Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm phuong phap day hoc mon tu nhien xa hoi o tieu hoc docx...

Tài liệu phuong phap day hoc mon tu nhien xa hoi o tieu hoc docx

.PDF
92
327
117

Mô tả:

…………..o0o………….. Phương pháp dạy học môn tự nhiên xã hội ở tiểu học 1 PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CHƯƠNG 1: CÁC MÔN VỀ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở TIỂU HỌC I. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ CÁC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI (TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI, KHOA HỌC, LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ) Ở TIỂU HỌC Từ năm học 1996- 1997 môn Tự nhiên và Xã hội (TN-XH) được chính thức đưa vào dạy đại trà ở tiểu học. Đây là môn học được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển từ các môn học trước nó như "Khoa học thường thức" (1956), "Tìm hiểu khoa học" (1986), "Tìm hiểu Tự nhiên và Xã hội"(1993). Thực hiện chủ trương đổi mới chương trình và sách giáo khoa ở tiểu học, sau năm 2000 môn Tự nhiên và Xã hội được cấu trúc lại thành các môn: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1,2,3), Khoa học, Lịch sử và Địa lý. Các môn học này được kế thừa, bổ sung và hoàn thiện từ các chủ đề và phân môn của môn TN-XH và môn Sức khoẻ trước đây. Đây là những môn học có vị trí quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu kép của giáo dục tiểu học: tạo điều kiện cho học sinh tiếp tục học tốt các môn học tương ứng ở các lớp trên, hoặc bước vào cuộc sống lao động. II. MỤC TIÊU CHUNG CỦA CÁC MÔN VỀ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Các môn về TN-XH nhằm giúp học sinh lĩnh hội những tri thức ban đầu và thiết thực về con người, tự nhiên và xã hội xung quanh. Qua đó, phát triển cho các em năng lực quan sát, năng lực tư duy, lòng ham hiểu biết khoa học và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Cụ thể: 1.Về kiến thức: Giúp học sinh lĩnh hội những kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về: * Con người: học sinh có những hiểu biết cơ bản về con người ở các phương diện: + Sinh học: sơ lược về cấu tạo, chức phận và sự hoạt động của các cơ quan trong cơ thể người và mối liên hệ giữa con người và môi trường. + Nhân văn: Tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người, các thành quả lao động, sáng tạo của con người, mối quan hệ giữa con người và con người trong gia đình và cộng đồng. * Sức khoẻ: Vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn, các vấn đề về sức khoẻ tinh thần. * Xã hội: Học sinh có những hiểu biết ban đầu về xã hội theo thời gian (Biết được một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu, điển hình trong lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho đến ngày nay), theo không gian (Biết được nơi bản thân, gia đình và cộng đồng cư trú, sơ lược về đất nước Việt Nam, về các châu lục và các nước trên thề giới). * Thế giới vật chất xung quanh: 2 + Giới tự nhiên vô sinh: các vật thể, các chất... + Giới tự nhiên hữu sinh: động, thực vật Ngoài những tri thức cơ bản trên, học sinh còn được cung cấp một số vấn đề về dân số, môi trường. 2. Về kỹ năng: Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng như: - Biết quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản và gần gũi với đời sống hàng ngày. - Biết phân tích, so sánh, dánh giá một số mối quan hệ đơn giản, những dấu hiệu chung và riêng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. - Biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, biết phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn. - Biết vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày. 3. Về thái độ: hình thành và phát triển ở học sinh thái độ và thói quen như: - Ham hiểu biết khoa học. -Yêu thiên nhiên, đất nước, con người, có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sống. - Hình thành thái độ và cách ứng xử đúng đắn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng. Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng, sống hoà hợp với môi trường và cộng đồng. III. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. Đặc điểm chương trình Chương trình các môn TN-XH ( Khoa học, Lịch sử và Địa lý) có những đặc điểm sau: 1.1. Chương trình được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Dạy học theo tư tưởng tích hợp được UNESCO định nghĩa như sau: " Dạy học theo tư tưởng tích hợp là cách trình bày các khái niệm và nguyên lý khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư tưởng khoa học, tránh nhấn mạnh quá muộn hoặc quá sớm sự sai khác giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau"(Hội nghị về khoa học giáo dục của UNESCO- Paris, 1972). Dạy học theo tư tưởng tích hợp còn gọi là dạy học hợp nhất các khoa học. Quan điểm tích hợp được thể hiện trong các môn về TN - XH ở các khía cạnh sau: - Các môn về TN-XH xem xét tự nhiên- xã hội- con người trong một thể thống nhất, có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó con người là yếu tố cơ bản. - Chương trình các môn tích hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như: Vật lý, Hoá học, Sinh học, Địa lý, Lịch sử, Sức khoẻ, Dân số, Môi trường, Kỹ năng sống. - Tuỳ theo trình độ nhận thức của HS ở từng giai đoạn mà chương trình có cấu trúc cho phù hợp. Cụ thể: 3 + Chương trình môn TN-XH (lớp1,2,3) được cấu trúc thành 3 chủ đề lớn: Con người và sức khoẻ, Xã hội, Tự nhiên. Chương trình được cấu trúc đồng tâm, được mở rộng và nâng cao dần qua các lớp. + Chương trình môn Khoa học được cấu trúc thành các chủ đề : Con người và sức khỏe, Vật chất và năng lượng, Động vật và thực vật, Môi trường và tài nguyên thiên nhiên. + Chương trình môn Địa lý và Lịch sử được tích hợp theo quan điểm liên môn, bao gồm các kiến thức về lịch sử và địa lý Việt Nam, sơ lược địa lý thế giới. 1.2.Trong chương trình môn cácTN-XH, kiến thức được trình bày từ gần đến xa, từ dễ đến khó nhằm phù hợp đặc điểm nhận thức của học sinh. 1.3. Chương trình các môn về TN-XH (Đặc biệt là môn TN-XH, Khoa học) được cấu trúc linh hoạt, mềm dẻo, thực tiễn, thiết thực, tạo điều kiện cho giáo viên có thể vận dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Đồng thời, giúp học sinh có thể vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống hàng ngày. 2. Phân phối chương trình: Môn TN-XH Khoa học Lịch sử và Địa lý Lớp Số tiết/ tuần Tổng số 1 2 3 4 5 4 5 tiết 1 35 1 35 2 70 2 70 2 70 2 (ĐL: 1, LS:1) 70 2 (ĐL: 1, LS:1) 70 IV. ĐẶC ĐIỂM SÁCH GIÁO KHOA CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. SGK môn TN-XH và môn Khoa học a. Cách trình bày chung: SGK môn TN-XH, môn Khoa học chủ yếu được trình bày bằng những hình ảnh phong phú, sinh động, màu sắc tươi sáng bao gồm kênh hình và kênh chữ phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. - Khác với SGK môn TN- XH cũ, kênh hình làm nhiệm vụ kép: vừa đóng vai trò cung cấp thông tin, là nguồn tri thức quan trọng của bài học, vừa đóng vai trò chỉ dẫn các hoạt động học tập cho học sinh thông qua các kí hiệu: + " Kính lúp": Yêu cầu học sinh quan sát và trả lời câu hỏi. + " Dấu chấm hỏi": Yêu cầu học sinh liên hệ thực tế và trả lời. + "Cái kéo và quả đấm": Yêu cầu học sinh thực hiện trò chơi học tập. + "Bút chì": Yêu cầu học sinh vẽ những gì đã học. 4 + "Ống nhòm": Yêu cầu HS làm nhiệm vụ thí nghiệm, thực hành. + Bóng đèn toả sáng: bạn cần biết. - Kênh chữ: Chủ yếu là các câu hỏi, các lệnh yêu cầu học sinh làm việc, trả lời câu hỏi. Ở một số bài ở lớp 2 và lớp 3 và nhất là trong môn Khoa học, kênh chữ đã được tăng cường, đóng vai trò là nguồn cung cấp thông tin của bài học. b. Cách trình bày một chủ đề: Mỗi chủ đề đều có một trang riêng để giới thiệu tên chủ đề và một hình ảnh tượng trưng cho chủ đề đó. Mỗi chủ đề được phân biệt bằng một dải màu và một hình ảnh khác nhau. Cụ thể: Chủ đề "Con người và sức khoẻ" được phân biệt bởi màu hồng với kí hiệu là một cậu bé; chủ đề "Xã hội" được phân biệt bởi màu xanh lá cây với kí hiệu là một cô bé; chủ đề "Tự nhiên" được phân biệt bởi màu xanh da trời và có kí hiệu là một ông Mặt Trời. Riêng SGK môn Khoa học: chủ đề" Con người và sức khoẻ" được kí hiệu là 2 học sinh nam, nữ; chủ đề " Vật chất và năng lượng" có kí hiệu Mặt trời; chủ đề " Động vật và thực vật" có kí hiệu là 2 bông hoa hướng dương; chủ đề "Môi trường và tài nguyên thiên nhiên" có kí hiệu là bầu trời xanh. c. Cách trình bày một bài học: Mỗi bài học được trình bày gọn trong hai trang mở liền nhau để học sinh tiện theo dõi. So với sách giáo khoa cũ, cấu trúc của mỗi bài học linh hoạt, mềm dẻo hơn. Có thể bắt đầu bằng những câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh huy động vốn hiểu biết của mình hoặc liên hệ thực tế rồi mới đi đến phát hiện kiến thức mới của bài qua việc quan sát các hình ảnh trong SGK hay các mẫu vật. Cũng có thể bắt đầu bằng lệnh yêu cầu học sinh quan sát tranh ảnh trong SGK hay quan sát thiên nhiên, học ngoài hiện trường để tìm ra kiến thức mới rồi mới tới những câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống. Kết thúc bài học thường là trò chơi hoặc yêu cầu học sinh vẽ, hoặc tiến hành các thí nghiệm, hoặc thực hành những điều mà các em đã học. Với cấu trúc như vậy, mỗi bài học là một chuỗi các trình tự hoạt động học tập của học sinh, đồng thời giúp cho giáo viên lựa chọn các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp. Cuốn sách được coi là người bạn của HS, vì vậy, cách xưng hô với học sinh là "bạn". 2. Sách giáo khoa môn Lịch sử và Địa lý a. Khổ sách: 17 x 24. b. Cách trình bày chung của cuốn sách: - Kênh chữ: Khác với SGK môn TN-XH 1,2,3, trong SGK môn Lịch sử và Địa lý kênh chữ đóng vai trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức, thể hiện nội dung trọng tâm của bài được đặt trong phần đóng khung và hệ thống câu hỏi cuối bài. Ngoài ra còn có những câu hỏi và lệnh ở giữa bài được in nghiêng để học sinh dễ nhận biết và được dùng để hướng dẫn HS làm việc với kênh hình và liên hệ thực tế để tìm ra kiến thức mới. 5 - Kênh hình: So với SGK phần Lịch sử và Địa lý trước đây, kênh hình được tăng lên không những về số lượng mà còn cả về thể loại. Kênh hình không chỉ minh hoạ cho kênh chữ mà còn là nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho HS. c. Cách trình bày một bài học: Khác với SGK môn TN-XH và môn Khoa học, cấu trúc mỗi bài học trong môn Lịch sử và Địa lý gồm có 3 phần: - Phần cung cấp kiến thức bằng kênh hình, kênh chữ. - Phần câu hỏi hoặc yêu cầu các hoạt động học tập: + Câu hỏi hoặc yêu cầu các hoạt động học tập được in nghiêng ở giữa bài gợi ý giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động để khai thác thông tin, rèn luyện kỹ năng. + Câu hỏi ở cuối bài nhằm giúp giáo viên kiểm tra việc thực hiện mục tiêu của bài và củng cố kiến thức của học sinh sau mỗi bài học. - Phần tóm tắt trọng tâm của bài được đóng khung màu. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1: 1. Phân tích mục tiêu của các môn về Tự nhiên và Xã hội 2. Phân tích đặc điểm chương trình các môn về Tự nhiên và Xã hội. Cho ví dụ minh hoạ. 3. Phân tích đặc điểm sách giáo khoa các môn: Tự nhiên và Xã hội, Khoa học, Lịch sử và Địa lý. Chương II PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN - XH I. ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN – XH Một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa ở bậc tiểu học nói chung, trong các môn về TN-XH nói riêng là đổi mới PPDH. Đổi mới PPDH được hiểu là đưa các PPDH mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các PPDH truyền thống nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Từ đặc điểm chương trình và SGK các môn về TN-XH, từ quan điểm đổi mới PPDH ở bậc tiểu học, việc sử dụng PPDH các môn về TN-XH cần dựa trên các định hướng cơ bản sau: - Đề cao vai trò chủ thể của người học: Đây chính là cách dạy học hướng tập trung vào học sinh, học sinh thực sự là chủ thể nắm tri thức, rèn luyện kỹ năng. Trong dạy học các môn TN-XH, thay cho việc chủ yếu là giảng giải, thuyết trình, đọc, nói theo tài liệu có sẵn, GV cần huy động tối đa kinh nghiệm và vốn tri thức có sẵn của HS để tổ chức cho các em tự phát hiện tri thức mới của bài học. GV thiết kế, hệ thống câu hỏi, bài tập giao cho HS thực hiện với sự hướng dẫn, giúp đỡ khi cần thiết, tổ chức các hoạt động như quan sát, thảo luận nhóm, trò chơi học tập ... qua đó giúp HS lĩnh hội kiến thức của bài học một cách tích cực, chủ động. 6 - Đưa các PPDH mới vào quá trình dạy học các môn về TN-XH trên cơ sở phát huy những ưu điểm của các PPDH truyền thống nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Trong dạy học các môn về TN-XH không phủ nhận việc sử dụng các PPDH truyền thống như gỉang giải, hỏi đáp... Tuy nhiên, GVcần sử dụng các PPDH này theo quan điểm phát triển, kích thích, phát huy vai trò chủ động, tích cực nhận thức của HS, tạo mọi điều kiện cho HS được tham gia tích cực vào việc xây dựng bài học. Bên cạnh phát huy ưu điểm của các PPDH truyền thống, cần vận dụng một cách linh hoạt các PPDH mới như thảo luận, điều tra, đóng vai, động não...Đây là các PPDH yêu cầu HS phải hoạt động tích cực với các nguồn tri thức như vật thật, tranh ảnh, sơ đồ...,đồng thời vận dụng vốn tri thức, vốn hiểu biết của mình để tự phát hiện kiến thức của bài học. - Liên quan đến việc đổi mới PPDH, đòi hỏi phải đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đổi mới cách đánh giá trong dạy học các môn về TN-XH. II. HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH Các môn về TN-XH tích hợp kiến thức của các ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Vì vậy phương pháp dạy học các môn này cũng rất phong phú và đa dạng. Trong các giáo trình giáo dục học dành cho các hệ đào tạo giáo viên tiểu học ở các trường sư phạm hiện nay, các nhà giáo dục học vẫn sử dụng cách phân loại các PPDH theo nguồn tri thức và đặc điểm tri giác thông tin theo các nhóm sau: -Nhóm các phương pháp dạy học dùng lời. -Nhóm các phương pháp dạy học trực quan. -Nhóm các phương pháp dạy học thực hành. Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm các môn về TN-XH, vào đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học, theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học tiểu học, các phương pháp dạy học được dùng phổ biến trong dạy học các môn về TN-XH là: các phương pháp thuyết trình, hỏi đáp, quan sát, thí nghiệm, kể chuyện, điều tra, thảo luận... 1. Các phương pháp thuyết trình: 1.1.Khái niệm: Thuyết trình là phương pháp dạy học thông dụng, trong đó giáo viên dùng lời nói để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi tiết, dễ hiểu cho học sinh tiếp thu. 1.2. Các dạng thuyết trình được sử dụng trong dạy học các môn TN-XH: a. Giảng giải: Là dạng thuyết trình, trong đó giáo viên dùng lời nói của mình để làm sáng rõ những khái niệm, thuật ngữ, bản chất lô gic của một hiện tượng nào đó, những mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. 7 Phương pháp này thường được sử dụng trong các bài học lĩnh hội tri thức mới về những vấn đề khó, phức tạp mà học sinh không đủ khả năng tự tìm hiểu qua các hoạt động độc lập. Giảng giải còn được dùng để hướng dẫn cách thức tiến hành các hoạt động của học sinh. Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả, cần lưu ý một số vấn đề sau: - Lời nói của giáo viên phải rõ ràng, chính xác, sinh động, giàu hình ảnh, tốc độ vừa phải. - Ngắn gọn dễ hiểu đối với học sinh: sử dụng những từ ngữ đơn giản, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh nhưng không làm cho học sinh hiểu sai khái niệm khoa học được đề cập đến. - Cần sử dụng giảng giải theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, tránh lạm dụng nó. b. Kể chuyện: Là dạng thuyết trình đặc biệt, được sử dụng trong dạy học môn TN-XH, nhất là với nhóm kiến thức lịch sử. Kể chuyện là cách dùng lời nói trình bày một cách sinh động, có hình ảnh và truyền cảm đến học sinh về một nhân vật, một sự kiện lịch sử, hoặc một hiện tượng tự nhiên, một phát minh khoa học, một vùng đất xa lạ. * Ưu điểm của phương pháp kể chuyện. - Kể chuyện tạo nên một bức tranh sinh động về những sự kiện, hiện tượng, về những nhân vật dễ gây hứng thú cho học tập cho học sinh. - Việc kể chuyện góp phần phát triển trí tưởng tượng cho học sinh. - Sức mạnh của chuyện kể của giáo viên còn ở sự tạo ra cho học sinh niềm tin vào cái Chân - Thiện - Mỹ, vào sức sáng tạo vô hạn của con người trong việc cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội. Ngoài ra khi kể lại những câu chuyện, học sinh được tập diễn đạt câu chuyện theo ý tưởng và ngôn ngữ của mình từ đó phát triển ngôn ngữ, tư duy, khả năng diễn đạt của các em. *Tình huống sử dụng : Giáo viên có thể sử dụng phương pháp kể chuyện khi giới thiệu bài mới để gây hứng thú học tập cho học sinh, hoặc có thể sử dụng xen kẽ trong tiết học, vào cuối tiết học, cũng có thể giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện trong phần lớn thời gian của tiết học nhất là khi dạy các bài học trình bày các sự kiện lịch sử như diễn biến của cuộc khởi nghĩa, trận đánh trong phân môn Lịch sử. * Ví dụ về sử dụng phương pháp kể chuyện. - Ví dụ sử dụng phương pháp kể chuyện khi bắt đầu bài học. Không khí gồm những thành phần nào? (Khoa học 4) 8 Để gây hứng thú học tập, kích thích trí tò mò cho học sinh, GV có thể bắt đầu bài học bằng chuyện kể sau : Người đầu tiên trên thế giới phát hiện tra các thành phần của không khí là nhà bác học người Pháp tên là Lavôdiê. Ông đã khám phá ra các thành phần của không khí bằng cách nào? Không khí gồm những thành phần nào? Bài học hôm nay bằng các thí nghiệm chúng ta sẽ trả lời cho các câu hỏi này. * Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp kể chuyện Khi sử dụng phương pháp kể chuyện cần lưu ý một số vấn đề sau : - Lựa chọn các câu chuyện sao cho phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học. - Xác định thời điểm sử dụng kể chuyện (vào giai đoạn nào của tiết học). - Dự kiến được các PP, phương tiện có thể sử dụng kết hợp với kể chuyện - Lời kể của giáo viên phải sinh động, hấp dẫn, giàu hình ảnh, uyển chuyển, kết hợp lời kể với cử chỉ, nét mặt, với việc sử dụng các phương tiện trực quan cần thiết. Có như vậy mới lôi cuốn, gây hứng thú cho học sinh. - Dành thời gian cho học sinh thảo luận hoặc cho học sinh kể lại câu chuyện bằng ngôn ngữ của mình. 2. Phương pháp quan sát. Quan sát là phương pháp dạy học đặc trưng của các môn về TN-XH, nhất là môn TN-XH lớp 1,2,3 và môn Khoa học. 2.1.. Khái niệm: Phương pháp quan sát là cách thức tổ chức cho học sinh sử dụng các giác quan khác nhau để tri giác các sự vật, hiện tượng một cách có mục đích, có kế hoạch, có trọng tâm, qua đó rút ra được những kết luận khoa học. 2.2. Tác dụng của phương pháp quan sát: Đối với học sinh tiểu học, tư duy trực quan cụ thể còn chiếm ưu thế, thông qua việc tổ chức cho học sinh quan sát mới hình thành cho các em những biểu tượng và những khái niệm đầy đủ, chính xác, sinh động về thế giới tự nhiên và xã hội xung quanh. Qua đó, phát triển năng lực quan sát, năng lực tư duy và ngôn ngữ cho các em. 2.3.. Cách thức sử dụng: Giáo viên sử dụng phương pháp quan sát để dạy các bài học mà học sinh có thể chiếm lĩnh kiến thức từ các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và xã hội xung quanh hoặc từ tranh ảnh, mô hình, sơ đồ, biểu đồ, mẫu vật. Có thể tổ chức cho học sinh tiến hành quan sát theo trình tự sau: * Lựa chọn đối tượng quan sát: Đối tượng quan sát có thể là các hiện tượng đang xảy ra trong môi trường tự nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, vật thật hay tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, mô hình... Căn cứ vào mục tiêu, nội dung của từng bài học mà giáo viên lựa chọn đối tượng quan sát cho phù hợp. 9 * Xác định mục đích quan sát: Trong một bài học không phải mọi kiến thức cần cung cấp cho học sinh đều được rút ra từ quan sát, vì vậy khi đã chuẩn bị được đối tượng quan sát cần xác định việc quan sát phải đạt những mục đích nào ? Ví dụ: Quan sát các loại quả (TN-XH 3) Nếu như đối tượng quan sát là các loại quả thật thì giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng các giác quan khác nhau để quan sát màu sắc, hình dạng, kích thước, mùi vị, dùng tay (hoặc dao) bổ đôi quả để quan sát thịt và hạt của các loại quả, so sánh chúng với nhau. Trong trường hợp chỉ có tranh vẽ các loại quả thì giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhận xét về màu sắc, hình dạng, kích thước, dựa vào kinh nghiệm của mình để nhận xét mùi vị của quả. *Tổ chức và hướng dẫn quan sát: - Có thể tổ chức cho học sinh quan sát cá nhân, theo nhóm hoặc toàn lớp là tuỳ thuộc vào số đồ dùng dạy học có được. Các nhóm có thể cùng quan sát một đối tượng để giải quyết chung một nhiệm vụ học tập hoặc mỗi nhóm có thể có một đối tượng quan sát riêng, giải quyết nhiệm vụ riêng. Nếu đối tượng quan sát là vật thật (động, thực vật tươi sống, các dạng vật liệu thường dùng...), GV cần khuyến khích học sinh sử dụng các giác quan khác nhau vào quá trình quan sát nhằm thu được biểu tượng đầy đủ, chính xác, sinh động về đối tượng. Trong trường hợp đối tượng quan sát là tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, mô hình, các diễn biến thí nghiệm... GV hướng dẫn HS sử dụng thị giác để quan sát các đối tượng một cách có mục đích, có kế hoạch. - Cần hướng dẫn HS quan sát đối tượng theo một trình tự nhất định: từ tổng thể đến các chi tiết, bộ phận, từ bên ngoài vào bên trong. - Cần hướng dẫn HS so sánh, liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác đã biết để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng. *Tổ chức cho HS báo cáo kết quả quan sát: Kết thúc quan sát từng cá nhân hoặc đại diện các nhóm báo cáo kết quả quan sát, cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến. * Hoàn thiện kết quả quan sát, rút ra kết luận chung. 2.4. Một số điểm lưu ý khi sử dụng PP quan sát Để sử dụng phương pháp quan sát có hiệu quả, cần lưu ý một số điểm sau: - GV cần chuẩn bị chu đáo kế hoạch dạy học, xác định rõ thời điểm tổ chức cho HS quan sát. - Cần chuẩn bị đầy đủ các đối tượng quan sát phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học: tranh ảnh, mẫu vật, sơ đồ, bản đồ... - GV cần chuẩn bị được hệ thống câu hỏi, bài tập chính để hướng dẫn học sinh quan sát các sự vật, hiện tượng có mục đích, có trọng tâm. Những câu hỏi đó cần bắt đầu bằng những từ chỉ hành động mà muốn trả lời được học sinh phải sử dụng các giác 10 quan của mình để phán đoán, cảm nhận sự vật và hiện tượng (hãy nhìn, hãy nghe, hãy sờ, hãy ngửi, nếm). Hệ thống câu hỏi này cũng cần được sắp xếp từ những câu hỏi khái quát (nhằm hướng dẫn các em quan sát tổng thể trước) đến những câu hỏi chi tiết, cụ thể (nhằm hướng dẫn các em quan sát các bộ phận); những câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong. Tiếp theo là những câu hỏi yêu cầu học sinh phải so sánh liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác đã biết để tìm ra những đặc điểm giống nhau hoặc khác nhau. Cuối cùng là những câu hỏi yêu cầu học sinh dẫn đến nhận xét hay kết luận chung về sự vật, hiện tượng được quan sát. - Việc tổ chức, hướng dẫn quan sát cần phải phức tạp dần phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh ở các lứa tuổi khác nhau. Ví dụ, ở các lớp 1,2,3 chủ yếu cho HS quan sát các sự vật hiện tượng dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV, chỉ yêu cầu các em phát biểu kết quả quan sát bằng lời, chưa yêu cầu ghi chép. ở các lớp 4,5 nhiệm vụ quan sát cần được nâng cao hơn. Có thể hướng dẫn HS độc lập quan sát có hệ thống không chỉ trên lớp, mà còn quan sát các sự vật, hiện tượng diễn ra trong một thời gian dài nhất định, có yêu cầu ghi chép kết qủa, rút ra nhận xét, viết tường trình. 2.5 Ví dụ về sử dụng PP quan sát Theo tinh thần đổi mới PPDH ở tiểu học, có thể tổ chức cho học sinh quan sát kết hợp thảo luận nhóm để các em có thể rút ra kiến thức của bài học. Lá cây (TN-XH 3). + Lựa chọn đối tượng quan sát: Mục tiêu chủ yếu của bài này là giúp học sinh nhận biết được các loại lá cây có hình dạng, kích thước khác nhau, đa số lá cây có màu xanh, một số lá có màu đỏ hoặc màu vàng. Lá cây có các phần: Cuống lá, phiến lá, trên phiến lá có gân lá. Ở bài này đối tượng quan sát tốt nhất là các loại lá cây thật. Giáo viên và học sinh chuẩn bị một số lá cây có hình dạng, kích thước khác nhau như: Lá trầu không, lá tía tô, lá lúa, lá phượng, lá rau ngót. +Tổ chức cho học sinh quan sát kết hợp thảo luận nhóm: Giáo viên chia học sinh thành từng nhóm, phát phiếu giao việc và các loại lá cây cho các nhóm. Trong phiếu giao việc giáo viên xác định rõ mục đích quan sát , hướng dẫn học sinh quan sát một cách tổng thể về lá cây, thảo luận về đặc điểm của các loại lá cây, điền kết quả vào phiếu giao việc. Phiếu giao việc : Câu1. Em hãy quan sát các loại lá cây và điền vào bảng sau: TT Tên lá Màu sắc 11 Hình dạng Kích thước Câu 2. Hãy chỉ trên từng lá đâu là cuống lá, phiến lá, gân lá. Câu3. Các loại lá cây có những đặc điểm gì giống và khác nhau? Các nhóm trên cơ sở phiếu giao việc và hướng dẫn của giáo viên tiến hành quan sát, thảo luận về màu sắc, hình dạng, kích thước của các loại lá, chỉ ra được lá cây thường có màu xanh lục , cũng có lá có màu đỏ hoặc màu vàng, các lá khác nhau có hình dạng, kích thước khác nhau. Kết thúc thảo luận nhóm, đại diện các nhóm lên trình bày kết quả quan sát của mình, cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến, giáo viên nhận xét, ghi những kết luận lên bảng. Để giúp học sinh nắm được cấu tạo của lá, các nhóm tiếp tục quan sát, thảo luận và ghi kết quả quan sát vào câu 2 của phiếu. Các nhóm quan sát thảo luận và đưa ra được kết luận : lá có các phần: Cuống lá, phiến lá, trên phiến lá có gân lá. *Phần tổng kết : Giáo viên gọi học sinh nêu đặc điểm các loại lá cây và các phần của chúng. Giáo viên cũng dành ít phút để biểu dương các nhóm đã tích cực quan sát, có kết quả quan sát tốt. 3. Phương pháp hỏi đáp. 3.1. Khái niệm: Phương pháp hỏi đáp là cách thức đối thoại giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau dựa trên hệ thống câu hỏi nhằm dẫn dắt học sinh đi đến những kết luận khoa học, hoặc vận dụng vốn hiểu biết của mình để tìm hiểu những vấn đề học tập, vấn đề của cuộc sống, trong tự nhiên và xã hội. 3.2. Tác dụng của phương pháp hỏi đáp - Thông qua việc hỏi đáp giáo viên tạo ra trong học sinh nhu cầu nhận thức và các em được tham gia giải quyết những vấn đề do bài học đặt ra. - Thông qua việc hỏi đáp giáo viên có thể dễ dàng nắm được năng lực học tập, trình độ nhận thức của học sinh, từ đó điều chỉnh hoạt động dạy của mình để nâng cao hiệu quả dạy học. - Khi sử dụng phương pháp hỏi đáp, không khí lớp học sôi động hơn, học sinh tích cực, hứng thú học tập hơn, do đó phát triển được tư duy độc lập, tính tích cực nhận thức và năng lực diễn đạt bằng lời của học sinh. 3.3. Cách thức sử dụng: Tuỳ theo yêu cầu sư phạm, giáo viên có thể sử dụng 3 dạng hỏi đáp : + Hỏi đáp tái hiện: Loại hỏi đáp thường được sử dụng để kiểm tra bài cũ, ôn tập, hoặc để khai thác vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh làm điểm tựa cho việc lĩnh hội tri thức mới của bài học. Ví dụ: Kể tên một vài bệnh về tim mạch mà bạn biết. (bài 9: Phòng bệnh tim mạch, TN-XH 3) 12 -Kể tên một số thức ăn chứa nhiều chất đạm mà bạn biết.(bài 5. Vai trò của chất đạm và chất béo. Khoa học 4) ..... + Hỏi đáp thông báo: Trên cơ sở những kiến thức tối thiểu làm điểm tựa, giáo viên đặt câu hỏi cho HS nhằm dẫn dắt các em lĩnh hội tri thức mới. Ví dụ: Thú con mới sinh ra đã có hình dạng giống thú mẹ chưa? Thú con mới ra đời được thú mẹ nuôi bằng gì? (Bài 59. Sự sinh sản của thú. Khoa học 5) + Hỏi đáp có tính chất tìm tòi khám phá: Dạng hỏi đáp này có tác dụng kích thích sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh. Đó là những câu hỏi yêu cầu học sinh dựa vào kiến thức đã học để suy luận, giải thích được nguyên nhân, bản chất, mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: -Hãy giải thích tại sao ban ngày gió từ biển thổi vào đất liền và ban đêm gió từ đát liền thổi ra biển? (Bài 37: Tại sao có gió? Khoa học 4) - Tại sao châu Phi có khí hậu khô nóng bậc nhất thế giới? (Bài 23. Châu Phi, Lịch sử và Địa lý 5). Trong quá trình dạy học giáo viên cần sử dụng linh hoạt các dạng hỏi đáp trên, cần chú trọng tới dạng hỏi đáp tìm tòi khám phá vì nó phát huy được tính tích cực, độc lập, tư duy sáng tạo của học sinh. 3.4. Một số điểm lưu ý khi sử dụng phương pháp hỏi đáp. Nghệ thuật đặt câu hỏi là yếu tố quyết định thành công của phương pháp hỏi đáp. Vì vậy, khi đặt câu hỏi giáo viên cần lưu ý một số điểm sau: - Phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu - Phải lôgic, phù hợp với nội dung bài dạy - Phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh - Phải kích thích được sự suy nghĩ, tìm tòi của học sinh. - Tránh đặt những câu hỏi chung chung, quá dễ hoặc quá khó, tránh đặt những câu hỏi trong đó đã có sẵn câu trả lời, học sinh có thể đoán ra mà không cần động não gì cả. Tránh đặt những câu hỏi yêu cầu học sinh đoán mò hoặc chỉ trả lời có hoặc không. -Cần lưu ý rèn luyện cho học sinh biết cách trả lời thành câu tương đối hoàn chỉnh với vốn từ ngữ của các em. Mặt khác phải dạy cho các em biết cách tự đặt ra những câu hỏi trong quá trình học tập. 3.5. Ví dụ minh hoạ Bài 60. Nhu cầu không khí của thực vật (Khoa học 5) Để giúp học sinh tìm hiểu về sự trao đổi khí của thực vật trong quá trình quang hợp và hô hấp, trước hết GV có thể đặt câu hỏi yêu cầu HS ôn lại các kiến thức cũ: - Không khí gồm những thành phần nào? 13 - Không khí có vai trò như thế nào đối với con người, động, thực vật? Tiếp đến, GV yêu cầu HS quan sát hình vẽ trang 120, 121 SGK, và dựa vào kiến thức lớp dưới để trả lời các câu hỏi (có thể cho HS làm việc theo cặp, tự đặt câu hỏi cho nhau và trả lời): - Trong quá trình quang hợp thực vật hấp thụ khí gì và thải ra khí gì? - Trong quá trình hô hấp thực vật hấp thụ khí gì và thải ra khí gì? - Quá trình quang hợp xảy ra khi nào? - Quá trình hô hấp xảy ra khi nào? - Điều gì xảy ra với thực vật nếu một trong hai quá trình trên bị ngừng? Trên cơ sở câu trả lời của HS, GV kết luận: Thực vật cần không khí để quang hợp và hô hấp. Nếu thiếu không khí thì cây sẽ bị chết, dù được cung cấp đầy đủ nước, chất khoáng và ánh sáng. 4. Phương pháp thí nghiệm. Thí nghiệm là phương pháp được sử dụng phổ biến trong dạy học môn Khoa học vì đây là môn học tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học thực nghiệm (Vật lý, Hoá học, Sinh học). 4.1. Tác dụng của phương pháp thí nghiệm Đối với học sinh tiểu học, tư duy trực quan cụ thể còn chiếm ưu thế, thí nghiệm tuy không nhiều trong chương trình nhưng lại có ý nghĩa lớn lao trong việc tạo ra niềm tin có cơ sở khoa học vào kiến thức mới. Học sinh dễ hiểu các hiện tượng phức tạp, do đó kích thích được sự say mê khoa học và hứng thú học tập. - Trong quá trình tiến hành thí nghiệm, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh quan sát, phán đoán, phân tích, so sánh, tổng hợp để rút ra những kết luận khoa học, các thao tác tư duy được phát triển: - Việc làm thí nghiệm góp phần hình thành cho học sinh kỹ năng kỹ xảo thực hành và vận dụng tri thức vào thực tiễn. 4.2. Đặc điểm thí nghiệm ở tiểu học: - Khác với các lớp trên, ở tiểu học thí nghiệm chỉ tìm hiểu những hiện tượng về định tính mà chưa đi sâu vào định lượng. - Các thí nghiệm trong chương trình Khoa học lớp 4,5 có thể phân thành các loại sau: + Loại nghiên cứu mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết qủa. + Loại nghiên cứu điều kiện (cái này là điều kiện của cái kia). + Loại nghiên cứu tính chất của vật. 4.3. Cách thức sử dụng: Thí nghiệm có thể tiến hành theo trình tự sau: Bước 1: Xác định mục đích thí nghiệm 14 Việc xác định đúng mục đích thí nghiệm là rất quan trọng, giúp cho việc biểu diễn thí nghiệm đúng mục tiêu đề ra, thí nghiệm đạt được hiệu quả cao. Bước 2: Vạch kế hoạch thí nghiệm: Giáo viên cần liệt kê những dụng cụ thí nghiệm cần có và những điều kiện để tiến hành thí nghiệm. Đồng thời phải vạch được kế hoạch cụ thể: làm gì trước? làm gì sau? thực hiện thao tác gì trên vật nào? quan sát dấu hiệu gì? ở đâu? bằng giác quan nào hoặc bằng phương tiện gì? Mặt khác, việc vạch kế hoạch thí nghiệm một cách đúng đắn có thể khắc phục được một số khó khăn khi gặp những bài học có nhiều thí nghiệm chứng minh mà thời gian ở lớp có hạn. Bước 3: Tiến hành thí nghiệm: - Giáo viên giới thiệu dụng cụ thí nghiệm, cách bố trí, lắp rắp thí nghiệm, đề ra những mâu thuận nhận thức để gây hứng thú, trí tò mò của học sinh đối với thí nghiệm. Có thể tổ chức cho HS tiến hành thí nghiệm theo từng cá nhân, theo nhóm hoặc cả lớp tùy theo mục tiêu, đặc điểm của từng thí nghiệm . - Giáo viên cần sử dụng hệ thống câu hỏi dẫn dắt phù hợp với tiến trình thí nghiệm (câu hỏi trước khi, trong khi và sau khi làm thí nghiệm). Bước 4: Tổng kết thí nghiệm và liên hệ thực tế: ở bước này giáo viên hoặc hoc sinh nêu lại diễn biến thí nghiệm, rút ra những kết luận khoa học. Giáo viên nêu một số ứng dụng trong cuộc sống có liên quan đến thí nghiệm hoặc giải thích một số hiện tượng xẩy ra trong tự nhiên. 4.3. Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp thí nghiệm *Đối với thí nghiệm: -Thí nghiệm phải bảo đảm tính vừa sức, rõ ràng, hiệu quả và an toàn. -Các thiết bị cần đảm bảo tính khoa học và tính trực quan. *Đối với giáo viên: + Khi biểu diễn thí nghiệm phải làm sao cho tất cả học sinh đều nhìn rõ các bộ phận và các chi tiết chính của dụng cụ thí nghiệm, nếu cần đưa đến từng bàn cho học sinh quan sát. + Thí nghiệm phải đảm bảo thành công: Muốn vậy giáo viên phải chuẩn bị chu đáo và thử đi thử lại nhiều lần. +Phải chuẩn bị chu đáo hệ thống câu hỏi dẫn dắt theo tiến trình của thí nghiệm. +Trong tiến trình thí nghiệm cần phối hợp một cách hợp lý các PPDH khác. 4.4. Ví dụ minh họa Bài 30 " Làm thế nào để biết có không khí?" (Khoa học 4) I. Mục tiêu: Sau bài học HS biết: - Không khí tồn tại khắp nơi trên trái đất 15 - Làm thí nghiệm để chứng minh không khí có ở quanh mọi vật và các chỗ rỗng trong các vật. - Hiểu khái niệm khí quyển II. Đồ dùng dạy học: - Chuẩn bị các đồ dùng DH theo nhóm: các túi ni lông, dây chun, đinh (hoặc tăm nhọn), chậu, chai không, miếng bọt biển hoặc một mẩu đất khô. III. Hoạt động dạy học Hoạt động 1: TN chứng minh không khí có ở quanh mọi vật Mục tiêu: Phát hiện sự tồn tại của không khí và không khí có ở quanh mọi vật. Cách thức tiến hành: -GV chia HS thành các nhóm, yêu cầu các nhóm chuẩn bị các dụng cụ TN: túi ni lông nhỏ, dây chun. GV hướng dẫn các nhóm làm cho không khí vào đầy túi ni lông rồi lấy dây chun buộc lại. - Các nhóm trả lời câu hỏi: -Cái gì đã làm cho túi ni lông căng phồng? -Điều đó chứng tỏ xung quanh ta có gì? GV hướng dẫn HS lấy đinh (hoặc tăm nhọn) đâm thủng túi ni lông đang căng phồng Hiện tượng gì đã xảy ra? để tay lên chỗ thủng ta có cảm giác gì? Qua TN trên chúng ta có thể rút ra kết luận gì? Hoạt động 2: Thí nghiệm chứng minh không khí có trong những chỗ rỗng của mọi vật. Mục tiêu: HS biết được không khí có ở khắp nơi, kể cả trong những chỗ rỗng của vật. Cách tiến hành: GV yêu cầu các nhóm chuẩn bị các dụng cụ TN lên bàn: chậu thuỷ tinh, chai rỗng, miếng bọt biển (hoặc mẩu đất khô) Câu hỏi trước khi làm TN: Điều gì sẽ xảy ra khi ta nhúng chìm chai rỗng và miếng bọt biển vào chậu nước? -Các nhóm tiến hành TN, quan sát và mô tả hiện tượng khi nhúng chìm chai và miếng bọt biển vào chậu nước. -Các nhóm báo cáo kết quả và giải thích tại sao có nhiều bong bóng khí thoát ra từ miệng chai và tại sao có nhiều bọt nước nhỏ li ti thoát ra từ miếng bọt biển qua 2 thí nghiệm. Qua các thí nghiệm trên chúng ta có thể rút ra kết luận gì về sự tồn tại của không khí? 16 Kết luận: Không khí có ở khắp nơi: ở xung quanh mọi vật và mọi chỗ rỗng bên trong của vật. Hoạt động 3: Tìm hiểu khái niệm khí quyển - GV cho HS tìm hiểu khái niệm khí quyển và tìm một số ví dụ chứng tỏ không khí có ở khắp nơi. 5. Phương pháp thực hành Phương pháp thực hành được sử dụng phổ biến trong dạy học các môn về TN-XH, nhất là các bài có nội dung về giáo dục sức khoẻ. * Tác dụng của phương pháp thực hành -Củng cố những kiến thức mà học sinh đã lĩnh hội -Hình thành, củng cố kỹ năng cho học sinh -Hình thành một số thói quen tốt cho học sinh -Làm cho giờ học sinh động, học sinh học tập hứng thú, tích cực * Cách thức sử dụng -Thực hành có thể thực hiện trong tiết học: thực hành rửa mặt, thực hành đánh răng, thực hành quét dọn lớp học. -Thực hành có thể tiến hành ngoài lớp học như: thực hành vệ sinh trường học, vệ sinh nhà ở, vệ sinh môi trường ở địa phương. -Có thể tổ chức cho học sinh thực hành theo cá nhân, theo nhóm, cả lớp - Thực hành có thể tổ chức dưới dạng trò chơi học tập. Ví dụ trò chơi "Dự báo thời tiết" *Ví dụ về sử dụng phương pháp thực hành Bài 7. Thực hành: Đánh răng và rửa mặt (TN-XH 1) I. Mục tiêu - Giúp học sinh biết đánh răng và rửa mặt đúng cách - Biết áp dụng chúng vào việc làm vệ sinh cá nhân hàng ngày. II. Đồ dùng dạy học -GV: chuẩn bị mô hình hàm răng, bàn chải, kem đánh răng, chậu rửa mặt, xà phòng thơm, các xô chậu đựng nước sạch. HS: Mỗi học sinh chuẩn bị 1 bàn chải, cốc, khăn mặt III. Hoạt động dạy học Hoạt động 1: Thực hành đánh răng Mục tiêu: giúp học sinh biết đánh răng đúng cách Cách tiến hành: Bước 1: Làm việc cả lớp GV cho học sinh quan sát mô hình hàm răng và đặt câu hỏi: 17 - Đâu là mặt trong của răng? - Đâu là mặt ngoài của răng? -Đâu là mặt nhai của răng? Một số học sinh chỉ vào mô hình hàm răng và trả lời Hàng ngày các em chải răng như thế nào? (gọi một số HS trả lời và lên làm thử các động tác chải răng bằng bàn chải GV mang đến lớp, trên mô hình hàm răng. Một số học sinh nhận xét bạn nào làm đúng, bạn nào làm sai. GV hỏi cả lớp : Cách chải răng như thế nào là đúng? GV làm mẫu lại động tác đánh răng với mô hình hàm răng, đồng thời giải thích cách làm: + Chuẩn bị cốc và nước sạch + Lấy kem đánh răng vào bàn chải + Chải răng theo hướngđưa bàn chải từ trên xuống, từ dưới lên + Lần lượt chải mặt ngoài, mặt trong và mặt nhai của răng. + Súc miệng kỹ + Rửa sạch và cất bàn chải vào đúng nơi qui định sau khi đánh răng. Bước 2: Làm việc cá nhân Lần lượt từng cá nhân thực hành đánh răng theo chỉ dẫn trên của GV. GV theo dõi, hướng dẫn, giúp học sinh đánh răng đúng cách. Hoạt động 2: Thực hành rửa mặt Mục tiêu: giúp HS biết rửa mặt đúng cách Cách tiến hành: Bước 1: Giáo viên hướng dẫn chung cho cả lớp GV nêu câu hỏi: Ai có thể cho cả lớp biết: rửa mặt như thế nào là đúng cách và hợp vệ sinh nhất? Vì sao? Một số học sinh trả lời câu hỏi và thực hiện động tác rửa mặt, cả lớp nhận xét đúng, sai. GV giải thích và hướng dẫn cách rửa mặt hợp vệ sinh: + Chuẩn bị khăn sạch, nước sạch. + Rửa tay sạch bằng xà phòng + Dùng hai bàn tay đã sạch hứng nước sạch để rửa mặt, xoa kỹ xung quanh mắt, trán, hai má, miệng và cằm + Dùng khăn sạch lau khô vùng mắt trước rồi mới lau các nơi khác. + Vò sạch khăn và vắt khô, dùng khăn lau vành tai và cổ. + Cuối cùng giặt khăn mặt bằng xã phòng và phơi ra nắng hoặc chỗ khô ráo, thoáng. 18 Bước 2: Từng học sinh thực hành rửa mặt theo hướng dẫn của GV (nếu đủ điều kiện về vệ sinh) Dặn dò: GV nhắc nhở học sinh đánh răng vào buổi sáng sau khi thức dậy và buổi tối sau khi ăn, thường xuyên rửa mặt sạch sẽ bằng nước sạch, khăn sạch. 6. Phương pháp thảo luận. Thảo luận là sự bàn bạc, trao đổi ý kiến giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau về một vấn đề học tập hoặc một vấn đề về cuộc sống. Trong dạy học các môn về TN-XH, thảo luận được sử dụng rộng rãi: Thảo luận có thể là một phần của bài học để tìm tòi, xác định vấn đề hoặc để nhận định, đánh gía một vấn đề. Về hình thức, thảo luận có thể được tiến hành theo nhóm nhỏ hoặc cả lớp. * Thảo luận cả lớp: Khác với phương pháp hỏi đáp, khi tổ chức cho học sinh thảo luận cả lớp học sinh giữ vai trò chính trong việc nêu câu hỏi và trả lời. Nếu một vấn đề đưa ra được phân tích ở nhiều khía cạnh và có những ý kiến trái ngược nhau xuất hiện phải tranh luận sôi nổi mới tìm ra kết luận, đó là những dấu hiệu chứng tỏ giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận thành công. Muốn thảo luận thành công giáo viên cần phải đặt kế hoạch một cách cẩn thận, trước hết ở khâu lựa chọn chủ đề thảo luận. Chủ đề thảo luận được lựa chọn có thể là chủ đề mở, có thể xem xét chúng ở nhiều mặt, nhiều khía cạnh theo những quan điểm khác nhau. Ví dụ: Chúng ta nên ăn uống như thế nào để cơ thể khoẻ mạnh?( TN-XH 2) Bạn đã làm gì để môi trường xung quanh nhà bạn sạch sẽ?( TN-XH 2) - Khi ở trường, bạn nên chơi và không nên chơi những trò chơi gì? Tại sao? (TN-XH 3).v.v... Sau khi nêu chủ đề cần thảo luận cho cả lớp, giáo viên có thể lấy tinh thần xung phong hoặc cử một học sinh nói đầu tiên. Giáo viên theo dõi tiến triển của cuộc thảo luận, hướng ý kiến của học sinh theo đúng kế hoạch dự kiến. *Thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm tạo điều kiện để học sinh trình bày ý kiến, quan điểm của mình về một vấn đề học tập trong một khoảng thời gian nhất định. Từng thành viên trong nhóm có thể bày tỏ ý kiến của mình, cùng lắng nghe ý kiến của các bạn khác để hoàn thành nhiệm vụ chung của cả nhóm. * Cách thức tiến hành: Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước sau: - Chia nhóm : tuỳ theo số lượng học sinh trong lớp mà GV có thể chia nhóm cho phù hợp, có thể chia theo vị trí bàn học 2 hoặc 4, hoặc 6 học sinh. 19 - Tổ chức cho HS thảo luận nhóm: Ổn định tổ chức, giao nhiệm vụ thảo luận cho các nhóm thông qua phiếu học tập hoặc lời chỉ dẫn trực tiếp của GV. Các nhóm tiến hành bàn bạc thảo luận để hoàn thành nhiệm vụ được giao, GV theo dõi hoạt động của các nhóm, kịp thời giúp đỡ những nhóm gặp khó khăn. - Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả thảo luận nhóm: Kết thúc thời gian thảo luận nhóm đại diện các nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. Cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến. Trên cơ sở ý kiến của học sinh, GV nhận xét, đưa ra kết luận chung. Để thảo luận nhóm có kết quả, giáo viên cần tập cho học sinh cách làm việc trong nhóm, từ việc chia nhóm, cử nhóm trưởng, thay mặt nhóm để trình bày kết quả làm việc trước lớp. Ví dụ: Bài 32 "Làng quê và đô thị" (TN-XH3) Khi dạy bài này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm như sau: + Giáo viên chia học sinh thành từng nhóm (mỗi nhóm từ 4-6 em), phát phiếu giao việc cho từng nhóm( phiếu giao việc của các nhóm như nhau). Nội dung phiếu giao việc như sau: Em hãy quan sát các hình 1,2,3 trang 62 SGK để tìm ra sự khác biệt giữa làng quê và đô thị rồi ghi vào bảng sau: Đặc điểm Làng quê Đô thị - Phong cảnh, nhà cửa, - Hoạt động sống chủ yếu của nhân dân. - Đường sá, hoạt động giao thông. + Các nhóm ổn định tổ chức, tiến hành thảo luận để tìm ra những đặc trưng của làng quê và đô thị về phong cảnh, lao động sống của con ngưòi, hoạt động giao thông . Giáo viên theo dõi hoạt động của các nhóm, giúp đỡ những nhóm gặp khó khăn, hướng việc thảo luận của các em vào những vấn đề trọng tâm, cơ bản. + Đại diện các nhóm báo cáo kết quả làm việc của nhóm mình, các nhóm khác bổ sung ý kiến. + Giáo viên kết luận về đặc điểm của làng quê và đô thị: ở làng quê, người dân thường sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, chài lưới và các nghề thủ công,...; xung quanh nhà thường có vườn cây, chuồng trại,...; đường làng nhỏ, ít người và xe cộ qua lại. ở đô thị, người dân thường đi làm trong các công sở, cửa hàng, nhà máy..., nhà ở tập trung san sát; đường phố có nhiều người và xe cộ đi lại. Tiếp đó, giáo viên cho học sinh liên hệ mình sống ở làng quê hay đô thị. Để củng cố bài học giáo viên có thể tổ chức trò chơi" Ai nhanh hơn?" GV hoặc HS sưu tầm tranh ảnh về làng quê và đô thị. GV chia lớp thành 2 đội, phát tranh ảnh về làng quê và đô thị cho 2 đội. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng