhóm mình, chúng ta nên cẩn thận đối với các bài tập có tính cạnh tranh. 4. Gánh xiếc Mỗi nhóm sẽ tiến hành cùng một sêri bài tập nhưng theo thứ tự khác nhau, vì thế vào bất kỳ thời điểm nào ta cũng có các nhóm tiến hành các hoạt động khác nhau; nhưng đến cuối giờ các nhóm đều thực hiện xong phần việc của mình. Phương pháp này cho phép tiến hành được các bài tập có đòi hỏi giáo cụ và đồ dùng thí nghiệm nhưng không đủ cho cả lớp. Ví dụ: Có 3 nhóm A, B, C. Trong ma trận thứ nhất có 3 bài tập và thời lượng như nhau; ma trận thứ 2 có thể dùng 5 bài tập trong đó có bài tập 1 có thời gian dài gấp đôi các bài tập khác. Nhóm Bài tập A 1 2 3 B 2 3 1 C 3 1 2 Ma trận 1: 3 bài tập có cùng thời lượng và thời gian quay vòng là sau 10 phút Nhóm Bài tập A 1 1 2 3 4 5 B 2 3 4 5 1 1 C 4 5 1 1 2 3 Ma trận 2: Bài tập1 kéo dài 10 phút, các bài tập khác kéo dài 5 phút. Thời gian quay vòng cũng sau 10 phút GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 14 Sáng kiến kinh nghiệm V. Các hình thức tổ chức dạy học theo nhóm 1. Làm việc theo cặp 2 học sinh (Pairwork) Đây là hình thức học sinh trao đổi với bạn ngồi kế bên để giải quyết tình huống do giáo viên nêu ra, trong quá trình giải quyết các tình huống, học sinh sẽ thu nhận kiến thức một cách tích cực. Nhóm này thường được sử dụng khi giao cho HS chấm bài, sửa bài cho nhau (qua phiếu học tập, qua các bài tập lựa chọn trong sách giáo khoa...).Ưu điểm của hình thức tổ chức này là không mất thời gian tổ chức, không xáo trộn chỗ ngồi mà vẫn huy động được HS làm việc cùng nhau. Mô hình nhóm 2 học sinh 2. Làm việc theo nhóm 4-5 học sinh hoặc 7-8 học sinh (Group work) Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm và thảo luận các bài tập, câu hỏi tình huống do giáo viên nêu ra. Có 2 loại hình bài tập: Bài tập cho hoạt động trao đổi và bài tập cho hoạt động so sánh. Trong hoạt động trao đổi, mỗi nhóm giải quyết 1 vấn đề khác nhau (nhưng cùng 1 chủ đề), sau đó trao đổi vấn đề và giải quyết vấn đề của nhóm mình đối với nhóm khác. Trong hoạt động so sánh, tất cả các nhóm cùng giải quyết một vấn đề, sau đó so sánh cách giải quyết khác nhau giữa các nhóm. Hoạt động trao đổi thường được sử dụng cho những bài học có nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong một thời gian ngắn. Hoạt động so sánh thường dùng cho những bài học có dung lượng không lớn. Mô hình nhóm 4-5 học sinh 3. Nhóm chuyên gia hay nhóm chuyên sâu (JigsawII) GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 15 Sáng kiến kinh nghiệm Ở đây, tổ chức các nhóm có tính luân chuyển. Trước hết, giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm (nhóm xuất phát hay nhóm gốc). Nhóm gốc gồm những học sinh có trách nhiệm cùng nhau tìm hiểu về những thông tin đầy đủ, trong đó mỗi học sinh được phân công tìm hiểu một phần của các thông tin đó. Sau đó lập nhóm chuyên sâu (nhóm chuyên gia). Nhóm chuyên gia tập hợp những học sinh ở trong những nhóm xuất phát khác nhau có cùng chung một nhiệm vụ tìm hiểu sâu một phần thông tin. Như vậy, một học sinh sẽ nhận nhiệm vụ từ nhóm xuất phát và cùng làm việc, trao đổi kỹ ở nhóm chuyên sâu và sau đó lại trở về nhóm xuất phát để trình bày kết quả về các thông tin mình đã thu thập được. Nhóm chuyên sâu Nhóm chuyên sâu AA AA Nhóm xuất phát BB BB AB CD CC CC Nhóm chuyên sâu DD DD Nhóm chuyên sâu Ưu điểm của nhóm chuyên gia là việc báo cáo công việc của các nhóm sẽ do tất cả các thành viên của nhóm đảm nhận chứ không phải chỉ do một học sinh khá giỏi đảm nhận. Mỗi học sinh sẽ nắm một mảng thông tin để lắp ghép thành một thông tin hoàn chỉnh và sẽ không có một học sinh nào đứng ngoài hoạt động của lớp học. 4. Nhóm kim tự tháp (Pyramid) Đây là cách tổng hợp ý kiến tập thể của lớp học về một vấn đề của bài học. Đầu tiên giáo viên nêu một vấn đề cho các học sinh làm việc độc lập. Sau đó ghép 2 học sinh thành một cặp để các học sinh chia sẻ ý kiến của mình. Kế đến các cặp sẽ tập hợp thành nhóm 8, nhóm 16…Cuối cùng cả lớp sẽ có 1 bảng tổng kết các ý kiến hoặc một giải pháp GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 16 Sáng kiến kinh nghiệm tốt nhất để giải quyết một vấn đề. Như vậy, bất kỳ ý kiến cá nhân nào cũng đều dựa trên ý kiến của số đông. Hình thức học tập này thể hiện tính dân chủ và dựa trên nguyên tắc tương hỗ, mô hình này phù hợp với các giờ ôn tập khi học sinh phải nhớ lại các định nghĩa, khái niệm, công thức… đã học trong một chương. Mô hình nhóm kim tự tháp 5. Hoạt động trà trộn (Mingling Activities) Trong hình thức này, tất cả các học sinh trong lớp phải đứng dậy và di chuyển trong lớp học để thu thập thông tin từ các thành viên khác. Sự di chuyển khỏi chỗ ngồi cố định làm cho các học sinh cảm thấy thích thú, năng động hơn. Đối với các học sinh yếu thì đây là cơ hội cho họ hỏi nhiều người khác nhau cùng một câu hỏi mà không cảm thấy xấu hổ. Cũng bằng cách học này, họ sẽ thấy rằng có thể có nhiều câu trả lời đúng, nhiều ý kiến, nhiều quan điểm khác nhau cho cùng một vấn đề. Có thể coi hoạt động trà trộn là bảng “trưng cầu ý kiến” và “khảo sát ý kiến” của tập thể. Hoạt động này thường được dùng trong phần mở đầu của tiết học nhằm “khởi động” hoặc kích thích nhận thức của học sinh trước khi học bài mới. Mô hình hoạt động trà trộn GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 17 Sáng kiến kinh nghiệm VI. Một số thực nghiệm sư phạm về kiến thức thuộc chương trình sinh học 10 được thiết kế dạy học theo nhóm 1. Thiết kế hình thức tổ chức dạy học theo nhóm 2 HS - Ví dụ : Kiến thức Cấu trúc và đặc tính hoá lí của nước (bài 03) I. Mục tiêu: Sau khi học xong kiến thức này, HS phải: - Nêu được cấu trúc và đặc tính hoá lí của nước. Nhận biết được trạng thái các liên kết hiđrô trong nước đá và nước thường. II. Nội dung chính: - Cấu trúc: Phân tử nước được cấu tạo từ một nguyên tử ôxi kết hợp với 2 nguyên tử hiđrô bằng các liên kết cộng hoá trị. - Đặc tính vật lí: ở nhiệt độ bình thường: chất lỏng không màu trong suốt; nhiệt độ thấp ( 00C): rắn; nhiệt độ cao ( 1000C): khí. - Đặc tính hoá học: có tính phân cực ( qua liên kết hiđrô ). + Nước đá: các liên kết hiđrô luôn bền vững + Nước thường: các liên kết hiđrô luôn bị bẽ gảy III. Tổ chức: Hoạt động nhóm 2 HS, thảo luận nội dung phiếu học tập học tập sau: Phiếu học tập : - Quan sát hình 3.1 SGK trang 16 cho biết cấu trúc và đặc tính hoá lí của nước. - Quan sát hình 3. 2 SGK trang 16, em hãy phân tích để chỉ ra trạng thái các liên kết hiđrô trong nước đá và nước thường. Cho biết hậu quả gì có thể xảy ra khi ta đưa các tế bào sống vào ngăn đá ở trong tủ lạnh? GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 18 Sáng kiến kinh nghiệm 2. Thiết kế hình thức dạy học theo nhóm 4-5 HS hoặc 7-8 HS: - Ví dụ : Kiến thức các cấp tổ chức của thế giới sống I. Mục tiêu: Sau khi học xong kiến thức này, HS phải: - Hiểu được thế giới sống là một hệ thống mở có tổ chức phức tạp theo cấp bậc lệ thuộc - Phân biệt được các cấp độ tổ chức của hệ thống sống - Giải thích được sự đa dạng và thống nhất giữa các cấp tổ chức - Vẽ được sơ đồ các cấp tổ chức sống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp II. Nội dung chính: * Đặc điểm nổi bậc của sự sống là có tổ chức phức tạp gồm nhiều cấp độ: Các cấp độ đó là: Tế bào ,Cơ thể ,Quần thể ,Loài ,Quần xã , Hệ sinh thái -Sinh quyển 1. Cấp tế bào: - Tế bào là đơn vị tổ chức cơ bản của sự sống - Thành phần chính: màng sinh chất, chất tế bào và nhân - Thành phần cấu tạo nên tế bào: các phân tử; các đại phân tử; các bào quan. 2. Cấp cơ thể: - Cơ thể đơn bào - Cơ thể đa bào: tế bào, mô,cơ quan, cơ thể Như vậy: Cơ thể là một thể thống nhất, gồm nhiều cấp độ tổ chức nhưng hoạt động rất hoà hợp và thống nhất nhờ có sự điều hoà, điều khiển chung. Do đó, cơ thể thích nghi được với môi trường sống thay đổi. 3. Cấp quần thể: - Quần thể bao gồm các cá thể trong cùng một loài tập hợp với nhau trong mối quan hệ sinh sản và đó chính là cơ sở của tiến hoá dưới tác động của chọn lọc tự nhiên GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 19 Sáng kiến kinh nghiệm - Loài là đơn vị phân loại của sinh giới, sự phân bố địa lý của tất cả các cá thể thuộc các quần thể nếu có khả năng giao phối hữu thụ sẽ thuộc về một loài 4. Cấp quần xã: - Quần xã là cấp tổ chức gồm nhiều quần thể thuộc các loài khác nhau cùng chung sống trong một vùng địa lý nhất định. - Trong tổ chức quần xã có: + Tương tác giữa các cá thể trong quần xã + Tương tác giữa các quần thể trong quần xã 5. Hệ sinh thái- sinh quyển: - Hệ sinh thái là hệ thống tương đối hoàn chỉnh bao gồm một quần xã sinh vật và nơi sống của quần xã - Sinh quyển: Khoảng không gian trên trái đất có các cơ thể sống cư trú và các hệ sinh thái hoạt động III. Tổ chức: Hoạt động nhóm 4-5 HS (Hoạt động trao đổi). Phiếu học tập 1: (nhóm 1) - Em hãy đọc thông tin SGK trang 6 và cho biết thành phần cấu tạo nên tế bào và thành phần chính của tế bào? - Tại sao nói cấp độ tế bào là cấp độ tổ chức cơ bản của sự sống? - Các đại phân tử như prôtêin, axit nuclêic, các siêu cấu trúc như các màng bào quan có phải là vật chất sống không? Tại sao không xếp chúng vào các cấp tổ chức của sự sống? Phiếu học tập 2: (nhóm 2) GV: Đỗ Thị Minh Hải - Trường PTDTNT Tây Nguyên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan