TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Thị Ngọc Quyền
Mssv: 6106425
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
trong truyện ngắn trước 1945
Gvhd: Nguyễn Thị Kiều Oanh
Cần thơ, năm 2014
1
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cuộc đời của Nguyễn Tuân
1.1.1. Tiểu sử
1.1.2. Con người
1.2. Sự nghiệp sáng tác và các đề tài chính
1.3. Quan niệm nghệ thuật nhà văn
1.4 .Vấn đề phong cách nghệ thuật nhà văn
CHƯƠNG 2: PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN TUÂN
BIỂU HIỆN Ở MẶT NỘI DUNG
2.1. Cái tôi tự do phóng túng
2.2. Cái tôi tài hoa, tài tử
2.2.1. Cái tôi tài hoa
2.2.2. Cái tôi tài tử
2.3. Cái tôi nâng niu ca ngợi cái đẹp
2.4. Con người không quay lưng với cuộc đời
CHƯƠNG 3: PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN TUÂN
BIỂU HIỆN Ở MẶT NGHỆ THUẬT
3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật
3.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ
3.4. Giọng điệu nghệ thuật
2
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Tuân là một trong những tác gia tiêu biểu của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Trang viết của ông luôn thể hiện một cái tôi tài năng độc đáo. Là một nhà văn
khá lớn, Nguyễn Tuân đã để lại một sự nghiệp đồ sộ với những trang viết tài hoa.
Nguyễn Tuân hoạt động trên nhiều lĩnh vực và ở bất kì đề tài nào, ông cũng hết sức
tâm huyết. Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Tuân luôn xem nghệ thuật
là một quá trình lao động thật sự nghiêm túc. Ông viết văn với cả một niềm đam mê tận
sâu trong trái tim của một người nghệ sĩ. Tài năng ấy của Nguyễn Tuân được thể hiện
qua nhiều lĩnh vực kiến thức phong phú khác nhau như: âm nhạc, hội họa, điêu khắc,
kiến trúc, điện ảnh, lịch sử, địa lí,…, Nguyễn Tuân sáng tác ở nhiều thể loại văn học
khác nhau nhưng thành công nhất là tùy bút và truyện ngắn. Nghiên cứu Phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân trong truyện ngắn trước 1945, người viết sẽ được tìm hiểu
sâu sắc hơn về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác cũng như những nét đặc trưng của phong
cách nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Tuân. Đồng thời, nghiên cứu đề tài này,
người viết rất hào hứng vì tìm hiểu một nhà văn lớn trên thi đàn văn học Việt Nam hiện
đại và cũng là tìm hiểu về cái xưa cũ và sự say mê yêu mến cái đẹp trong truyện ngắn
của ông giai đoạn trước năm 1945.
Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nặng về ý thức cá nhân. Ông sáng tác văn chương
bằng cả tấm lòng. Trong hầu hết trang viết của Nguyễn Tuân bao giờ cũng toát lên một
nét nghệ thuật tài hoa không lẫn với bất kì nhà văn khác, một phong cách riêng, một
dấu ấn riêng, cả cách suy nghĩ và diễn đạt cũng riêng. Từ những lí do trên chúng tôi
quyết định chọn và nghiên cứu đề tài Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trong
truyện ngắn trước 1945 với mong muốn góp thêm công sức nhỏ của mình hòa vào
những công trình lớn, khám phá giá trị văn chương Nguyễn Tuân và đặc biệt là phong
cách nghệ thuật độc đáo của ông. Hơn thế nữa, việc tìm hiểu vấn đề này có ý nghĩa rất
thiết thực đối với quá trình học tập của người viết, cũng như trau dồi thêm kiến thức
cho bản thân.
4
2.Lịch sử vấn đề
Nguyễn Tuân một cây bút tài hoa và uyên bác. Những sáng tác của ông trước
cách mạng tháng Tám đã được đánh giá và phê bình qua nhiều công trình của những
nhà nghiên cứu ở nhiều mức độ khác nhau như: phong cách nghệ thuật, quan điểm
sáng tác, đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong một số truyện ngắn, cuộc đời và sự
nghiệp văn chương,...
Hoài Anh đã từng nhận xét về cái đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Tuân như sau:
“Cái đẹp của Nguyễn Tuân không phải là cái đẹp mơ mộng, nhàn nhạt, phẳng lặng,
mà là cái đẹp tạo hình, có góc cạnh, nhiều khi dữ dội”, hay “Nguyễn Tuân người nghệ
sĩ ngôn từ đưa cái đẹp đến thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy trong văn học Việt
Nam”, [2; tr. 356]. Thật vậy, lời nhận xét ấy thật đúng với nét tài hoa độc đáo trong
sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Một tác phẩm văn chương đạt đến độ hoàn mĩ
không chỉ cân đo sâu sắc về nội dung mà câu từ cũng là nhân tố khá quan trọng, nó
đóng vai trò trong việc tạo nên sự trôi chảy về văn phong và sự sinh động trong một tác
phẩm. Hơn thế nữa, Nguyễn Tuân là một người luôn yêu say mê tiếng mẹ đẻ, ông đã
dành nhiều tâm huyết của mình trong tìm tòi và làm phong phú thêm về ngôn từ tiếng
Việt ta.
Và trong bài viết Người săn tìm cái đẹp, Nguyễn Thành cũng đã nhận xét rằng:
“Nguyễn Tuân đã tự mình luôn trau dồi tìm tòi sáng tạo ngôn ngữ văn chương và phải
thừa nhận ông có đóng góp lớn vào việc làm giàu tiếng Việt, ngay cả trong vốn từ Hán
– Việt mà ông sử dụng khá nhiều. Nguyễn Tuân xứng đáng được mệnh danh là “Người
thợ kim hoàn của chữ” (ý của nhà thơ Tố Hữu phát biểu trong dịp các nhà văn nhận
Giải thưởng Hồ Chí Minh)”, [2; tr. 235]. Thật vậy, trong cuộc đời cầm bút Nguyễn
Tuân luôn tìm tòi phát huy ngôn ngữ dân tộc để ngày càng phong phú hơn. Ông tạo ra
hàng loạt từ mới cũng như cách sử dụng chúng vào các tác phẩm, với mong muốn
người đọc qua đó biết thêm nhiều từ ngữ vừa được ông xây dựng nên, cũng như góp
phần phong phú cho ngôn từ tiếng Việt trở nên giàu đẹp hơn.
Mặc dù không phải là người đầu tiên nhưng trong số những nhà nghiên cứu tâm
huyết về Nguyễn Tuân, có lẽ Nguyễn Đăng Mạnh là người tìm hiểu toàn diện và sâu
sắc nhất về ông. Bàn về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, ông nhận xét: “Hạt nhân
5
của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói trọn trong một chữ ngông. Cái
ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Tản Đà và trực tiếp là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn, vừa mang
dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lí nổi loạn của xã hội tư sản phương
Tây như triết lí siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng thuyết hiện sinh…[15; tr.
2]”. Đây chính là sự chống lại mọi lề thói, quy cũ của xã hội phong kiến bằng sự kiêu
ngạo ở một cái “ngông” vô cùng táo bạo trong phong cách nghệ thuật của ông. Nguyễn
Tuân đã nâng mọi thứ lên một tầm cao mới cũng như quan niệm riêng về con người lẫn
nghệ thuật. Tất cả đã hình thành nên những chủ nghĩa mới trong ông: chủ nghĩa xê
dịch, hưởng lạc,… Không những thế trong bài viết Nguyễn Tuân – cây bút tài hoa và
độc đáo, Nguyễn Đăng Mạnh còn xem Nguyễn Tuân là: “Nhà văn của chủ nghĩa duy
mỹ, chỉ trọng cái đẹp hình thức không cần nội dung, chủ trương viết văn không khuynh
hướng, đặc nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở đời”, [5; tr. 46]. Nguyễn Tuân luôn
đặt hình thức lên trên mọi thứ, xem đó là ngõ nguồn của mọi sự bắt đầu, Nguyễn Tuân
luôn cân đo đong đếm giá trị văn chương của mình từ việc đặt cái đẹp lên trên cái cao
cả, ông loại bỏ tất cả những cái xấu xa, đê hèn khi đưa trang văn lên một tầm cao mới
trong cái đẹp nghệ thuật. Những đóng góp của Nguyễn Đăng Mạnh đã phần nào cung
cấp cho người đọc hiểu hơn về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông đặc biệt là
về phong cách nghệ thuật.
Trong bài viết: Nguyễn Tuân (Biệt hiệu Nhất Lang), Vũ Ngọc Phan đã chỉ ra nét
riêng của Nguyễn Tuân như sau: “Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng, cả
về lối văn lẫn về tư tưởng” hay “Văn giới Việt Nam phải chú ý đến lối hành văn đặc
biệt của ông và những ý kiến cùng những lối tư tưởng phô diễn bằng những giọng tài
hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa bãi, lôi thôi, như một bức
phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một trạng thái của tâm hồn”, [8;
tr. 5]. Ý kiến trên cho ta thấy rằng, Nguyễn Tuân không chỉ là một cây bút tài hoa mà
tài năng văn chương của ông luôn được giới văn sĩ biết đến như một hiện tượng mới lạ
và đầy nét độc đáo. Và nét riêng đó, chính là việc ông vận dụng khéo léo trong cách
dùng từ đặt câu, từ cách viết đến việc hệ thống xây dựng hình ảnh của nhân vật trong
truyện, tạo nên sự thu hút và chú ý của người đọc.
6
Tôn Thảo Miên trong Nguyễn Tuân - Tài hoa văn chương, đã viết về Nguyễn
Tuân như sau: “Ông có một vốn từ vựng cực kì phong phú, một lối hành văn độc đáo,
tinh tế và rất có duyên. Câu văn của ông dường như chứa đựng mọi âm thanh, sắc màu
của cuộc sống, hay nói cách khác là sự hòa quyện của thõ ca, nhạc, họa, Nguyễn Tuân
xứng ðáng là một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ, một nhà vãn ðộc ðáo vô song mà
mỗi dòng chữ tuôn ra đầu ngọn bút”, [6; tr. 43]. Ở Nguyễn Tuân có sự kết hợp ăn ý
giữa ngôn ngữ và kiến thức ở các lĩnh vực như: hội họa, kiến trúc, địa lí,…, và sử dụng
một cách khéo léo. Ông vận dụng và phối hợp lồng ghép giữa từ mới và từ cũ biến tấu
thành những lời hay ý đẹp, nhịp nhàng và sâu lắng trong câu từ, tạo nên một điểm nhấn
mới trong trang văn của mình. Qua đó ta thấy được tinh thần say mê cái đẹp luôn tràn
ngập trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân, khẳng định được cái đẹp trong hình thức
của nghệ thuật.
Trên đây là một số nhận định về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Những ý kiến trên đã đi sâu vào tìm hiểu về phong cách nghệ thuật của ông trên
phương diện đặc sắc về đề tài, ngôn từ nghệ thuật,…. Lịch sử vấn đề cho thấy, tuy có
nhiều công trình, bài nghiên cứu, bài viết khác nhau đánh về phong cách nghệ thuật
của ông. Tuy nhiên công trình tập trung đi sâu vào tìm hiểu toàn diện về phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân trong truyện ngắn trước cách mạng vẫn còn rất ít. Người viết
chọn Phong cách nghệ thuật nguyễn Tuân trong truyện ngắn trước 1945, với mong
muốn đóng góp ít công sức nhỏ của mình hòa vào việc nghiên cứu về phong cách nghệ
thuật của tác gia Nguyễn Tuân. Bên cạnh đó, tìm hiểu và viết đề tài này còn giúp người
viết trau dồi thêm nhiều kiến thức trong hành trang học tập của mình.
Những bài viết, bài nghiên cứu trên là một trong những tư liệu vô cùng quý giúp
chúng tôi rất nhiều trong việc hoàn thành luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trong truyện ngắn trước
1945, chúng tôi hi vọng luận văn sẽ góp một phần nhỏ đóng góp hiểu biết của mình về
Nguyễn Tuân, hiểu hơn về thể loại truyện ngắn trong nền văn học của dân tộc. Cụ thể
với đề tài này, người viết sẽ làm sáng tỏ những đặc trưng trong “phong cách nghệ
thuật” ở truyện ngắn trước 1945 của Nguyễn Tuân.
7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết tập trung khảo sát về đặc điểm phong cách
nghệ thuật dựa trên một số tập truyện ngắn của Nguyễn Tuân trước 1945:
Một vụ bắt rượu lậu
Vườn xuân lan tạ chủ
Vang bóng một thời
o Bữu rượu máu (Chém treo ngành)
o Những chiếc ấm đất
o Thả thơ
o Đánh thơ
o Ngôi mã cũ
o Hương cuội
o Chữ người tử tù
o Một đám bất đắc chí (Ném bút chì)
o Chén trà sương
o Đèn đêm thu
o Trên đỉnh non Tản
o Khoa thi cuối cùng (Báo oán)
Thiếu quê hương
Chiếc lư đồng mắt cua
Yêu ngôn
o Loạn âm
o Đới roi
o Tâm sự của Nước độc
Xác ngọc lam
o Cô dó
Tóc chị Hoài
Bên cạnh đó, chúng tôi còn tham khảo từ những nguồn tài liệu sách vở, sách nghiên
cứu về Nguyễn Tuân, nguồn từ Internet, để vấn đề nghiên cứu được khách quan hơn.
8
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp lịch sử: Một trong những phương pháp cần thiết trong việc tìm
hiểu hoàn cảnh ra đời, tình hình lịch sử, xã hội giai đoạn Nguyễn Tuân tồn tại và để
hiểu rõ hơn các vấn đề trong tác phẩm Nguyễn Tuân trước 1945.
Phương pháp tiểu sử: Được vận dụng trong nghiên cứu về cuộc đời và thân thế
sự nghiệp của tác giả cũng như xuất xứ của các tác phẩm, từ đó hiểu biết thêm về tác
giả, tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Phương pháp hệ thống và phương pháp loại hình: Hai phương pháp được
dùng trong tất cả các chương của luận văn, với điều này vấn đề nghiên cứu được trình
bày một cách hệ thống và lôgic hơn. Qua đó, người đọc có thể rút ra những nhận xét
bao quanh vấn đề đặt ra.
Phương pháp đối chiếu so sánh: Được sử dụng để nêu bật lên vấn đề trong
nghiên cứu, so sánh các tác phẩm với nhau.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp được sử dụng nhiều
nhất trong các chương, triển khai nêu rõ vấn đề hoặc tổng hợp rút ra kết luận.
Ngoài những phương pháp trên người viết còn kết hợp các thao tác khác như:
chứng minh, giải thích, bình luận,…, để làm sáng rõ yêu cầu của luận văn.
9
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.Cuộc đời của Nguyễn Tuân
1.1. 1. Tiểu sử
Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng Bạc. Quê ông ở
ngoại thành, làng Mọc, thôn Thượng Đình nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nho học, nhưng
nho học lúc này đã thất thời và phải nhường chỗ cho cả một xã hội Tây học. Cả một thế
hệ vốn gắn bó với cửa Khổng sân Trình trở nên lỗi thời, sống giữa thời buổi Tây – Tàu
nhố nhăng nên nảy sinh tư tưởng bất đắc chí sinh bất phùng thời, trong đó có cả thân
sinh ông là cụ Nguyễn An Lan tức cụ tú Hải Văn, người đậu khoa thi Hán học cuối
cùng. Bối cảnh xã hội cùng hoàn cảnh gia đình như vậy đã tác động sâu sắc đến nét tài
hoa văn chương của ông, một dấu ấn riêng đậm chất cá tính sáng tạo, tư tưởng cũng
như phong cách nghệ thuật nhà văn Nguyễn Tuân.
Thời niên thiếu Nguyễn Tuân theo gia đình làm ăn sinh sống ở nhiều nơi các
tỉnh miền Trung như: Khánh Hòa, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh và lâu
nhất là ở Thanh Hóa. Nguyễn Tuân học hết bậc thành chung ở thành phố Nam Định,
ông tham gia bãi khóa chống lại việc giáo viên người Pháp xúc phạm người Việt nên bị
đuổi học (năm 1929) và cấm làm việc trên toàn cõi Đông Dương trong vòng 5 năm. Do
bất mãn với thời cuộc đất nước, ông đã phản đối lại chế độ thuộc địa và 2 lần bị bắt, bị
tù. Một lần tại Bangkok – Thái Lan do cùng một nhóm bạn vượt biên sang Lào – Thái,
ông bị đưa vào nhà giam Thanh Hóa (năm 1930). Sau đó ít lâu lại bị tù, vì Nguyễn
Tuân có ý định “xê dịch” trái phép vào Sài Gòn, khi đến Vinh thì lại bị bắt đưa về
Thanh Hóa một lần nữa. Ra tù, Nguyễn Tuân bắt đầu viết văn và viết báo.
Năm 1938, Nguyễn Tuân tham gia vào đoàn làm phim Cánh đồng ma quay tại
Hồng Kông. Nguyễn Tuân bắt đầu sự nghiệp văn chương từ những năm 30 thế kỉ XX
nhưng chỉ thực sự khẳng định được mình từ năm 1938 này, với một số tác phẩm có giá
trị và mang đậm dấu ấn phong cách như: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu
quê hương,…
10
Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam lần hai do có giao du với những người hoạt
động chính trị. Từ 1942 đến 1945 ông rơi vào bế tắc và thậm chí muốn tự sát.
Cách mạng tháng Tám kịp đến, cuộc đời Nguyễn Tuân như được lật sang trang
mới, căng đầy nhựa sống với một niềm tin bừng sáng. Nguyễn Tuân hân hoan tham gia
cách mạng và tự lột xác chính mình. Ông chân thành đứng vào hàng ngũ cách mạng.
Năm 1950, Nguyễn Tuân được kết nạp vào đảng cộng sản Đông Dương. Từ năm 1948
đến năm 1958, ông là tổng thư kí hội Nhà văn Việt Nam. Trong suốt hai cuộc kháng
chiến, Nguyễn Tuân luôn hăng hái chiến đấu lao vào những trận tuyến ác liệt, dùng văn
chương ca ngợi đất nước, ca ngợi những người lính anh hùng và cùng nhân dân đánh
giặc. Nguyễn Tuân mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội. Ông được nhà nước truy
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật vào năm 1996.
1.1.2. Con người
Nguyễn Tuân là một trí thức yêu nước, giàu tinh thần dân tộc. Ông luôn thể hiện
lòng yêu nước của mình theo nét riêng, đó là việc: gắn bó mật thiết với các giá trị văn
hóa cổ truyền của dân tộc. Nguyễn Tuân yêu thiết tha tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn
chương của Nguyễn Du, Tú Xương, Tản Đà,… Ông yêu những giọng điệu nam ai nam
bình xứ Huế hay những giọng thiết tha, dân dã của hò Quảng Trị,…; những cảnh sắc
và phong vị của thiên nhiên đất nước, những thú chơi tao nhã như: Uống trà và thưởng
nguyệt, chơi hoa, chơi chữ, đánh thơ, thả thơ…; yêu những tinh hoa ẩm thực thể hiện
sự tinh tế của ý thức Việt…
Nguyễn Tuân là người có ý thức cá nhân phát triển cao, trước hết ông viết văn
chỉ để khẳng định cá tính độc đáo của mình. Văn của ông phải mang màu sắc riêng,
đậm dấu ấn cá nhân. Và Nguyễn Tuân cũng luôn tâm niệm rằng viết văn thì phải bằng
cả trái tim của người nghệ sĩ, để khi truyền tải đến người đọc nó thật sự là một tác
phẩm mang giá trị cao. Nguyễn Tuân luôn trân trọng và nêu cao nghề nghiệp của mình.
Với ông, nghề văn là một nghề cao quý, nó là cả một quá trình lao động nghiêm túc và
thực sự khổ hạnh. Khẳng định điều đó, ông đã dùng cả cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ
của mình để minh chứng.
Nguyễn Tuân là một con người yêu thích sự tự do phóng khoáng. Ông mắc một
thứ bệnh, đó là bệnh thèm đi hay còn được gọi “chủ nghĩa xê dịch”, một trong những
11
thứ triết lí nổi loạn của phương tây xâm nhập vào nước ta để đáp ứng nhu cầu của tầng
lớp trí thức. Chính lối sống tự do phóng túng ấy, khiến ông không thể hòa nhập với chế
độ thuộc địa và phải hai lần bị tù vì có ý định xê dịch.
Nguyễn Tuân còn là một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác. Ngoài viết văn ông
còn am tường nhiều ngành văn hóa khác nhau, những môn nghệ thuật khác nhau như
hội họa, âm nhạc, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…. Nguyễn Tuân từng là một trong
những diễn viên kịch nói tài năng, tài tử xi - nê đầu tiên ở điện ảnh nước ta. Con người
tài tử này còn tài hoa trong lĩnh vực văn học. Đó là khi ông dùng sự quan sát, tiếp thu
nhìn đời một cách tinh tế, kết hợp cùng với tài năng vốn có vào trong sáng tác của
mình. Thật vậy, trang văn Nguyễn Tuân khi đến với người đọc luôn là những kiến thức
của nhiều ngành văn hóa khác nhau, điều này chứng tỏ ông là một người am tường
nhiều lĩnh vực khác nhau và có một tầm hiểu biết sâu rộng.
Tóm lại, Nguyễn Tuân không chỉ là một người nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Bên cạnh
ấy, người trí thức giàu lòng yêu nước này, còn đem những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc vào sáng tác văn chương với thái độ trân trọng và nâng niu. Khi thời cuộc
hãy còn nhiều biến động, ông đã biết cách giữ gìn cho mình tấm lòng ấy, một nhân
cách thanh cao và trong sáng. Minh chứng cho điều đó là trên trang viết của Nguyễn
Tuân bao giờ cũng vậy, những vẻ đẹp xưa luôn sống dậy như một nỗi niềm thành kính,
những con người tài hoa, những thú vui thanh tao đến vẻ đẹp cao khiết bình sinh trong
nhân thế. Và rồi, Nguyễn Tuân từ sau cách mạng tháng Tám đã bày tỏ tâm sự yêu nước
rất tha khiết, không còn e dè và kín đáo mà thay vào đó là lời ca ngợi quê hương, đất
nước, ca ngợi con người trong thời đại mới, công cuộc xây dựng đất nước thời kì mới.
Nếu trước đây chủ nghĩa cá nhân vươn cao, tư tưởng hưởng lạc và kiêu ngạo lôi kéo
ông xa rời công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thì giờ đây, cách mạng đã đưa ông
trở lại với lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Mở ra cho Nguyễn Tuân một niềm tin
mới để bước tiếp trên con đường nghệ thuật của mình.
12
1.2. Sự nghiệp sáng tác và các đề tài chính
Sáng tác của Nguyễn Tuân trải qua hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề
tài chính: chủ nghĩa xê dịch, vang bóng một thời và đời sống trụy lạc. Nguyễn Tuân
đến với chủ nghĩa xê dịch trong tâm trạng bất mãn, sâu sắc trước thời cuộc. Ông mang
trong mình cái khuynh hướng đi không mục đích, điều đó như một cách phản ứng cực
đoan để ông thấy đời không bị nhàm chán. Nhưng với tập du kí (Một chuyến đi)
Nguyễn Tuân đã có dịp thể hiện tấm lòng gắn bó tha thiết của mình với cảnh sắc quê
hương đất nước. Tại đây Nguyễn Tuân có dịp hòa mình vào thiên nhiên và cảm nhận
nó thật tinh tế trong sáng tác với tất cả những nơi ông đi qua. Với Nguyễn Tuân đó
không chỉ là kết quả của chuyến đi thực tế mà còn là cảnh sắc và phong vị ở mỗi miền
quê trong đất nước mình. Mất niềm tin ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân thả mình
vào quá khứ, tìm chút dư âm còn sót lại của vẻ đẹp một thời còn vang bóng. Với tập
truyện ngắn Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân tái hiện lại những giá trị xưa cùng
những thuần phong mỹ tục trong văn hóa tinh thần dân tộc. Những thú chơi hưởng lạc,
thanh tao được ông thể hiện qua nhiều lớp người thuộc nhiều thứ bậc khác nhau trong
xã hội như nhà nho, tài tử, những đám người bất đắc chí. Mặc dù thất bại nhưng họ vẫn
không lùi bước trước thời cuộc. Đó là Huấn Cao trong Chữ người tử tù, con người tài
hoa khí phách hiên ngang, đám nghĩa quân bãi Sậy trong Bữu rượu máu, họ đại diện
cho tinh thần yêu nước của dân tộc không khuất phục trước quân thù trong mọi hoàn
cảnh. Ở đề tài Đời sống trụy lạc, Nguyễn Tuân viết về một nhân vật “tôi” hoang mang
và bế tắc, bế tắc trước thời cuộc, bế tắc chẳng thể tìm ra lối thoát. Nguyễn Tuân chỉ có
thể để nhân vật của mình chìm vào hư ảo của cõi hoang lạc để quên đi cái thực tại xô
bồ. Nhưng trong tình trạng ấy lại lóe lên một niềm tin mới từ cái thanh cao, tinh khiết.
Từ đó, ông tìm thấy cho mình một hướng đi mới hơn trong cái tuyệt vọng của thời
cuộc (Chiếc lư đồng mắt cua).
Sau cách mạng, Nguyễn Tuân hòa mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Ông dùng ngòi bút của mình phục vụ chiến đấu trên cương vị của một nhà văn,
đem đến cho nền văn học Việt Nam cái không khí mới về nội dung và nghệ thuật.
13
Những trang viết của Nguyễn Tuân trước cách mạng luôn được độc giả đón nhận một
cách nồng nhiệt. Bởi lẽ, những sáng tác của ông không chỉ về nghệ thuật mà còn cho
thấy cái tôi cá nhân tiêu biểu cho khuynh hướng chủ nghĩa lãng mạn đang thống trị đời
sống văn học lúc bấy giờ. Nếu trước đây, tình yêu nước thương dân chỉ được ông bộc
lộ như lời tâm sự giấu kín. Thì giờ đây, con người tài hoa uyên bác ấy đã có thể tự do
cất cao tiếng hát yêu quê hương đất nước của mình. Ông bắt đầu từ Chùa Đàn, rồi sau
đó khẳng định mình là nhà văn có sự chuyển biến rõ rệt về tư tưởng từ: Đường vui,
Tình chiến dịch, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi… Nguyễn Tuân đã lột xác và thay
đổi hoàn toàn trở thành con người mới, khẳng định được mình là nhà văn “nghệ thuật
vị nhân sinh”, biết đau với nỗi đau mất nước. Ông vứt bỏ hết những gì của con người
ngày hôm qua lãng mạn, luôn trong tư thế thoát ly hưởng lạc. Nguyễn Tuân đã vui, đã
buồn với nhân dân, với dân tộc và đất nước. Các sáng tác từ Lột xác đến Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi là sự bày tỏ tình yêu với quê hương đất nước.
Các tác phẩm tiêu biểu gồm:
Trước 1945:
Một chuyến đi (1938)
Ngọn đèn dầu lạc (1939)
Thiếu quê hương (1940)
Vang bóng một thời ( 1940)
Tàn đèn dầu lạc (1941)
Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
Tùy bút I (1941)
Tùy bút II 1943
Tóc chị Hoài (1943)
Nguyễn (1945).
Sau 1945:
Chùa Đàn (1946)
Đường vui (1949)
Tình chiến dịch (1950)
14
Thắng càn (1963)
Tùy bút kháng chiến và hòa bình ( tập I năm 1955, tập II năm 1956)
Sông Đà (tùy bút,1960)
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (tùy bút, 1972)
Kí (1976)
Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978)
Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981, tập II: 1982).
1.3. Quan niệm nghệ thuật của nhà văn
Quan điểm nghệ thuật luôn là cái cốt yếu chi phối trong toàn bộ sáng tác của
nhà văn. Bởi lẽ, nó không chỉ là vấn đề thể hiện ở tác phẩm mà còn là cái tâm của
người sáng tác.Với nhà văn, một tác phẩm hay thực sự không phải chỉ có đặc sắc về
nội dung là đủ mà bên cạnh đó, hình thức nghệ thuật còn đóng một vai trò vô cùng
quan trọng là tiêu chí nâng cao giá trị của một tác phẩm, nó cũng là một trong những
yếu tố có thể làm rung động được tâm hồn người đọc. Nguyễn Tuân cũng vậy, ông
luôn đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ ở đời. Có thể tìm thấy ở ông cái định nghĩa về
người nghệ sĩ trọn vẹn nhất, đó là khi Nguyễn Tuân xem việc viết văn như là một nghề
lao động chân chính và thật sự khổ hạnh. Ông viết nghiêm túc và chân thành cả khi ở
đỉnh cao nghệ thuật. Mỗi khi cầm bút, Nguyễn Tuân luôn đặt ra yêu cầu phải chứng tỏ
được cái tài năng tài hoa uyên bác của mình, phải luôn nhìn nhận sự vật ở mặt “mĩ
thuật” của nó để tìm ra nét đặc sắc trong mỗi trang văn. Nguyễn Tuân thể hiện quan
niệm nghệ thuật của mình qua miêu tả những con người và vẻ đẹp tài hoa trong sự
thống nhất. Từ nhân vật đến đề tài, Nguyễn Tuân luôn mang hết bất ngờ này đến những
thú vị khác. Đó là Huấn Cao một người tử tù ngông nghênh không sợ trời đất, thế
nhưng ông lại sở hữu một bàn tay tài hoa viết chữ rất đẹp, đẹp từ nét chữ vuông vắn
đến dáng người tài hoa khi cho chữ, hoặc Bát Lê một tên đao phủ chém đầu người phút
chốc hóa thành nghệ sĩ ở kĩ nghệ “chém rất ngọt”, hay khi miêu tả về Lí Văn, tay ném
bút chì tài ba, chỉ trong gang tấc giết chết con gà rất gọn gàng,…. Những nhân vật
trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân luôn là những con người tài hoa mang đầy nét đẹp
nghệ thuật.
15
Nguyễn Tuân, nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ. Ông quan niệm cuộc đời là một
hành trình đi tìm cái đẹp. Thật vậy, với Chữ người tử tù, người đọc không thể nhìn
nhận ở phương diện cái ác mà nghiêng về sự tài hoa yêu chuộng cái đẹp nghệ thuật. Là
cụ Kép trong Hương Cội, người đại diện cho những giá trị cao đẹp và thanh tao trong
văn hóa dân tộc. Cụ Kép thường nói với lớp người bạn cũ của mình “có một vườn hoa
là một việc dễ dàng, nhưng đủ thời gian chăm sóc hoa mới là việc khó” [4; tr. 89]. Phải
chăng ông cụ muốn nói rằng có được cái đẹp là một việc dễ nhưng để giữ gìn và phát
huy cái đẹp mới là khó, đó là sự công phu tạo nên sự thành tâm đối với cái đẹp. Cũng
như trong văn chương Nguyễn Tuân cho rằng, có được một tác phẩm là chuyện dễ
nhưng để có thể trở thành một án văn hay thì cũng cần lắm sự công phu và khéo léo
của người viết về cả nội dung lẫn hình thức, hay nói cách khác tác phẩm chỉ trọn vẹn
về nội dung không thiên về hình thức thì nó khó có thể trở thành một hình tượng nghệ
thuật.
Theo Nguyễn Tuân, nghệ thuật phải có sự phối hợp kiến thức ở nhiều lĩnh vực
văn hóa khác nhau. Ông đã vận dụng khéo léo điều này vào trong các sáng tác của
mình, cụ thể là qua hệ thống nhân vật đầy tài hoa. Có thể tìm thấy ở cụ Ấm trong Chén
trà sương, với thú uống trà như một nét đẹp nghệ thuật công phu mang nhiều cá tính
dân tộc, ta cảm tưởng như ở một nước non xa lạ nhưng rất gần gũi. Là cụ Hồ Viễn
trong Ngôi mã cũ, một tướng cờ đen oai phong lẫm liệt một thời giờ là thầy địa lí tài
ba,… Hay đến ông Hai Cử trong Đèn đêm thu, với cái thú vui đốt đèn đêm thu, cách
làm lồng đèn đẹp, cách ứng xử của ông với con cháu mang một nét phản phất trong nếp
sống văn hóa người Việt Nam,... Tất cả đều thể hiện vẻ đẹp trong tâm thức văn hóa dân
tộc. Nguyễn Tuân luôn là người am tường nhiều ngành nghệ thuật, ông quan sát nhìn
nhận sự vật ở nhiều phương diện khác nhau. Ở Chữ người tử tù, về mặt xã hội Huấn
Cao là người tử tù đợi án chém, về nghệ thuật ông lại đóng vai trò sáng tạo nên cái đẹp,
ở mặt chính trị Huấn Cao lại là một vị tướng giỏi, bẻ khóa vượt ngục vô cùng tài ba.
Với truyện ngắn Đánh Thơ, khung cảnh thiên nhiên hiện lên mang nhiều sắc màu
truyền thống, Nguyễn Tuân miêu tả cái tài nghệ vừa đánh thơ và chơi đàn của vợ
chồng Phó Sứ thật chi tiết trong mắt người đọc của người tài tử đích thực,… Những
áng văn hay ấy là cả một quá trình quan sát có tiếp thu những kiến thức từ văn hóa đến
16
đời sống xã hội một cách có khoa học, Nguyễn Tuân đã tập trung đi sâu vào khai thác
vấn đề sáng tác dựa vào việc vận dụng nhiều ngành văn hóa ấy. Bởi ông quan niệm,
nghệ thuật luôn đa dạng và phong phú rất cần cho việc tìm tòi và trau dồi kiến thức cho
bản thân.
Nguyễn Tuân cũng cho rằng sự đơn giản và tẻ nhạt luôn là con đường dẫn đến
sự chấm hết của nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật của ông được hình thành do cái
“ngông” vô cùng độc đáo, đó là lối sáng tác bất chấp nội dung. Với Nguyễn Tuân, đã
ngông thì phải có tài và phải khác người, đã quyết làm một việc nào đó thì phải cho
đến cùng, đã yêu thì phải mê đắm, đã ghét thì phải căm thù, nếu đã tìm hiểu thì phải
tìm cho đến ngọn nguồn gốc rễ. Đây chính là nét cá tính không gì thay đổi được trong
con người ông.
Quan niệm nghệ thuật ấy của Nguyễn Tuân còn mang tính phức tạp và đầy mâu
thuẫn. Đó là khi nhà văn chỉ trọng cái đẹp hình thức nhưng mọi tiêu chí trong sáng tác
lại không xuất phát từ cái hình thức. Khi ông viết về Huấn cao trong Chữ người tử tù,
một hình ảnh đẹp về người anh hùng nhưng đây không phải là duy nhất, nó còn là vẻ
đẹp của thiên lương trong sáng, nhân cách hiên ngang của người tử tù tỏa sáng trong
đêm tối tù ngục, luôn giữ vững lập trường của bản thân không chấp nhận những điều
phi nghĩa và nếu khi cần thì tâm hồn người tử tù ấy lại xao động trước những tấm lòng
đáng quý thanh cao của người cai ngục. Ở Bữa rượu máu cũng vậy, nó không chỉ
miêu tả cái đẹp nghệ thuật chém đầu người, tác phẩm còn cho chúng ta thấy lời phê
phán kín đáo về tội ác man rợ của thực dân Pháp cùng bọn tay sai. Nguyễn Tuân rất tự
nhiên khi miêu tả về chúng, từ quan công sứ Tây đến tên Tổng đốc vui mừng chúc cho
nhau từng tuần rượu trước khi chém đầu nghĩa quân Bãi Sậy. Chính vì thế mà một cơn
lốc dữ dội đã kéo đến đánh bay mũ của tên quan công sứ dưới bãi cỏ pháp trường như
điềm báo trước cho tội ác của chúng.
Trong suốt cuộc đời cầm bút, với Nguyễn Tuân viết văn nhiều khi chỉ để khẳng
định mình. Nguyễn Tuân không quan tâm mình đang làm những gì mà chỉ muốn khẳng
định giá trị ngòi bút của ông có độc đáo hay không nhưng rồi cái quan điểm ấy khiến
nhiều tác phẩm đôi khi bị hạ thấp về giá trị, cái tôi kiêu ngạo trở nên không còn mạnh
mẽ như trước. Sau cách mạng quan niệm của ông có phần thay đổi so với giai đoạn
17
trước, nhà văn thay đổi nhận thức trong sáng tác, đó là quan niệm nghệ thuật vị nhân
sinh. Nguyễn Tuân viết về cuộc sống lao động và cổ vũ tinh thần chiến đấu. Con người
ở giai đoạn này không hiếm nhưng phẩm chất của họ rất đáng quý, họ đại diện cho
những lớp người đang cống hiến mình góp phần xây dựng đất nước. Sự giằng co giữa
chủ nghĩa cá nhân và lòng yêu nước trong Nguyễn Tuân nay đã không còn nữa, mà
thay vào đó là tiếng gọi của con tim đi theo con đường cách mạng sáng ngời. Từ đó sự
nghiệp văn chương luôn song hành và tiến bước cùng nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, cuộc đời Nguyễn Tuân lại mở sang trang mới không còn
trong tư thế đối nghịch. Từ đây Nguyễn Tuân có điều kiện thuận lợi vượt lên trở thành
cây bút tài hoa mang tư tưởng cao đẹp của thời đại mới.
1.4. Vấn đề phong cách nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật là một vấn đề khá phức tạp. Nó là nét riêng có tính hệ
thống trong cá tính sáng tạo của một nhà văn. Phong cách chính là những điểm, những
nét khác biệt trong mỗi nhà văn thiên về hình thức nghệ thuật, có sự thống nhất trong
sáng tác. Và nó còn là dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ in đậm lên tác phẩm từ cách tổ
chức đến xử lí đề tài, xây dựng nhân vật, cách tạo tình huống đến giọng điệu, ngôn từ.
Mỗi nhà văn đều tạo cho mình một phong cách, đó là sự nỗ lực trong sáng tác và khẳng
định cái tôi nghệ thuật độc đáo của mình qua tác phẩm. Đồng thời phong cách nghệ
thuật cũng là một trong những điều kiện khá quan trọng đánh giá vị trí và tài năng nhà
văn. Và phong cách nghệ thuật luôn được nhiều nhà phê bình quan tâm khi nghiên cứu
tác phẩm của một nhà văn.
Với Buffon: “Phong cách là sự biểu hiện hoàn mỹ vào tác phẩm cái nhân cách,
tư tưởng, tình cảm của chủ thể sáng tạo”, [11; tr.84]. Đó là khi nhà văn ấn tượng hay
có một cảm xúc đặc biệt nào đó với vấn đề mà họ đang hướng đến thì sẽ dồn hết mọi
tâm tư của mình vào trong ấy và cố diễn đạt bằng tất cả con người mình, để tạo ra một
sản phẩm văn học mang một dấu ấn riêng và đậm phong cách riêng của người sáng tác
Nhưng với Goeothe ông cho rằng: “Phong cách là sự thống nhất chủ quan và
chủ quan trong sáng tác, khi nhà văn vừa vượt lên trên sự mô phỏng giản đơn đối với
tự nhiên, vừa vượt lên trên cái tác phong, kiểu cách chủ quan của nhà văn”, [11;
tr.84]. Mỗi một nhà văn khi tạo cho mình một nét riêng thì nghệ thuật luôn là điều mà
18
họ rất chú trọng và xem đó như điều cần thiết để trở thành phong cách riêng độc đáo.
Cho nên, phong cách nghệ thuật, nó luôn đòi hỏi một sự thống nhất từ những yếu tố
cấu thành nên tác phẩm đến việc thống nhất trong nội dung và hình thức của nhà văn,
chứ không phải chỉ là sự giản đơn ở bề mặt tác phẩm.
Phong cách nghệ thuật, nó còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi và mang tính thời
sự. Và ở Việt Nam, vấn đề ấy cũng được các nhà phê bình nghiên cứu và tìm hiểu.
Phan Ngọc cũng đã khẳng định: “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ tất cả các lựa
chọn tiêu biểu nhất, hình thành một cách lịch sử và một giá trị lịch sử, có thể cho phép
ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả. Nó chứa đựng
một cái nhìn đối với hiện thực, [11; tr. 83]. Bên cạnh việc thể hiện nét cá tính riêng
trong sáng tác ông cho rằng, mỗi nhà văn khi thể hiện phong cách nghệ thuật của mình
thì luôn cần nhấn mạnh nội dung đang được nói tới, bởi nó là một vấn đề cụ thể mang
đặc trưng riêng nhất định có thể và mô tả được trong một tác phẩm. Khi đến với người
đọc, họ có thể hiểu được nhà văn đang hướng đến một vấn đề nhất định, ở tại một giai
đoạn lịch sử cụ thể. Ví dụ với phong cách nghệ thuật của Kim Lân, ta có thể nhận thấy
những sáng tác của ông là nói về người nông dân ở thời điểm trước 1945. Đó là những
con người cơ cực, luôn bị áp bức mọi điều dưới chế độ xã hội thực dân. Cảm thông
được những bất hạnh cùng cực ấy mà có lẽ phong cách nghệ thuật của Kim Lân luôn
nghiêng về người nông dân nghèo khổ cùng vẻ đẹp về tâm hồn của họ trước cách
mạng, những con người sống cực nhọc, vất vả nhưng vẫn yêu đời. Cụ thể là ở Vợ nhặt,
một truyện ngắn thấm đẫm tinh thần nhân đạo, đó là một bức tranh cuộc sống nghèo
khổ cơ cực đồng thời cũng là cái khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân
Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó, Kim Lân đã khái quát được tiếng nói chung
của người nông dân trong thời chiến và những ước mong giản dị của họ.
Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong
cách có viết: “Tôi hiểu phong cách nghệ thuật là một khái niệm thuộc phạm trù thẩm
mỹ. Có nghĩa là, nhà văn phải thật sự có tài năng, phải thật sự sáng tạo ra được những
tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao mới được xem là nhà văn có phong cách”, [3; tr. 8].
Ở đây, phải chăng ông muốn nói rằng mỗi nhà văn để tạo cho mình một dấu ấn phong
cách riêng và để khẳng định cá tính trong sáng tác, thì họ cần có một sự biến tấu linh
19
hoạt đầy sáng tạo, đổi mới về phương thức viết, đưa người đọc đến nhiều bất ngờ mới
để không có sự nhàm chán nhưng phải luôn có sự thống nhất và kết hợp chặt chẽ cả nội
dung lẫn hình thức. Nhận xét ấy thật đúng, mỗi nhà văn để tạo được phong cách trong
sáng tác thì họ luôn phải nỗ lực hết mình, xây dựng nên cá tính riêng, một tài năng
riêng để có thể tạo ra những sản phẩm nghệ thuật cao mang đậm dấu ấn cá nhân của
họ.
Phong cách là một dấu hiệu độc đáo, không lặp lại và đánh dấu phẩm chất thẩm
mỹ riêng biệt. Đó là khi nhà văn biết khai thác và vận dụng tốt các đặc tính thẩm mĩ
vào sáng tác, đem đến sự thật mới mẻ cho trang văn của mình, phản ánh chân thực
những tình tiết trong truyện cùng tính cách nhân vật qua bức tranh cuộc sống mang một
nét riêng có sức thu hút mạnh mẽ, không để lẫn mình với một nhà văn nào khác.
Nguyễn Tuân là mẫu nhà văn tiêu biểu cho điều này, ông là một người có cá tính độc
đáo, kèm theo sự tài hoa uyên bác, có cảm quan sắc nhọn phong phú, giàu có về ngôn
từ, nét cá tính sáng tác không hề lặp lại ở bất kì một nhà văn nào khác. Thật vậy, mỗi
tác phẩm của Nguyễn Tuân đến với người đọc luôn là sự mới lạ và đậm chất phong
cách nghệ thuật, từ cách dùng từ, đặt câu đến sự liên tưởng và vận dụng nhiều ngành
kiến thức văn hóa khác nhau, sự lồng ghép giữa cổ kính và hiện đại…
Phong cách là phẩm chất của một chỉnh thể, nó đòi hỏi sự thống nhất trong một
tác phẩm, đó là việc thống nhất trong hình thức và nội dung. Hình thức ở đây bao gồm
kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu còn nội dung chính là vấn đề nhà văn đang
hướng tới và khai thác. Cả hình thức lẫn nội dung phải được thể hiện rõ ràng, chặt chẽ
và trọn vẹn, biến tác phẩm thành một thể thống nhất. Liên kết giữa các yếu tố trong các
bộ phận của tác phẩm như mọi hoàn cảnh sống, tự nhiên, gia đình, xã hội...
Phong cách là phẩm chất tương đối ổn định trong sáng tác, các đặc điểm của nó
được lặp đi lặp lại thường xuyên và ít khi thay đổi. Như ở phong cách Tố Hữu, nó
mang tính chất thơ trữ tình chính trị sâu sắc, đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn,
giọng thơ của Tố Hữu luôn chan hòa và tha thiết, đậm đà tính dân tộc. Cụ thể, ta thấy
qua hơn năm tập thơ kể từ tập thơ đầu tay “Từ ấy”, cảm hứng và giọng điệu trang thơ
Tố Hữu vẫn giữ một màu sắc chính trị đầm ấm, thiết tha. Thậm chí, đến cả hai thập thơ
20
- Xem thêm -