ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------VÕ THỊ MỸ
PHỤ NỮ
TRONG VĂN HÓA CHĂM
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
MÃ SỐ: 62.31.70.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Phú Văn Hẳn
2. TS. Trần Ngọc Khánh
Phản biện độc lập:
1. PGS.TS. Phan Xuân Biên
2. PGS.TS. Phan Thị Hồng Xuân
Phản biện:
Phản biện 1: PGS.TS. Phan Xuân Biên
Phản biện 2: PGS.TS. Thành Phần
Phản biện 3: PGS. TS. Bùi Chí Hoàng
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án Phụ nữ trong văn hóa Chăm là công
trình nghiên cứu của riêng tôi, không có sự trùng lắp, sao chép của bất
kỳ đề tài luận án hay công trình nghiên cứu khoa học nào của các tác
giả khác.
Tác giả luận án
VÕ THỊ MỸ
I
MỤC LỤC
DẪN NHẬP..................................................................................
1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................
3
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn tài liệu ....................
15
4. Câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu và hƣớng tiếp cận ...................
16
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..........................................................
20
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ..................................................
22
7. Nội dung triển khai ...................................................................
23
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ..............................................................
24
1.1.1. Các khái niệm về giới tính, giới, phụ nữ ............................
24
1.1.2. Tiếp cận nghiên cứu văn hóa giới .......................................
31
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ...........................................................
42
1.2.1. Định vị văn hóa Chăm .......................................................
42
1.2.2. Tổng quan về vai trò phụ nữ trong văn hóa Chăm .............
54
Tiểu kết .........................................................................................
62
CHƯƠNG 2:
PHỤ NỮ TRONG VĂN HÓA NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI CHĂM
2.1. PHỤ NỮ TRONG TÍN NGƯỠNG ....................................
64
II
2.1.1. Yếu tố nữ trong tín ngƣỡng thờ thần Mẹ xứ sở Po Inƣ Nƣgar 64
2.1.2. Yếu tố nữ trong tín ngƣỡng thờ sinh thực khí Linga - Yoni
69
2.2. PHỤ NỮ TRONG LỄ HỘI ĐỀN THÁP, DÒNG TỘC ...
71
2.2.1. Vai trò của bà Pajau trong các nghi lễ đền tháp ............
71
2.2.2. Vai trò của bà Rija trong các nghi lễ dòng tộc ..............
75
2.3. PHỤ NỮ TRONG CÁC NGHI LỄ VÕNG ĐỜI ...............
78
2.3.1. Vai trò của bà Rija trong lễ đặt tên ................................
78
2.3.2. Vai trò của bà Buh trong lễ tang ....................................
80
2.3.3. Vai trò của bà Buh trong lễ trƣởng thành ......................
86
2.3.4. Yếu tố “nữ” trong lễ cƣới ..............................................
88
Tiểu kết ........................................................................................
93
CHƯƠNG 3:
PHỤ NỮ TRONG VĂN HÓA TỔ CHỨC CỦA NGƯỜI CHĂM
3.1. PHỤ NỮ TRONG TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG TẬP THỂ .....
95
3.1.1. Phụ nữ trong văn hóa dòng họ, gia đình mẫu hệ ...........
96
3.1.2. Vị trí phụ nữ trong xã hội .............................................
99
3.2. PHỤ NỮ TRONG TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN ....
104
3.2.1. Phụ nữ trong hoạt động giao tiếp ..................................
104
3.2.2. Hình ảnh phụ nữ Chăm trong sáng tác nghệ thuật ........
108
Tiểu kết .........................................................................................
120
CHƯƠNG 4:
PHỤ NỮ TRONG VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI CHĂM
III
4.1. PHỤ NỮ TRONG ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN....
123
4.1.1. Phụ nữ Chăm trong văn hóa ẩm thực ............................
123
4.1.2. Phụ nữ Chăm trong văn hóa trang phục ........................
133
4.1.3. Phụ nữ Chăm trong tập quán cƣ trú, lao động và nghề
nghiệp ............................................................................................
149
4.2. PHỤ NỮ TRONG ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI ........
159
4.2.1. Phụ nữ Chăm ứng xử với đời sống vật chất .................
159
4.2.2. Phụ nữ Chăm ứng xử với đời sống tinh thần ................
164
Tiểu kết .........................................................................................
176
KẾT LUẬN ..................................................................................
178
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................
184
PHỤ LỤC .....................................................................................
205
PHỤ LỤC 1: HÌNH ẢNH...........................................................
206
PHỤ LỤC 2: TỪ TIẾNG CHĂM TRONG LUẬN ÁN ...........
233
PHỤ LỤC 3: NỘI DUNG PHỎNG VẤN .................................
241
IV
MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ ĐẦY ĐỦ
CHỮ VIẾT TẮT
Cb.
Chủ biên
DT
Dân tộc
Đài TNVN
Đài tiếng nói Việt Nam
Hội LHPN TP. HCM
Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh
KHXH
Khoa học xã hội
KHXH & NV
Khoa học xã hội và Nhân văn
M–P
Malayo - Polynesian / Mã lai - Đa đảo
NCS
Nghiên cứu sinh
Nxb
Nhà xuất bản
PN
Phụ nữ
TP. HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
UNESCO
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hiệp quốc (United Nations Educational
Scientific and Cultural Organization).
Ngoài ra, một số từ tiếng Chăm đƣợc sử dụng trong luận án đƣợc giải
thích thêm trong phần phụ lục 2 (từ trang 229 đến trang 233).
1
DẪN NHẬP
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam đƣợc biết đến nhƣ một trong những nền văn hóa điển hình
của khu vực Đông Nam Á, có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Việt
Nam còn là một quốc gia đa tộc ngƣời, đa ngôn ngữ. Các dân tộc đều có
những đóng góp quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển văn hóa
Việt Nam. Mỗi cộng đồng tộc ngƣời đều có những đặc trƣng về văn hóa tạo
nên bản sắc riêng trong quá trình giao lƣu, tiếp biến văn hóa.
Ngƣời Chăm là một trong 53 dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời trên
mảnh đất Việt Nam, có nền văn hóa phong phú. Ngƣời Chăm ngày nay tiếp
tục lƣu giữ những giá trị truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị văn
hóa mới, góp phần tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt
Nam.
Văn hoá của ngƣời Chăm đƣợc thể hiện qua chữ viết, trang phục,
nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, nghề gốm, dệt thổ cẩm, lễ hội, văn học,
nghệ thuật dân ca, múa Chăm,… đã trở thành di sản của nền văn hóa Việt
Nam. Ngƣời Chăm xƣa sớm tiếp xúc với bên ngoài, giao lƣu với văn hóa
Ấn Độ, văn hoá Islam,... Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ là sự ảnh hƣởng của
đạo Phật, đạo Hindu và việc thờ ba vị thần Brahma, Vishnu, Siva trong kiến
trúc của các tháp Champa - tiền văn hóa Chăm ngày nay là những minh
chứng. Ngoài hàng trăm tác phẩm văn học dân gian của ngƣời Chăm mang
nét văn hoá Ấn và trong tiếng Chăm không chỉ vay mƣợn nhiều từ ngữ
cùng gốc với ngôn ngữ Pali - Sanskrit mà còn mƣợn luôn cả hệ thống chữ
Phạn để xây dựng hệ thống chữ viết Akhar Thrah (loại chữ viết phổ thông
của ngƣời Chăm hiện nay).
2
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, vấn đề “giới” với trọng tâm là thân
phận và vai trò của ngƣời phụ nữ đã đƣợc các nhà xã hội học, nhân học,
dân tộc học quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu
về giới, về ngƣời phụ nữ, phụ nữ các dân tộc thiểu số, đặc biệt là phụ nữ
trong các xã hội mẫu hệ,… còn rất ít và tản mạn. Ngƣời Chăm là một trong
năm dân tộc (Raglai, Churu, Giarai, Êđê) thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai Đa Đảo (Malayo - Polynesian), ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian) còn lƣu
giữ phong tục tập quán theo chế độ mẫu hệ cho đến ngày nay. Cùng với vai
trò và vị thế của mình trong xã hội mẫu hệ, ngƣời phụ nữ Chăm (ngƣời bà,
ngƣời mẹ, ngƣời vợ, ngƣời con gái,…) đƣợc phản ánh rõ nét trong các lĩnh
vực tổ chức gia đình - hôn nhân, chế độ thừa kế tài sản, tổ chức xã hội,…
Đề tài “Phụ nữ trong văn hóa Chăm” đƣợc chọn để làm luận án tiến
sĩ chuyên ngành Văn hóa học với mong muốn nghiên cứu trình bày làm rõ
hơn ngƣời phụ nữ trong bức tranh văn hóa của ngƣời Chăm, một cộng đồng
tộc ngƣời sinh sống lâu đời, có nhiều quan hệ văn hóa với các dân tộc ở
Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Nghiên cứu đề tài “Phụ nữ trong văn
hóa Chăm” hƣớng mục tiêu tìm ra bản sắc riêng của phụ nữ Chăm, tìm
hiểu đặc trƣng gia đình mẫu hệ, hiểu thêm vị trí, thế đứng của ngƣời phụ nữ
trong xã hội Chăm xƣa, xem xét sự đóng góp của phụ nữ Chăm trong xã
hội truyền thống và những thay đổi đang diễn ra trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập nhƣ tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 9 Ban Chấp Hành Trung ƣơng Đảng khóa XI (Nghị quyết 33-NQ/TW
đƣợc ban hành vào ngày 9/6/2014); Nghị quyết 06/NQ-BCH ngày
19/2/2014 của BCH Hội LHPN Việt Nam; Quyết định 178/QĐ-TTg ngày
28/01/2016 của Thủ tƣớng Chính phủ,... trong thực hiện bình đẳng giới,
góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ và vì sự tiến bộ của các phụ nữ; phụ
nữ là ngƣời dân tộc thiểu số.
3
Nghiên cứu vai trò, vị thế của ngƣời phụ nữ Chăm trong các khía
cạnh văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức và văn hóa ứng xử trong xã hội
truyền thống sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn đặc điểm tộc ngƣời Chăm, hiểu
rõ hơn cơ chế xã hội của một cộng đồng còn bảo lƣu yếu tố mẫu hệ phản
ánh rõ nét trong sinh hoạt văn hóa, lối sống, ứng xử, lễ nghi cộng đồng, xã
hội, gia đình, trong tập tục cƣới xin, ma chay, trong tín ngƣỡng dân gian,…
Do vậy, đề tài “Phụ nữ trong văn hóa Chăm” góp phần nghiên cứu xã hội
và văn hóa của một dân tộc có quá trình lịch sử lâu đời, có vị trí quan trọng
trong việc thực hiện chính sách dân tộc, phát triển xã hội trong giai đoạn
hiện nay.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Khi đặt ra đề tài nghiên cứu về “Phụ nữ trong văn hóa Chăm”,
chúng tôi hƣớng mục tiêu tìm hiểu những khía cạnh liên quan đến giới, phụ
nữ, phụ nữ dân tộc thiểu số, ngƣời Chăm, văn hóa Chăm, phụ nữ Chăm,…
những vấn đề đã, đang đƣợc các nhà khoa học nghiên cứu. Từ đó, chúng tôi
đã tiếp cận đến hai mảng tƣ liệu nghiên cứu sau:
2.1. Nghiên cứu về giới, phụ nữ, phụ nữ dân tộc thiểu số
Nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu vấn đề giới, và đặc biệt
là vai trò phụ nữ nói chung, vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng
trong đó có phụ nữ dân tộc Chăm ở nhiều bối cảnh xã hội khác nhau, đặt
trong những mối liên hệ khác nhau. Có thể kể đến một số lĩnh vực cụ thể
nhƣ: phụ nữ và tôn giáo; phụ nữ và vấn đề việc làm; phụ nữ và sự thụ
hƣởng những dịch vụ xã hội; vai trò phụ nữ trong gia đình và xã hội theo
chuẩn mực của các nền văn hóa, trong bối cảnh phát triển khác nhau… Đối
tƣợng phụ nữ trong các nghiên cứu này rất phong phú về độ tuổi, trình độ
học vấn, nghề nghiệp, thành phần dân tộc, nơi sinh sống, tình trạng hôn
4
nhân… Nghiên cứu về giới, về phụ nữ trong quan hệ gia đình - xã hội - tôn
giáo là những lĩnh vực đang đƣợc quan tâm, có thể kể đến một số đề tài
nghiên cứu tiêu biểu nhƣ:
“Giáo trình Xã hội học về giới” của Hoàng Bá Thịnh, nêu rõ những
lý thuyết về giới; lý thuyết phát triển và vai trò của phụ nữ trong phát triển;
lý thuyết nữ quyền và phong trào giải phóng phụ nữ; các phƣơng pháp
nghiên cứu xã hội học về giới…. Giáo trình này cũng đề cập chi tiết về bất
bình đẳng, công bằng xã hội và công bằng giới; bản sắc giới; vai trò giới,
mối liên hệ giữa giới và giáo dục, lao động, quản lý, sức khỏe; quan hệ giới
trong gia đình.
Công trình“Giới, việc làm và đời sống gia đình” của Nguyễn Thị
Hòa (chủ biên) là công trình tổng hợp của nhiều tác giả, bƣớc đầu vận dụng
khái niệm cơ bản về giới vào thực tiễn ở Việt Nam, đề cập đến năng lực và
vị trí của nữ giới trong xã hội đô thị, các vấn đề phụ nữ trong gia đình
đƣơng đại và phân tích vấn đề tri thức nữ trong các công ty liên doanh và
một vài hiện tƣợng đặc thù trong đời sống ở đô thị của giới nữ.
Công trình “Phụ nữ và giới” của Bùi Thị Tỉnh xuất bản 2010 trình
bày quan điểm giới và con đƣờng giải phóng phụ nữ trên lập trƣờng triết
học hiện sinh của Simone de Beauvoir, một nhà văn, nhà triết học hiện sinh
Pháp, ngƣời đƣợc coi là “một trong những nhân vật dẫn đầu phong trào nữ
quyền” và mở ra “làn sóng nữ quyền thứ hai” của phƣơng Tây thế kỷ XX.
Công trình này một lần nữa tìm về cội nguồn của chủ nghĩa hiện sinh, vấn
đề “giới”, cách mạng về “giới” và những mục tiêu giải phóng phụ nữ.
“Theo Ph. Angghen, nguyên nhân của sự phân biệt quyền lực, phân chia gia
cấp, quan hệ giới và vị trí lệ thuộc của phụ nữ là do chế độ tƣ hữu quy định.
Lịch sử loài ngƣời đƣợc bắt đầu bằng chế độ thị tộc mẫu hệ, tức quyền lực
5
nằm trong tay phụ nữ. Nhƣng dần dần, do nhu cầu tất yếu của việc phát
triển sản xuất, đàn ông đảm nhận việc lao động, làm ra của cải vật chất nuôi
sống cả gia đình, kể từ đó, quyền lực đƣợc chuyển sang tay ngƣời đàn ông.
Cùng với sự phát triển của sản xuất ấy, chế độ tƣ hữu ra đời đã chuyển xã
hội từ chế độ thị tộc mẫu hệ sang chế độ thị tộc phụ hệ” [Bùi Thị Tỉnh
2010: 116]. Đó là một hệ quả tất yếu của “quá trình phát triển kinh tế và
quyền tƣ hữu về tài sản”, đây chính là nguyên nhân dẫn đến bất ổn định về
kinh tế, bất bình đẳng giữa nam và nữ. Tác phẩm này cũng cho rằng, trong
sự phân biệt giới, nam giới luôn đƣợc hƣởng nhiều đặc quyền hơn phụ nữ,
nhƣng họ chỉ có thể thực hiện đƣợc đặc quyền này khi có sự chấp thuận
ngầm của phụ nữ. Vì thế, bản thân ngƣời phụ nữ phải tự ý thức về mình và
chịu trách nhiệm về sự phân biệt giới.
Công trình “Phụ nữ và một số vấn đề giới trong thập kỷ 2001-2010
tại Việt Nam” do Nguyễn Thị Ngân Hoa chủ biên, xuất bản năm 2011 gồm
các bài viết liên quan đến vấn đề di cƣ và những ảnh hƣởng của nó đến đời
sống của phụ nữ với vai trò ngƣời vợ và ngƣời mẹ; các vấn đề liên quan
đến phụ nữ dân tộc thiểu số tại một số cộng đồng dân tộc có truyền thống
mẫu hệ trong quá trình phát triển, vấn đề giới trong lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe sinh sản,... Tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa cho rằng ngƣời phụ nữ dân
tộc thiểu số Raglay và Cơ Ho có truyền thống “mẫu hệ” đề cao vai trò của
ngƣời phụ nữ trong gia đình nhƣng do họ có học vấn thấp, do rào cản về
ngôn ngữ và ảnh hƣởng của văn hóa phụ quyền nên địa vị cao trong gia
đình của họ ngày càng suy giảm [Nguyễn Thị Ngân Hoa 2011: 96]; và điều
này cũng đƣợc Nguyễn Phƣơng Yến đề cập đến trong bài viết “Người phụ
nữ dân tộc Raglay và Cơ Ho đối diện với sự mở rộng “quyền lực” của nam
giới” trong Công trình “Phụ nữ và một số vấn đề giới trong thập kỷ 20012010 tại Việt Nam” do Nguyễn Thị Ngân Hoa chủ biên.
6
Trong “Hội thảo Quốc tế với chủ đề Phụ nữ Việt Nam trong bối
cảnh biến đổi xã hội nhanh” đƣợc tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày
29-30/6/2011 gồm 20 bài viết về nghiên cứu giới ở Việt Nam với các khía
cạnh nhƣ lý thuyết và phƣơng pháp, giáo dục và đào tạo, phụ nữ trong gia
đình và xã hội với sự hiện diện của các nhà nghiên cứu về giới nhƣ Mai
Huy Bích, Vũ Tuấn Huy, Thái Thị Ngọc Dƣ, Lê Ngọc Hùng, Bùi Thế
Cƣờng, Vũ Mạnh Lợi,… Bùi Thế Cƣờng, Quách Thu Cúc, Nguyễn Thị
Nhung, Nguyễn Thị Minh Châu với bài viết “Vị thế và vai trò phụ nữ trong
gia đình và cộng đồng: trường hợp ba cộng đồng phụ nữ Việt, Chăm và
Khmer tại Tây Ninh và Kiên Giang” đã đƣa ra quan điểm về vai trò giới
trong ba lĩnh vực: sản xuất (những công việc do phụ nữ và nam giới thực
hiện nhằm tạo ra thu nhập hoặc để tự tiêu dùng), tái sản xuất và nuôi dƣỡng
(những hoạt động tạo ra nòi giống và tái tạo sức lao động gồm việc sinh
con, nuôi dạy con, chăm sóc các thành viên khác trong gia đình và đảm
trách các công việc nội trợ, giặt giũ...), hòa nhập cộng đồng và xã hội
(những hoạt động nhằm đảm bảo lợi ích chung cho cộng đồng nhƣ hoạt
động xây dựng và cải thiện môi trƣờng sống, tổ chức và tham gia các lễ hội,
trao đổi thông tin, họp hành…). Bài viết phân tích vai trò của phụ nữ trong
mối quan hệ qua lại giữa hai giới nhằm phát hiện mô hình phát triển vì lợi
ích của cả hai giới nói chung và của nữ giới nói riêng hƣớng đến phát triển
gia đình và cộng đồng.
Nhìn chung, các tác giả nghiên cứu các vấn đề về giới đã đƣa ra các
khuyến nghị về giải pháp tạo sự bình đẳng giới, quan tâm nhiều hơn đến
quyền lợi của phụ nữ nhƣng cũng cần đến những nỗ lực của chính ngƣời
phụ nữ phải vƣợt qua những chi phối về phong tục, tôn giáo, kinh tế, và
định kiến xã hội.
7
2.2. Nghiên cứu liên quan đến ngƣời Chăm, văn hóa Chăm, phụ nữ
Chăm
Các công trình nghiên cứu ngƣời Chăm và về Champa cũng đƣa ra
những tƣ liệu liên quan đến vai trò, vị thế của phụ nữ trong cộng đồng
ngƣời Chăm. Trƣớc hết có thể kể đến Nguyễn Khắc Ngữ với công trình
“Mẫu hệ Chàm” (Tủ sách khoa học Nhân Văn, Sài Gòn - 1967) đƣợc cho là
công trình đầu tiên tập hợp và giới thiệu những hiểu biết của ngƣời Chăm
về chế độ mẫu hệ trong xã hội ngƣời Chăm.
Công trình “Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam”
của Nguyễn Văn Luận xuất bản 1974 nói đến tổ chức xã hội cổ truyền của
ngƣời Chăm là hình thức mẫu hệ, dựa trên dòng huyết hệ bên mẹ.
Công trình “Văn hóa Chăm” của nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan
An, Phan Văn Dốp xuất bản 1991 đã phác thảo một bức tranh về văn hóa
Chăm với những đặc trƣng phong phú, đa dạng trong tiến trình phát triển
của xã hội Chăm. Trong phần trình bày về nếp sống gia đình và xã hội, các
tác giả chú ý đến yếu tố “mẫu hệ” với vai trò của ngƣời đàn bà lớn tuổi
nhất, thuộc thế hệ cao nhất đƣợc coi là chủ gia đình, có trách nhiệm đối với
mọi thành viên về mọi mặt trong cuộc sống hằng ngày nhƣ kinh tế, tôn giáo
lễ nghi,…
Phan Thị Yến Tuyết với công trình “Nhà ở - Trang phục - Ăn uống
của các dân tộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long” (Nxb. Khoa học xã hội,
1993), trong phần viết về trang phục của cộng đồng ngƣời Chăm vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (tr.251-tr.263), tác giả trình bày những kế thừa
của trang phục truyền thống của ngƣời Chăm ở Trung Bộ cùng những yếu
tố địa phƣơng vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình sinh sống,
giao lƣu văn hóa, và những trang phục của tôn giáo Islam.
8
Trƣờng Viễn Đông Bác Cổ (Pháp) và Jabatan Muzium dan Antikuiti
(Bảo tàng quốc gia Malaysia) phối hợp thực hiện công trình “Costumes of
Campa, the Malay Group in Vietnam” (Trang phục thời kỳ Campa của
nhóm Mã Lai tại Việt Nam) xuất bản năm 1988. Đây là bộ sƣu tập công
phu và có giá trị về các loại trang phục của ngƣời Chăm.
Ngô Đức Thịnh với công trình “Trang phục cổ truyền các dân tộc
Việt Nam” xuất bản năm 2000, đƣa ra cách thức ăn mặc cổ truyền của 54
dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Trong đó, tác giả trình bày về trang phục cổ
truyền của dân tộc Chăm ở Ninh thuận, Bình Thuận và Nam Bộ trong
chƣơng 11 (tr. 205 - 214).
“Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam” của Bá Trung
Phụ (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2001) mô tả các loại hình và các nghi lễ gia
đình, quan niệm trong hôn nhân, quy tắc và hình thái hôn nhân, nghi lễ đám
cƣới của các nhóm ngƣời Chăm (thiên về cộng đồng Chăm Bani). Với công
trình này, Bá Trung Phụ đã đề cập đến vị trí phụ nữ Chăm trong gia đình,
chứng minh đặc trƣng của chế độ mẫu hệ đƣợc thể hiện trong quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình, chế độ kế thừa tài sản, vai trò quyết định của
phụ nữ trong gia đình và chế độ cƣ trú bên vợ, sự biến đổi gia đình và hôn
nhân của ngƣời Chăm từ sau năm 1975.
Trần Ngọc Khánh với luận án tiến sĩ “Hoa văn thổ cẩm của người
Chăm” (2003), với những nghiên cứu về đặc trƣng hoa văn trên nền thổ
cẩm của ngƣời Chăm, đƣa ra những phân tích, so sánh với hoa văn thổ cẩm
ở Tây Nguyên, cùng những giá trị của hoa văn trong đời sống ngƣời Chăm
hiện nay.
“Văn hóa - xã hội Chăm - nghiên cứu và đối thoại” của Inrasara
(Nxb. Văn học, 2003) làm nổi bật đức tính của phụ nữ Chăm gắn với nét
9
đẹp của nghề dệt thổ cẩm của ngƣời Chăm hiện nay và trong văn học dân
gian Chăm.
“Nghề dệt Chăm truyền thống” (do Tôn Nữ Quỳnh Trân chủ biên,
2003) cùng với tập thể tác giả đƣa ra những dẫn chứng nghề dệt Chăm
đƣợc tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác, thừa kế các phƣơng thức kỹ
thuật, kỹ năng truyền thống, góp phần đƣa ra các sản phẩm có giá trị về văn
hóa, kinh tế và xã hội, trong đó phụ nữ có vai trò chính trong duy trì và phát
triển nghề nghiệp truyền thống.
“Lễ hội của người Chăm” của Sakaya (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2003)
giới thiệu các lễ hội văn hóa tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Chăm ở Ninh
Thuận, ngƣời đọc cũng có thể hiểu thêm vai trò của ngƣời phụ nữ Chăm
trong sinh hoạt văn hóa dân gian.
“Vương quốc Champa” của Lƣơng Ninh do Đại học quốc gia Hà Nội
tái bản năm 2006, nghiên cứu về giai đoạn lịch sử vƣơng quốc Champa.
Năm 2005, một nhóm tác giả đã tập hợp các bài nghiên cứu về ngƣời
Chăm và cho xuất bản công trình “Đời sống văn hóa xã hội cộng đồng
Chăm thành phố Hồ Chí Minh” do Phú Văn Hẳn làm chủ biên gồm 17 bài
nghiên cứu, đề cập tới nhiều lĩnh vực từ thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội
đến tôn giáo, hôn nhân, gia đình, văn học nghệ thuật, giáo dục, từ tổ chức
cộng đồng của ngƣời Chăm thành phố Hồ Chí Minh đến tổ chức tôn giáo
tại thánh đƣờng. Trong công trình này có thể lƣu ý bài viết “Người phụ nữ
Chăm Hồi giáo ở thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thanh Tuấn (tr.143
- 151) cho thấy cái nhìn riêng về phụ nữ Chăm ở Nam Bộ - một cộng đồng
theo đạo Islam.
Nguyễn Lê Minh Tấn với “Hệ thống thân tộc, hôn nhân - gia đình
của người Chăm ở Tây Ninh (nghiên cứu trường hợp xã Suối Dây, huyện
10
Tân Châu, tỉnh Tây Ninh)” (luận văn Thạc sĩ, trƣờng ĐH KHXH & NV Tp.
Hồ Chí Minh, 2005) cho rằng ngƣời Chăm ở Tây Ninh theo chế độ phụ hệ
nhƣng vẫn còn bảo lƣu rất nhiều tàn dƣ của chế độ mẫu hệ trong tổ chức lễ
cƣới, vai trò của ngƣời phụ nữ trong gia đình.
Phan Văn Dốp và Nguyễn Thị Nhung với công trình “Cộng đồng
người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ trong quan hệ giới và phát triển” xuất bản
năm 2006 trình bày những vấn đề về phụ nữ Chăm liên quan đến vấn đề kế
hoạch hóa gia đình, tham gia các dự án địa phƣơng, cải thiện môi trƣờng
sống, sức khỏe sinh sản trong phát triển cộng đồng.
Võ Công Nguyện (2006) với “Một số đặc điểm trong đời sống kinh
tế hộ gia đình của người Chăm Hồi giáo Nam Bộ” đã phân tích, lý giải một
số đặc điểm trong đời sống kinh tế hộ gia đình nhìn từ góc độ lao động và
việc làm, về mức sống và thu nhập, về giới trong lĩnh vực hoạt động kinh tế
và vai trò vị trí của ngƣời phụ nữ nhƣ thế nào trong đời sống kinh tế hộ gia
đình.
Người Chăm (Nxb. Thông tấn Hà Nội, 2009), giới thiệu về ngƣời
Chăm ở những khía cạnh nhƣ nguồn gốc và phân bố dân cƣ; tháp Chăm và
nghệ thuật điêu khắc Chăm, lễ hội, phong tục tập quán, trang phục - trang
sức (tr. 60 - 76) trong đó có 2 trang viết về trang phục của ngƣời Chăm và
các trang hình ảnh về một số trang phục của ngƣời Chăm nhƣ trang phục
tôn giáo, trang phục ngày thƣờng…
Dr. Sharif Abdel Azeem (chuyển ngữ Mieu Abbas và Fatiha Trần)
với công trình “Phụ nữ trong Islam” trình bày về sự giáo dục phụ nữ,
quyền thừa kế phụ nữ, về tài sản của vợ, về ngƣời mẹ, khăn trùm đầu của
phụ nữ Islam,…
11
Nguyễn Mạnh Cƣờng với công trình “Văn hóa - lối sống của những
người theo Hồi giáo” xuất bản năm 2010, trình bày về lịch sử hình thành
đạo Hồi, lối sống của ngƣời theo Hồi giáo, Hồi giáo trong xã hội hiện đại.
Phan Văn Dốp - Vƣơng Hoàng Trù với công trình “100 câu hỏi đáp
về người Chăm ở thành phố Hồ Chí Minh” xuất bản năm 2011 với những
câu hỏi tổng quan về ngƣời Chăm ở Việt Nam đến từng khía cạnh nhỏ
trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của ngƣời Chăm ở thành phố Hồ Chí
Minh, với các câu hỏi nhƣ phụ nữ Chăm Hồi giáo có vai trò nhƣ thế nào
trong gia đình, trang phục nữ giới ngƣời Chăm ở thành phố có những đặc
điểm gì…
Phạm Thị Thanh Huyền với bài viết “Kinh Koran với vấn đề phụ nữ
và gia đình” trong Hội thảo Khoa học về “Văn hóa - xã hội các nước Ả Rập
truyền thống và hiện đại” tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 28 tháng 9 năm
2012 cho thấy Hồi giáo cũng đƣa ra những quan điểm của mình về ngƣời
phụ nữ thể hiện trong kinh Koran và giáo luật Hồi giáo.
Phú Văn Hẳn và các cộng tác viên với công trình “Văn hóa người
Chăm ở thành phố Hồ Chí Minh” xuất bản năm 2013, trình bày về quá
trình hình thành cộng đồng Chăm ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, các
vấn đề về văn hóa vật chất và tinh thần, ngƣời Chăm trong quá trình hội
nhập và phát triển.
Liên quan đến đề tài “Phụ nữ trong văn hóa Chăm” cũng có thể kể
đến bài viết “Hình ảnh phụ nữ được tôn trọng trong Islam của tác giả
Muhammad bin Ibrohim Al-Haamd (dịch thuật Abu Hisaan Ibnu Ysa) năm
2010 đƣa ra một số câu Kinh từ Thiên Kinh Qur‟an và một số Hadith nói về
hình ảnh của ngƣời phụ nữ trong Islam với sự che chở bảo vệ và tôn trọng
của Islam dành riêng cho phụ nữ; Đạo Thị Thanh Hƣơng với “Người phụ
12
nữ Chăm trong đời sống gia đình ở tỉnh Ninh Thuận” (luận văn Thạc sĩ,
trƣờng ĐH KHXH &NVTp. Hồ Chí Minh, 2006), nghiên cứu góp phần làm
rõ những thay đổi trong xã hội ngƣời Chăm hiện nay nhƣ phụ nữ Chăm
đƣợc đi học nhiều hơn, tham gia làm việc trong các cơ quan nhà nƣớc, các
đoàn thể xã hội…; “Văn hóa tổ chức cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ”
(Võ Thị Mỹ, luận văn thạc sĩ, trƣờng ĐH KHXH &NV Tp. Hồ Chí Minh,
2008); “Văn hóa mẫu hệ Chăm” (Nguyễn Thị Diễm Phƣơng, luận văn thạc
sĩ, trƣờng ĐH KHXH & NV Tp. Hồ Chí Minh, 2009).
Công trình “Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ bản sắc và giá trị” do
Võ Văn Sen - Ngô Đức Thịnh - Nguyễn Văn Lên (đồng chủ biên) (Nxb.
ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh - 2014) gồm 68 bài viết, trong đó có 03
bài viết liên quan đến tín ngƣỡng thờ mẫu của ngƣời Chăm có so sánh với
ngƣời Khmer, ngƣời Kinh nhƣ: “Bàn thêm về hình tượng muk Juk (bà Đen)
- một hóa thân của nữ thần Po Ina Nagar người Champa trong tín ngưỡng
thờ mẫu của người Việt ở Nam Bộ” của tác giả Trƣơng Văn Món có nhận
định “Mỗi bộ phận trên cơ thể của Nữ thần còn là tƣợng trƣng cho từng bộ
phận của vũ trụ”. Ngoài việc giải thích vũ trụ bằng những bộ phận thân thể
của nữ thần, tƣ liệu còn viết “Nữ thần có 8 cái bùa phép (dalapan takai
sarak). Mỗi cái bùa lập ra trời đất, mặt trời, mặt trăng (Yang harei, Yang
bilan), thân thể con ngƣời; tạo thành Champa Ahier và Champa Awal/Bani.
Nữ thần còn tạo ra lịch pháp, dạy ngƣời Champa biết sử dụng ngày tháng
năm (ba harei balan ka anak adam). Nữ thần còn tạo ra xứ “Bal Huk” (Củ
Hũ - Mỹ Tƣờng - Ninh Thuận). Nữ thần trao cho Po Yang Ama (thần cha)
cai quản xứ “Bal Lai” (Ba Tháp - Ninh Thuận), Po Debata Thuer cai quản
xứ “Padarang” (Phan Rang)… Tƣ liệu trên còn đề cập đến Po Ina Nagar là
vị thần đầu tiên giáng thế xuống trần gian và đấu tài với Po Yang Ama
(thần cha) trong việc tạo dựng vũ trụ. Cuối cùng, nữ thần chiến thắng, tự
13
sinh ra lại thần Po Yang Ama hiện thân của Siva (ong sibayong). Sau đó,
tiếp tục sinh ra 9 vị thần khác và các vua Champa để cai quản đất nƣớc (Po
Ina Nagar trun salipan Yang ginreh padang nagar palei)” [Võ Văn Sen Ngô Đức Thịnh 2014: 522]. Tục thờ “Bà Đen” (Muk Juk) hay các loại
tƣợng “màu đen” (Bal Juk) là tục thờ phổ biến ở các dân tộc Đông Nam Á
có ảnh hƣởng văn minh Ấn Độ. Hiện nay ở các đền Ấn Giáo ở Bali, Mã Lai
đều còn giữ tục thờ tƣợng thần màu đen gọi là nữ thần Kali. Đối với nữ
thần tối cao của ngƣời Champa, ngoài tên Po Ina Nagar và Muk Juk (Bà
Đen), nữ thần còn có tên Bhagavati - một hóa thân của thần Kali của Ấn Độ
[Võ Văn Sen - Ngô Đức Thịnh 2014: 523]. Nhƣ vậy, tục thờ Thánh mẫu Po
Inƣ Nƣgar - Muk Juk (Bà Đen) của ngƣời Chăm có sự gần gũi với tục thờ
Mẫu và tục thờ Bà Đen của ngƣời Việt, ngƣời Khmer. Bài viết “Thần nữ
Thiên Y A Na trong đời sống cư dân vùng Thuận Hóa” của Lê Đình Hùng,
Lê Nữ Khánh Trang cho biết Thiên Y Ana là một biến thể từ nữ thần Po Ina
Nagar; Thiên Y Ana những dấu ấn tín ngƣỡng. Từ đó, đi đến kết luận “Tín
ngƣỡng thờ Thiên Y Ana ở vùng Thuận Hóa là một trƣờng hợp của quá
trình tiếp biến văn hóa Việt - Chiêm. Dẫu có nhiều thay đổi trong đời sống
văn hóa tín ngƣỡng ở Thuận Hóa nói riêng và cả miền Trung nói chung,
mẫu hình giao lƣu tiếp biến văn hóa đối với Nữ Thần Thiên Y Ana trên
vùng Thuận Hóa chúng ta có thể nhận ra những dấu vết nào đó trên vùng
đất phƣơng Nam, khi ngƣời Việt dung hợp văn hóa với các cộng đồng
Champa, Khmer, Hoa để tạo nên nét đặc trƣng trong sắc thái tín ngƣỡng
thờ nữ thần, thờ mẫu ở Nam Bộ” [Võ Văn Sen - Ngô Đức Thịnh 2014:
534].
Công trình “40 năm nghiên cứu văn hóa Chăm” của Phan Quốc Anh
Phú Văn Hẳn - Bùi Đức Hùng - Võ Công Nguyện (Đồng chủ biên) do Nxb.
Văn hóa Dân tộc Hà Nội xuất bản năm 2015 với 40 bài viết của các nhà
14
nghiên cứu gắn với vùng đồng bào Chăm, giàu kinh nghiệm về văn hóa Chăm
nhƣ Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Quốc Anh, Bùi Khánh Thế, Võ Công
Nguyện, Thành Phần, Phú Văn Hẳn, Bá Trung Phụ, Đổng Văn Dinh, Đàng
Năng Hòa, Trƣợng Tính,… phác thảo ra những nét khát quát chung về văn
hóa - xã hội Chăm, về những di tích, di vật khảo cổ học, về tôn giáo, tín
ngƣỡng, về ngôn ngữ và văn học nghệ thuật Chăm; phân tích sâu và từ nhiều
góc độ nhƣ các loại hình hoạt động kinh tế, tín ngƣỡng, làng nghề, nhạc cụ,
hôn nhân…và ảnh hƣởng của giao lƣu tiếp biến văn hóa Ấn, văn hóa Arab,
văn hóa Việt với văn hóa Chăm; phân tích hiện trạng văn hóa - xã hội của
ngƣời Chăm hôm nay, dƣới sự tác động của quá trình hội nhập, của nền văn
minh, công nghệ và các phƣơng tiện truyền thông đại chúng, đã biến đổi, làm
mai một đi những nét truyền thống của dân tộc; những đề xuất, kinh nghiệm
trong công tác bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa của ngƣời Chăm.
Nhìn chung, giới khoa học xã hội đã nghiên cứu đến nhiều khía cạnh
của ngƣời Chăm, đƣợc miêu tả, ghi nhận, nhìn nhận ở nhiều góc nhìn dân
tộc học, nhân học, tôn giáo, ngôn ngữ, văn học hoặc đánh giá theo cách
nhìn của văn hóa dân gian... Đây là những tƣ liệu đáng quý trong việc
nghiên cứu về ngƣời Chăm, về văn hóa Chăm, phụ nữ Chăm. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu về ngƣời phụ nữ Chăm còn rất ít chƣa làm sáng
tỏ các khía cạnh văn hóa liên quan đến vai trò phụ nữ Chăm trong mối quan
hệ hữu cơ giữa văn hóa truyền thống với hiện đại. Trên cơ sở kế thừa các tƣ
liệu nói trên, đề tài “Phụ nữ trong văn hóa Chăm” chúng tôi đƣa ra hƣớng
tiếp cận phụ nữ Chăm trong văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức và văn hóa
ứng xử.
- Xem thêm -