Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phục hồi chức năng đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức n...

Tài liệu Phục hồi chức năng đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng trẻ tàn tật thụy an

.PDF
103
536
127

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO XUÂN QUYỀN PHỤC HỒI CHỨC NĂNG ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÀ NỘI, 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO XUÂN QUYỀN PHỤC HỒI CHỨC NĂNG ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN Chuyên ngành : Công tác xã hội Mã số : 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ Công tác xã hội với đề tài “Phục hồi chức năng đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An” là đề tài nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các kết quả nghiên cứu và số liệu trong luận văn này là trung thực không trùng lặp với các đề tài khác. TÁC GIẢ ĐỀ TÀI Học viên Đào Xuân Quyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT ................................................................................9 1.1. Trẻ em khuyết tật ....................................................................................... 9 1.2. Nhu cầu về phục hồi chức năng đối với trẻ em khuyết tật....................... 19 1.3. Quan điểm, mục đích, hình thức, phương pháp, quy trình, kỹ năng phục hồi chức năng đối với trẻ khuyết tật ................................................................ 20 1.4. Thể chế về phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật ................................... 28 1.5. Các yếu tố tác động đến phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật .............. 36 Chương 2. THỰC TRẠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN .......................................................................53 2.1. Đôi nét giới thiệu về Trung tâm ............................................................... 53 2.2. Thực trạng trẻ em khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An........................................................................................................... 56 2.3. Thực trạng phục hồi chức năng trẻ em khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An ......................................................................... 58 Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG PHỤC HỒI CHỨC NĂNG ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN .73 3.1. Định hướng tăng cường hoạt động phục hồi chức năng đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An ... 73 3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động phục hồi chức năng đối với TEKT từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An ......................... 74 KẾT LUẬN...................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 81 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CTXH : Công tác xã hội KT : Khuyết tật LĐTB&XH : Lao động - Thương binh và Xã hội NKT : Người khuyết tật NVCTXH : Nhân viên công tác xã hội NVXH : Nhân viên xã hội PHCN : Phục hồi chức năng PHCNDVCĐ : Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng TKT : Trẻ khuyết tật TEKT : Trẻ em khuyết tật MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người, xét về bản chất là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Hoạt động của con người đã hình thành và phát triển xã hội. Nói cách khác con người là sản phẩm của bản thân nó trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội và chỉ trong hoạt động ấy con người mới trở thành chính mình. Con người muốn trở thành con người thực sự thì phải gia nhập xã hội loài người, để có được sức mạnh của loài người, từ đó con người sống và phát triển. Như vậy, sự hình thành và phát triển con người gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội trong mọi thời đại. Người khuyết tật nói chung, trẻ em khuyết tật nói riêng cũng là con người. Do vậy theo quy luật, họ không thể tách rời, cách ly hoặc từ bỏ mọi hoạt động của con người. Do nhiều nguyên nhân mà họ đã mất đi quyền bình đẳng về thân thể và trí lực, nhưng đồng loại, những con người bình thường không thể lãng quên hay bỏ rơi họ, bởi bản thân họ là người chịu nhiều thiệt thòi về cả thể chất lẫn tinh thần. Xã hội cần phải trợ giúp, thương yêu, hỗ trợ để họ trở thành con người có ích trong xã hội và phục vụ cho xã hội. Xã hội càng phát triển, kinh tế càng tăng trưởng đời sống văn hóa tinh thần ngày càng cao. Do đó, sự đòi hỏi về tự do, bình đẳng và giải phóng cho mỗi con người ngày càng trở thành những giá trị hiện thực và cao cả. Tại Hội nghị Nhân quyền thế giới ngày 25/6/1993, quyền của người khuyết tật được khẳng định: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, và đều có quyền sống và phúc lợi, giáo dục và việc làm, sống một cách độc lập và tham gia tích cực vào mọi mặt của đời sống xã hội. Bất kỳ một sự phân biệt trực tiếp hoặc đối xử phân biệt tiêu cực khác đối với người khuyết tật đều vi phạm quyền của người đó”. 1 Người khuyết tật không phải là người tàn phế hoàn toàn mà tùy vào các mức độ khác nhau của các dạng tật, người khuyết tật bị hạn chế một hay nhiều hoạt động so với người bình thường. Bên cạnh đó do cơ thể có khả năng bù trừ các chức năng, nên có rất nhiều NKT có những khả năng, tố chất rất đặc biệt. Người khuyết tật có khả năng tham gia mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Đó chính là quyền của người khuyết tật phải được bảo vệ và trợ giúp, để họ hòa nhập với cộng đồng. Nó có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với bản thân người khuyết tật mà còn đối với toàn xã hội. Mọi hoạt động trợ giúp về chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng cho người khuyết tật đều nhằm giúp họ có khả năng phục hồi chức năng các bộ phận trong cơ thể, tăng cường về thể lực và trí tuệ. Lịch sử hình thành và phát triển con người đã chứng minh rằng chính nhờ hoạt động lao động, học tập mà con người đã dần dần từng bước phát triển, hoàn thiện. Người khuyết tật do chịu thiệt thòi về bệnh tật nên thường có tâm lý bị bỏ rơi, bị lãng quên, họ rất khao khát được hoạt động, được làm việc, được học tập và tham gia các hoạt động khác như người bình thường. Bản thân họrất muốn được tự lập, tự chủ về kinh tế và bình đẳng về mọi mặt. Do vậy, nếu chỉ sống dựa vào sự trợ giúp của gia đình và xã hội, không có điều kiện học tập, sáng tạo, thì quyền bình đẳng của họ khó có thể thực hiện. Người khuyết tật luôn có nhu cầu, khát khao được tham gia các hoạt động văn hóa thể thao, vui chơi giả trí. Nếu xã hội định hướng hỗ trợ thì họ sẽ phát huy được những khả năng, nhân tố đặc biệt của mình trong lĩnh vực này. Khi xã hội, cộng đồng tạo điều kiện cho họ tham gia mọi hoạt động, chăm lo về vật chất và tinh thần, sẽ làm nhẹ đi nỗi đau cho các gia đình có người khuyết tật, giải phóng lực lượng lao động cho xã hội, giúp cho NKT cống hiến cho xã hội. Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, số lượng người khuyết tật ở nước ta chiếm tỷ lệ cao. Đây là vấn đề xã hội rất bức xúc 2 và cần phải giải quyết. Chính vì vậy việc trợ giúp chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng cho NKT là một tất yếu trong xã hội, là đạo lý, là lương tâm, là trách nhiệm của xã hội, cộng đồng và của mỗi người; đồng thời, cũng thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội với mục tiêu vì hạnh phúc của con người. Trên thực tế cho thấy phần lớn NKT thường tự ti mặc cảm, có không ít người khuyết tật tự đặt rào cản cho chính bản thân mình. Hầu hết NKT thiếu những kỹ năng xã hội cần thiết. Họ không biết cách tiếp cận với các chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó nhận thức của một bộ phận không nhỏ cá nhân, tổ chức trong xã hội chưa đúng đắn về NKT, còn có sự kỳ thị, phân biệt. Chúng ta thường đau đớn và trở nên dễ tổn thương khi trải qua mất mát hay tổn thất. Những NKT tật sống trong môi trường được đánh giá bằng các tiêu chuẩn của những người không khuyết tật lại càng phải thường xuyên chịu đựng những mất mát: Mất đi hình ảnh bản thân, mất đi những cơ hội, vì thế mất cả hy vọng và ước mơ...Do vậy, người khuyết tật không chỉ cần có những tổ chức của mình mà còn cần nhân viên xã hội hỗ trợ họ và gia đình họ. Những điều trình bày trên là lý do mà học viên đã lựa chọn đề tài “Phục hồi chức năng đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An” làm luận văn thạc sỹ ngành Công tác xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phục hồi chức năng cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật tại Việt Nam đã có nhiều đề tài, tài liệu nghiên cứu, nhưng phần lớn mới tập trung ở vấn đề phục hồi chức năng mang tính chuyên sâu ở lĩnh vực, góc cạnh nào đó. Tài liệu “Hướng dẫn phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật tại cộng đồng” do Sở Y tế Hà Nội thực hiện năm 2007 với mục đích trang bị kiến thức, kỹ năng cho nhân viên PHCNDVCĐ để hướng dẫn PHCN cho TKT. Tài liệu này cung cấp những thông tin, kiến thức cơ bản và dễ hiểu nhất đến mọi đối tượng có thể áp dụng được trong PHCN đối với TKT tại cộng đồng. 3 Tài liệu “Công tác xã hội phục hồi chức năng cho trẻ bại não” do Trần Văn Lý và các cộng sự thực hiện năm 2012 (tài liệu biên soạn với sự hỗ trợ của Đề án 32), đây là tài liệu phân tích khá kỹ về trẻ khuyết tật bại não, đặc biệt là việc thực hiện công tác xã hội với đối tượng này. Tài liệu là chương trình đào tạo nhân viên xã hội mang tính chuyên sâu trợ giúp cho trẻ bại não. Tài liệu “Tập huấn chăm sóc người tàn tật” do TS. Nguyễn Hải Hữu và các cộng sự thực hiện năm 2007 đây là kết quả hợp tác giữa Bộ LĐTBXH và tổ chức Caritas Cộng hòa liên bang Đức. Tài liệu chủ yếu hướng dẫn về nghiệp vụ, kỹ năng chăm sóc NKT cho cán bộ, nhân viên tại các cơ sở BTXH Tài liệu“Về chính sách trợ giúp người khuyết tật, quyền và quy trình thực thi quyền của người khuyết tật” do Hội trợ giúp người khuyết tật Việt Nam (VNAH) hợp tác với Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (NCCD) và các chuyên gia thực hiện năm 2015. Tài liệu đề cập chủ yếu đến quyền của người khuyết tật và việc đảm bảo các quyền của người khuyết tật, mục tiêu của tài liệu là nhằm nâng cao kiến thức cho cán bộ trợ giúp NKT, các tổ chức của NKT và bản thân NKT về chính sách, pháp luật liên quan, các quyền của NKT và quy trình thực thi các quyền đó. Giáo trình “Can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật” do Trần Thị Thiệp, Hoàng Thị Tho và Trần Thị Minh Thành thực hiện năm 2014, giáo trình phục vụ cho việc giảng dạy, học tập của giảng viên và sinh viên giáo dục đặc biệt. Giáo trình đề cập đến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức can thiệp sớm ở lĩnh vực giáo dục cho TKT... Như vậy ta thấy các nghiên cứu trên tập trung khai thác ở những góc cạnh cụ thể như: phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng; phục hồi chức năng ở một dạng khuyết tật nào đó; trợ giúp trong việc chăm sóc cho NKT; việc thực thi quyền của NKT... chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể về phục hồi chức năng, hay nói cách khác là chưa có nghiên cứu nào 4 mang tính tổng quát, phục hồi chức năng toàn diện, khép kín. Nghiên cứu theo phương pháp của công tác xã hội sẽ hiểu rõ hơn vấn đề phục hồi chức năng mang tính toàn diện, giải quyết được các vấn đề của người khuyết tật, trẻ khuyết tật trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống. Trước thực trạng vấn đề nêu trên, luận văn sẽ tìm hiểu sâu hơn mô hình phục hồi chức năng toàn diện, khép kín tại Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác phục hồi chức năng cho người khuyết tật, trẻ khuyết tật tại Trung tâm và cộng đồng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam và thực tiễn công tác này tại Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An trong những năm qua, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả, từng bước chuyên nghiệp hóa công tác phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật tại Trung tâm này nói riêng và ở Việt Nam nói chung. 3.2. Nhiệm vụ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về trẻ em khuyết tật, nhu cầu của trẻ khuyết tật; lý luận về phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật. Đánh giá thực trạng hoạt động chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng của trẻ khuyết tật hiện nay, chỉ ra những nguyên nhân, những kết quả và hạn chế trong hoạt động này. Nêu định hướng, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Mô hình phục hồi chức năng toàn diện, khép kín cho trẻ em khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu Công tác phục hồi chức năng đối với trẻ em khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An trong 39 năm qua. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp luận của bộ môn Công tác xã hội.  Lý thuyết hệ thống: Các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội có thể xem xét ở nhiều phần khác nhau, mỗi một sự kiện, hiện tượng, quá trình, các vấn đề xã hội đều có cách tiếp cận khác nhau ở tiếp cận này hay ở tiếp cận khác, về góc độ này hay góc độ khác. Lý thuyết hệ thống chỉ ra sự tác động của các tổ chức, chính sách, cộng đồng và các nhóm ảnh hưởng đến cá nhân [17, tr.123]. Người làm công tác xã hội phải hiểu rõ bản chất và những tác động của các hoạt động trên, giúp người khuyết tật giải quyết được hàng loạt các vấn đề có liên quan đến cá nhân trong cuộc sống, trong đó có lĩnh vực PHCN  Lý thuyết hệ thống sinh thái: Lý thuyết hệ thống sinh thái trong lĩnh vực phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật sẽ giúp người làm công tác xã hội phân tích được mối tương tác giữa trẻ và hệ thống sinh thái môi trường xã hội mà trẻ đang sống và ảnh hưởng đến hành vi của trẻ trong đời sống xã hội. Lý thuyết này liên quan đến nhiều yếu tố tác động đến cá nhân trẻ và gia đình như: họ hàng, cơ quan, bạn bè, làng xóm, đoàn thể, tôn giáo, trường học, khu vui chơi giải trí, dịch vụ y tế, chính quyền địa phương, an sinh xã hội... Sự quan tâm của xã hội đối với trẻ khuyết tật không thể thiếu được các cơ quan quản lý, các đoàn thể, các dịch vụ và mạng lưới an sinh xã hội. Theo lý thuyết này, tất cả hệ thống sinh thái đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực 6 đến hành vi của trẻ. Hệ thống quản lý các công việc về người khuyết tật nhiều cấp, nhiều khía cạnh, đảm bảo nhu cầu cho TKT, một dạng đối tượng cần sự quan tâm đặc biệt [17, tr.129] Nhân viên công tác xã hội hỗ trợ TKT trong lĩnh vực phục hồi chức năng cần phân tích được mối tương tác giữa trẻ, gia đình trẻ và các mối quan hệ ảnh hưởng như thế nào đối với trẻ và gia đình. Nhân viên công tác xã hội cung cấp cho TKT, gia đình những thông tin liên quan đến tâm lý xã hội và phục hồi chức năng, tham vấn giúp họ lên kế hoạch, tận dụng tối đa những nguồn lực đã có, các nguồn lực trợ giúp từ bên ngoài để trẻ được tiếp cận dịch vụ PHCN, can thiệp càng sớm càng tốt.  Thuyết hành vi: Nhân viên công tác xã hội có thể tham gia cùng trẻ và gia đình trong tiến trình giải quyết vấn đề, phải hiểu biết về lý thuyết hành vi [17, tr.130]. Công tác xã hội với TKT cần phải hiểu tâm lý, động viên khuyến khích trẻ, và một điều quan trọng là luôn tôn trọng, tạo cơ hội cho trẻ nói ra những ý kiến của mình mà không cảm thấy bị áp đặt, luôn dành cho chúng những tình cảm yêu thương vì chúng rất cần sự yêu thương của mọi người. Nhân viên công tác xã hội có trách nhiệm không chỉ thay đổi hành vi của TKT và gia đình mà còn có trách nhiệm thay đổi hành vi của các thành viên trong cộng đồng, tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ được tham gia vào tất cả các dịch vụ xã hội, nhất là trong lĩnh vực phục hồi chức năng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu: Các tài liệu được thu thập nghiên cứu đó là các văn bản quy định của Nhà nước liên quan đến người khuyết tật; các báo cáo tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chương trình, đề án trợ giúp người khuyết tật của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành liên quan. 7 Báo cáo tổng kết 35 năm, báo cáo tổng kết hàng năm của Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An; dựa trên kết quả nghiên cứu điều tra thực tế trước đây của cán bộ Trung tâm (tác giả là thành viên) trong việc xây dựng tài liệu Công tác xã hội phục hồi chức năng cho trẻ bại não (2012), đề án xây dựng mô hình can thiệp, phục hồi chức năng trẻ tự kỷ (2013) Phương pháp quan sát: Quan sát sự thay đổi của trẻ khuyết tật trong quá trình phục hồi chức năng tại Trung tâm, phân tích nhận định tác động của phục hồi chức năng đối với trẻ khuyết tật. Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu, thông tin thu thập được xử lý bằng phương pháp thống kê và phương pháp phân tích 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn Đề tài góp phần làm rõ vai trò của các bộ phận trong hệ thống chính trị XHCN từ Trung ương tới địa phương trong việc thực hiện chăm sóc, phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật. Do vậy, nó có thể trở thành tài liệu tham khảo trong việc hoạch định chính sách cũng như hoạt động phục hồi chức năng đối với trẻ em khuyết tật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận về phục hồi chức năng đối với trẻ em khuyết tật. Chương 2: Thực trạng trẻ em khuyết tật và công tác phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An. Chương 3: Định hướng, giải pháp tăng cường hoạt động phục hồi chức năng đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT 1.1. Trẻ em khuyết tật 1.1.1. Khái niệm trẻ em khuyết tật * Khái niệm trẻ em: Thuật ngữ “trẻ em” nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người1. Tại Điều 1 Công ước quốc tế quyền trẻ em định nghĩa: “Trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn”. Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam khái niệm trẻ em chưa được quy định thống nhất. Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2005 của Việt Nam: “Trẻ em qui định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Theo Bộ luật Dân sự 2005 thì trẻ em là những người dưới 15 tuổi. Theo pháp luật liên bang của Hoa Kỳ thì “trẻ em là người dưới 18 tuổi” Nhìn chung mỗi nước có qui định khác nhau về độ tuổi để được coi là trẻ em. Việc qui định độ tuổi ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ em ở mỗi quốc gia. Do đó có những quốc gia qui định độ tuổi thành niên sớm hơn hoặc trễ hơn 18 tuổi như được xác định trong Công ước về quyền trẻ em. Tuy độ tuổi được coi là trẻ em ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung trẻ em ở tất cả các quốc gia đều có các đặc điểm sau: 1 Khái niệm “Trẻ em” đã được đề cập trong Tuyên bố Giơnevơ (1924) và Tuyên bố của LHQ về quyền trẻ em (1959), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (1968), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1966, Công ước LHQ về Quyền trẻ em (1990), Công ước 138 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc (1976), v.v... 9 Thể chất và trí tuệ chưa trưởng thành. Cần có sự chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội cả về mặt pháp lý. Ngoài ra trong các qui phạm pháp luật Việt Nam còn xuất hiện các khái niệm “người thành niên”, “người chưa thành niên”. Như vậy vấn đề đặt ra là phân biệt giữa các khái niệm trên và khái niệm “trẻ em”. Theo pháp luật Việt Nam: Người thành niên: là người trên 18 tuổi Người chưa thành niên: là người dưới 18 tuổi Như vậy khái niệm người chưa thành niên rộng hơn khái niệm về trẻ em, người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và những người từ 16 đến 18 tuổi. * Khái niệm trẻ em khuyết tật: Cho đến nay đã có khá nhiều định nghĩa đưa ra nhằm trả lời một câu hỏi thế nào là người khuyết tật (trong đó có trẻ em khuyết tật)? Theo tổ chức y tế thế giới OMS thì người khuyết tật là người bị khiếm khuyết 1 hay nhiều bộ phận cơ thể chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, khiến cho khả năng hoạt động, sinh hoạt, học tập, làm việc gặp nhiều khó khăn. Tùy từng mức độ khác nhau các dạng tật mà người bị khuyết tật bị hạn chế một số hoạt động, chức năng so với người bình thường. Theo Công ước về quyền của người khuyết tật ngày 06 tháng 12 năm 2006 thì Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Theo Luật Người khuyết tật thì NKT được hiểu là “người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. 10 1.1.2. Đặc điểm của trẻ em khuyết tật * Các dạng trẻ khuyết tật Theo Nghị định số 28/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật, khuyết tật được phân loại theo các dạng sau: Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu cổ, chân, tay, thân hình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. Khuyết tật nghe nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói. Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường. Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp được quy định tại các dạng trên. Trong PHCN, khắc phục hậu quả khuyết tật chủ yếu thực hiện ở cộng đồng. Để dễ nhận biết và dễ thực hiện cũng như để tạo thuận lợi cho NKTchấp nhận tình trạng khuyết tật của mình, tăng cường khả năng hợp tác của NKT, người ta phân loại khuyết tật như sau: Người có khó khăn về vận động. 11 Người có khó khăn về học hành. Người có khó khăn về nhìn. Người có khó khăn về nghe, nói. Người có hành vi xa lạ. Người bị động kinh. Người bị mất cảm giác. Các dạng tật khác * Các nguyên nhân và yếu tố dẫn đến tình trạng KT ở Việt Nam Thứ nhất: Về nguyên nhân Do bệnh, tuổi cao, tai nạn, tật bẩm sinh. Bản thân khuyết tật tạo ra tàn tật. Thái độ sai của xã hội, đối xử thiếu công bằng gây ra khuyết tật hoặc làm cho khuyết tật trầm trọng hơn. Xã hội càng ít chú ý đến nhu cầu, khả năng của người khuyết tật càng tạo ra nhiều tàn tật hơn. Nền y học phát triển chậm, chăm sóc sức khỏe ban đầu chưa tốt, nhiều người bệnh mang nhiều di chứng thương tật thứ cấp do điều trị không đầy đủ, không kịp thời. Y học tiên tiến cũng có thể gây nên khuyết tật nhiều vì nhiều bệnh nhân nặng được cứu sống mà trước đây không làm được [19, tr.14]. Ngành PHCN phát triển yếu kém là một nguyên nhân gây ra tàn tật. Theo ước tính Tổ chức Y tế thế giới 10% dân số bị khuyết tật. Riêng các nước khu vực Tây Thái Bình Dương có khoảng 100 triệu người khuyết tật, 75% trong số họ chưa được chăm sóc, phục hồi. Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 7 triệu NKT, chiếm 7,8% dân số, trong đó 28,3 % NKT là trẻ em, có 3 triệu NKT có nhu cầu phục hồi chức năng [3]. Thứ hai: Nhóm yếu tố nguy cơ Nhóm nguy cơ thứ nhất: Do điều kiện tự nhiên. Đất nước ta ở vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm thường phải gánh chịu những hậu quả do thiên tai để lại. Ước tính mỗi năm nước ta có khoảng 10 12 trận bão lớn nhỏ đổ bộ vào. Ngoài bão ra còn có các thiên tai cục bộ như lốc, mưa đá, lũ quét, lũ ống, hạn hán... Hậu quả thiên tai, sự tàn phá của nó đã gây ra những thiệt hại về kinh tế, làm thất thoát hàng tỉ đồng về tài sản, hoa màu kể cả tính mạng con người; trong đó có bộ phận đã trở thành khuyết tật. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của động, thực vật, nhưng cũng là môi trường thuận lợi cho sự phát triển bệnh tật, nhất là ở trẻ em. Nhóm nguy cơ thứ hai: Do hậu quả chiến tranh. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Đế quốc Mỹ đã rải xuống hầu khắp các tỉnh Miền Nam và Miền Trung, nhất là Quảng Bình - Quảng Trị một khối lượng khá lớn chất độc hóa học hủy diệt, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho trẻ em Việt Nam hôm nay và kể cả mai sau. Theo kết quả điều tra sơ bộ của Bộ LĐTB&XH, nước ta có trên tám mươi ngàn người chịu hậu quả trực tiếp và hơn một trăm ngàn người chịu hậu quả gián tiếp của chất độc màu da cam như hiện tượng quái thai, dị dạng, dị tật và các bệnh nan y khác. Một số gia đình có ba, bốn con đều bị dị tật. Hậu quả của chiến tranh vẫn và sẽ còn kéo dài cho nhiều thế hệ. Đây là nỗi đau cho gia đình, là gánh nặng cho toàn xã hội; đối tượng phải gánh chịu trực tiếp là những TEKT. Nhóm nguy cơ thứ ba: Nguyên nhân về kinh tế. Sự đói nghèo được coi là nguyên nhân bao trùm dẫn tới hậu quả ở nước ta số người khuyết tật chiếm số lượng khá đông. Đói nghèo ở nước ta diễn ra trên diện rộng. Đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa (mấy năm gần đây công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã mang lại nhiều hiệu quả khá thiết thực, được cộng đồng thế giới thừa nhận). Do đói nghèo nên nhiều gia đình không có điều kiện để chăm sóc chu đáo về y tế, không quan tâm tới vệ sinh an toàn thực phẩm, không đảm bảo được nhu cầu dinh dưỡng cho con cái, và cũng chưa chú ý phòng chống, chữa bệnh kịp thời cho trẻ em. 13 Tại các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa cơ sở hạ tầng yếu kém, nước sạch không đủ để dùng, dịch bệnh thường phát sinh, dễ gây bệnh tật dẫn đến KT ở trẻ em, bởi trẻ em có sức đề kháng kém, dễ mẫn cảm, dễ mắc bệnh, việc cấp cứu bệnh nhân không kịp thời nên số trẻ em khuyết tật thường có tỉ lệ cao hơn những vùng khác. Nhóm nguy cơ thứ tư: Những tai nạn rủi ro và bệnh nghề nghiệp. Hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với xu thế mở cửa hội nhập, trong nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đang tạo ra đà phát triển về kinh tế, gia tăng mạnh mẽ các phương tiện giao thông, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp. Điều đó đang từng bước nâng cao mức sống của nhân dân, tạo điều kiện cho các gia đình và xã hội chăm sóc con cái được tốt hơn, nhưng mặt trái của nó là các thiết bị công cụ, nguyên liệu, vật tư, hóa chất chưa được sử dụng,bảo quản theo đúng quy trình, quy phạm kỹ thuật, nên đã gây nhiễm độc thai nghén, dẫn tới không ít phụ nữ sinh con dị tật, dị dạng. Trong nền kinh tế thị trường, do chạy theo lợi nhuận, nên có nhiều phương tiện giao thông chưa đảm bảo các thông số an toàn cùng với sự kém hiểu biết về luật giao thông của một số chủ phương tiện, tình trạng dùng chất kích thích khi điều khiển phương tiện giao thông đã dẫn đến những tai nạn rủi ro làm cho một bộ phận trẻ em trở nên khuyết tật. Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, quản lý thị trường của Nhà nước còn lỏng lẻo, một bộ phận thương nhân sử dụng những hóa chất, phẩm màu bị cấm trong thực phẩm, hay không tuân theo những quy định vệ sinh trong các mặt hàng ăn uống đã gây ra những hậu quả đáng tiếc cho người tiêu dùng, đó là một trong những nguyên nhân gây ra khuyết tật. Nhóm nguy cơ thứ năm: Khuyết tật do ô nhiễm môi trường. 14 Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề toàn cầu hiện nay. Ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam. Nguồn nước, không khí ở nước ta ngày càng ô nhiễm, điều đó cũng làm gia tăng bệnh tật. Ý thức bảo vệ môi trường của nhiều người Việt Nam còn chưa cao, làm cho các ổ dịnh bệnh phát triển và lan rộng, dẫn tới những hậu quả khuyết tật ở trẻ em. Mặt khác sự thiếu chất dinh dưỡng, thiếu các cơ sở dịch vụ chăm sóc thai nghén, thiếu kiến thức phòng ngừa bệnh tật cho thai nhi trong quá trình lao động của nhiều bà mẹ. Sự chăm sóc trẻ sơ sinh của một số gia đình chưa tốt, cũng như việc chạy chữa không kịp thời làm cho số lượng trẻ em khuyết tật gia tăng. Khái quát trong sơ đồ sau: Nguyên nhân khuyết tật Bệnh và các vấn đề về môi trường xã hội Khiếm khuyết (Impairment) Bản thân Giảm chức năng (Disabled) Gia đình Tàn tật (Handicapped) Xã hội 1.1.3. Các nhu cầu của trẻ em khuyết tật Trẻ khuyết tật cũng có nhu cầu giống như trẻ bình thường và người bình thường như: ăn, mặc, ở, chăm sóc, bảo vệ, xã hội, tự thể hiện mình… 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan