Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phong cách nghệ thuật nguyễn huy tưởng...

Tài liệu Phong cách nghệ thuật nguyễn huy tưởng

.PDF
185
604
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN HUY PHÒNG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN HUY TƯỞNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN HUY PHÒNG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN HUY TƯỞNG Chuyên ngành: Lý luận Văn học Mã số: 62 22 32 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS Phạm Thành Hưng 2. TS. Nguyễn Văn Nam Hà Nội - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, khách quan, khoa học và chưa được công bố trong công trình của các tác giả khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Huy Phòng NguyÔn Huy Phßng MỤC LỤC 1. Lý do chọn đề tài 1 1 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3. Mục đích nghiên cứu 2 3 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Đóng góp mới của luận án 6. Cấu trúc luận án 3 4 5 MỞ ĐẦU Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Một số vấn đề về phong cách và phong cách cá nhân nhà văn 1.1.1. Một số quan niệm về phong cách 1.1.2. Về vấn đề phong cách cá nhân nhà văn 1.1.3. Tình hình nghiên cứu, ứng dụng lý thuyết phong cách ở Việt Nam 1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 1.2.2. Tình hình nghiên cứu, tiếp nhận sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ở Trung Quốc 1.2.3. Những vấn đề đặt ra qua khảo sát tình hình nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng 6 6 6 12 19 24 24 32 35 Chương 2 HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ QUAN NIỆM CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG VỀ NGHỆ THUẬT 40 2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan và quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng 2.1.1. Gia đình, quê hương và thời đại 2.1.2. Con người Nguyễn Huy Tưởng 2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng 2.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 2.2.2. Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 2.3. Quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng về nghệ thuật 2.3.1. Về thiên chức cao cả của người nghệ sĩ 2.3.2. Về văn chương và tiêu chuẩn của cái đẹp 40 40 43 46 46 51 56 56 60 2.3.3. Về đặc trưng của thơ và tiểu thuyết lịch sử 64 Chương 3 NÉT TINH TẾ, TÀI HOA CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG TRONG KHÁM PHÁ ĐỜI SỐNG LỊCH SỬ - VĂN HÓA 70 3.1. Vùng hiện thực thẩm mĩ đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng 3.1.1. Cảm thức về truyền thống lịch sử dân tộc 3.1.2. Cảm thức về âm hưởng hào hùng của các cuộc chiến tranh cách mạng 3.1.3. Cảm thức về vẻ đẹp của Thăng Long - Hà Nội 3.2. Các kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng 3.2.1. Kiểu nhân vật Quân vương, tướng sĩ 3.2.2. Kiểu nhân vật kẻ sĩ Thăng Long 3.2.3. Kiểu nhân vật người phụ nữ 71 72 78 88 96 97 101 105 Chương 4 NHỮNG SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG TRONG PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN 115 4.1. Những sáng tạo trong nghệ thuật nghệ hư cấu về đề tài lịch sử 4.2. Dấu ấn sáng tạo trong sử dụng ngôn từ 4.3. Những đặc điểm nổi bật trong việc tạo âm hưởng, giọng điệu 4.4. Sự kết hợp hài hòa lối kết cấu cổ điển và hiện đại 4.5. Những tín hiệu không gian - thời gian nghệ thuật tiêu biểu 115 126 142 151 157 KẾT LUẬN 166 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO 169 170 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Sự vận động, phát triển của một nền văn học được đánh dấu bằng sự xuất hiện, định hình của các tài năng văn học, các phong cách nghệ thuật độc đáo. Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu từng khẳng định, khi một “phong cách lớn ra đời, đó là một thời kỳ mới của văn học trong quá trình lịch sử” [59, tr.62], vì thế việc nghiên cứu sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn lý thuyết phong cách là hướng nghiên cứu cần thiết, có tính thời sự để nhận diện, khẳng định những nỗ lực sáng tạo của người nghệ sĩ trong việc tạo ra lối viết, phong cách riêng không lẫn với các cây bút cùng thời. Đồng thời qua việc nghiên cứu phong cách tác giả sẽ thấy được sự phong phú, đa dạng của đời sống văn chương, thấy được những dấu ấn của cả một giai đoạn, thời kỳ lịch sử. Trong đời sống phê bình văn học hiện nay có sự xuất hiện của nhiều trường phái, lý thuyết phê bình như: tự sự học, thông diễn học, văn hóa học, phê bình nữ quyền, hậu thực dân… nhằm đem đến cho người đọc những cảm nhận mới về các hiện tượng văn chương. Tuy nhiên để thấy được sự khác biệt, nổi bật trong cảm hứng, quan điểm sáng tác đến phương thức, bút pháp nghệ thuật của nhà văn thì lối nghiên cứu, phê bình theo phong cách vẫn là hướng nghiên cứu phù hợp, có tính thực tiễn cần được vận dụng để thấy được vẻ đẹp, sự khác lạ của những tác phẩm văn chương, cũng như sự sáng tạo, đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của văn học dân tộc. 1.2. Nhắc đến văn học Việt Nam thế kỷ XX không thể không nhắc tới những gương mặt tiêu biểu với phong cách độc đáo như Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Thạch Lam…, và đặc biệt phải kể tới những sáng tác ấn tượng mang phong cách riêng của Nguyễn Huy Tưởng. Xuất hiện trên văn đàn muộn so với sự thành công của những bạn văn cùng thời, nhưng với những bước tiến chậm mà chắc chắn, đĩnh đạc của một cây bút luôn nỗ lực vươn lên với niềm khát khao mãnh liệt mượn văn chương để tỏ lòng yêu nước, “tô điểm cho non sông những tòa đài hoa lệ lộng lẫy nhất trần gian” (kịch Vũ Như Tô), đã thôi thúc và giúp Nguyễn Huy Tưởng có được những tác phẩm xuất sắc với lối viết tài hoa. Bao trùm lên sáng tác của nhà văn là âm hưởng sử 1 thi hùng tráng quyện hòa trong chất men say của lãng mạn, trữ tình với niềm cảm thức khôn nguôi về lịch sử dân tộc trong quá khứ, hiện tại với lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng. 1.3. Tính từ tác phẩm đầu tay Vũ Như Tô đến cuốn tiểu thuyết cuối đời Sống mãi với Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng đã tạo ra một hành trình văn chương phong phú, đặc sắc. Trên nền cảm hứng về đề tài lịch sử dân tộc, nhà văn đã có những hư cấu, sáng tạo độc đáo mà cho đến nay những vấn đề đặt ra trong sáng tác của nhà văn như: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống; nghệ thuật với cường quyền; trách nhiệm của nhà văn với cuộc đời, với nghệ thuật; bút pháp hư cấu, sáng tạo về đề tài lịch sử…vẫn thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và công chúng bạn đọc. 1.4. Không chỉ là nhà văn lớn, Nguyễn Huy Tưởng còn là người nặng tình với với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là một đề tài lớn luôn gây được sự quan tâm, chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình. Đã có nhiều công trình khoa học, nhiều hội thảo được tổ chức, giới thiệu về cuộc đời, văn nghiệp Nguyễn Huy Tưởng ở nhiều phương diện, góc nhìn với những tìm tòi, phát hiện thú vị, nhưng tiếp cận sáng tác của nhà văn dưới ánh sáng của lý thuyết phong cách thì vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được nhìn nhận một cách toàn diện, bao quát, có hệ thống. Vì thế, nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng là công việc cần thiết để nhận chân và khẳng định dấu ấn sáng tạo, tài năng văn chương và những đóng góp to lớn của nhà văn đối với sự phát triển văn hóa, văn học nước nhà. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của một tác giả, chúng tôi quan tâm đến dấu ấn sáng tạo và những tín hiệu nghệ thuật đặc sắc mang tính ổn định được thể hiện trong toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn. Đồng thời có sự đối sánh với các tác giả cùng thời và sau này để thấy được những sáng tạo riêng của nhà văn đó. Phong cách nghệ thuật nhà văn thể hiện qua quan niệm sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu, đỉnh cao. Nguyễn Huy Tưởng sáng tác trên nhiều thể loại, trong phạm vi của luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu vào bốn thể loại với những tác phẩm mà theo chúng tôi, chúng chứa đựng văn phong, cốt cách con người Nguyễn Huy Tưởng: Tiểu thuyết (Đêm hội Long 2 Trì, An Tư, Sống mãi với Thủ đô); Kịch (Vũ Như Tô, Bắc Sơn, Những người ở lại, Luỹ hoa - kịch bản phim); Truyện thiếu nhi (Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Tìm mẹ, An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang Trung) và toàn bộ Nhật ký của nhà văn. 3. Mục đích nghiên cứu Luận án tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận về phong cách trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là vấn đề phong cách tác giả. Đồng thời ứng dụng lý thuyết của loại hình phê bình này để tìm hiểu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng. Đó là những nét độc đáo, nổi bật trong quan niệm của nhà văn về nghệ thuật và con người, trong cảm hứng sáng tạo, trong nội dung tư tưởng và bút pháp thể hiện. Từ đó luận án khẳng định vai trò, dấu ấn của phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng đối với sự phát triển của văn chương dân tộc. 4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu phong cách của một tác giả văn học Việt Nam hiện đại, chúng tôi dựa trên phương pháp luận biện chứng, lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin. Phân tích đánh giá tác giả, tác phẩm một cách khách quan, khoa học trong sự đối sánh với các tác phẩm, tác giả khác cùng thời và sau này. Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể làm công cụ cho việc định hướng thẩm bình và chỉ ra những vẻ đẹp trong sáng tác của nhà văn như: - Phương pháp tiếp cận thi pháp học. Vận dụng những lợi thế của thi pháp học, luận án đi sâu khảo sát hệ thống quan niệm của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời; tài nghệ của nhà văn trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, xây dựng kết cấu, nghệ thuật dùng từ, cách bài trí không gian, thời gian nghệ thuật. - Phương pháp nghiên cứu tiểu sử. Phương pháp này được luận án vận dụng trong việc nghiên cứu, tìm hiểu những tác động của ngoại cảnh như: gia đình, quê hương, thời đại và các mối quan hệ của người nghệ sĩ đến việc hình thành cảm quan sáng tác, cách lựa chọn đề tài, nhân vật của nhà văn. - Phương pháp so sánh. Qua so sánh đối chiếu sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng với sáng tác của các nhà văn khác cùng viết về đề tài lịch sử, luận án sẽ 3 chỉ ra những nét riêng, độc đáo, những đóng góp to lớn của Nguyễn Huy Tưởng đối với văn chương dân tộc. - Phương pháp thống kê. Phương pháp này giúp chúng tôi khảo sát về mặt ngôn ngữ và tần số xuất hiện của những từ đặc trưng trở đi trở lại nhiều lần trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng, trở thành những tín hiệu nghệ thuật quan trọng để qua đó thấy được nét riêng và sự sáng tạo của nhà văn trong việc sử dụng từ ngữ - một trong những chất liệu đầu tiên làm nên thành công và sức hấp dẫn của tác phẩm. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành. Nguyễn Huy Tưởng không chỉ là nhà văn, ông còn là nhà văn hóa, nhà nghiên cứu lịch sử. Mỗi tác phẩm của ông đều chứa đựng lượng tri thức lớn về lịch sử - văn hóa - văn chương. Vì vậy nghiên cứu con người và sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, chúng tôi kết hợp một số thao tác nghiên cứu của các ngành văn hóa học, lịch sử, ngôn ngữ… để có thể đưa ra những kết luận có sức thuyết phục về sự kết hợp hài hòa những yếu tố văn hóa, văn học, lịch sử trong nhiều sáng tác của nhà văn. 5. Đóng góp mới của luận án Thông qua luận án, chúng tôi muốn đưa ra cái nhìn bao quát về hành trình sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng với những quan niệm tiến bộ của ông về nghệ thuật, con người mà đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng một cách hệ thống dưới góc nhìn lý thuyết phong cách. Luận án khẳng định những giá trị nổi bật, những dấu ấn sáng tạo và đóng góp to lớn của Nguyễn Huy Tưởng đối với dòng văn học viết về lịch sử. Với những nỗ lực sáng tạo cùng tình yêu lịch sử, yêu quê hương, đất nước, Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng được mệnh danh là nhà chép sử bằng văn chương, nhà văn của Hà Nội với những trang viết tài hoa, độc đáo. Qua nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng, luận án sẽ mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo về phong cách nghệ thuật của các tác giả cùng thời, rộng hơn là phong cách thời đại. Những đóng góp mới của luận án hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với những ai quan tâm tìm hiểu di sản văn chương dân tộc, trong đó có những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. 4 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang) và danh mục tài liệu tham khảo (11 trang), cấu trúc luận án gồm có 4 chương như sau: Chương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2 Hành trình sáng tạo và quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng về nghệ thuật Chương 3 Nét tinh tế, tài hoa của Nguyễn Huy Tưởng trong khám phá đời sống lịch sử - văn hóa Chương 4 Những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Huy Tưởng trong phương thức biểu hiện 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Một số vấn đề về phong cách và phong cách cá nhân nhà văn Phong cách học là khoa học nghiên cứu văn chương, một loại hình lý thuyết phê bình ra đời sớm và đạt được nhiều thành tựu trong việc chỉ ra nét độc đáo, riêng biệt và dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ đối với sự phát triển của văn chương dân tộc. Tuy nhiên cho đến nay những vấn đề về phong cách vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau như: cách quan niệm về nội hàm khái niệm phong cách; các bình diện, tiêu chí phê bình theo phong cách học; sự phân định ranh giới giữa phong cách với thi pháp; phong cách học chỉ bao gồm hình thức hay cả phương diện nội dung tác phẩm? liệu có thể xác định được phong cách chung của cả thời đại văn học?… Đó là những vấn đề đến nay vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Vì thế việc xác lập hệ thống khái niệm công cụ với các tiêu chí, bình diện cụ thể là cần thiết để việc nghiên cứu, phê bình văn học theo phong cách đạt hiệu quả. Trong tiểu mục này, luận án sẽ tổng hợp một số ý kiến, quan điểm của các nhà nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước về lý thuyết phong cách, đặc biệt đi sâu tìm hiểu vấn đề phong cách cá nhân nhà văn làm cơ sở lý luận triển khai việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng. 1.1.1. Một số quan niệm về phong cách Thuật ngữ Stylos (Hy Lạp), Stylus (La Mã), Style (Pháp) có nghĩa là phong cách ra đời sớm nhất ở Hy Lạp - La Mã cổ đại với nghĩa ban đầu chỉ nét chữ, bút pháp, rộng hơn là chỉ tình yêu ngôn ngữ, nghệ thuật dùng từ. Với nét nghĩa ban đầu, phong cách được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực ngôn ngữ, điều này được thể hiện rất sớm trong các công trình Thi pháp học, Tu từ học của Aristote, Các quy luật của Xixeron (Marcus Tullius Cicero, 106-43 TCN). Sang thời cận đại, khái niệm phong cách không chỉ được hiểu và vận dụng trong phạm vi hẹp của ngôn ngữ học mà nội hàm khái niệm đã được mở rộng. Phong cách được coi là đặc trưng nghệ thuật của nghệ thuật, một phạm trù thẩm mĩ, một hệ thống nghệ thuật biểu hiện hình thức của tác phẩm. "Phong cách là một phương hướng riêng biệt trong nghệ thuật hình thành ở 6 thời đại nào đó và là một hệ thống xác định của các dấu hiệu nghệ thuật tư tưởng" [103, tr.28]. Cùng với sự phát triển của các khuynh hướng nghiên cứu, phê bình và thực tiễn sáng tác nghệ thuật, tới thời hiện đại, phong cách được coi là một phạm trù thẩm mĩ, một hiện tượng văn học nghệ thuật bao gồm trong đó tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó. Phong cách được nghiên cứu trong mối tương quan với tư tưởng của nhà văn, với thời đại. Bàn về khái niệm, thuật ngữ phong cách có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau được đưa ra nhằm xác định nội hàm, phạm vi, đặc trưng của lĩnh vực nghiên cứu. Nhưng càng nghiên cứu, các nhà khoa học lại càng nhận ra sự đa dạng, phức tạp của đối tượng. Theo L. Dolezel, nhà lý luận ngữ văn của Đại học Toronto, thuật ngữ phong cách là một khái niệm siêu ngôn ngữ của lý thuyết văn chương. Nó chỉ là một khái niệm vay mượn từ ngôn ngữ học, do các nhà ngôn ngữ cố ý đề cao, lợi dụng nó để nhấn mạnh tầm quan trọng của ngữ học trong nghiên cứu và phê bình văn chương. Theo thời gian, khái niệm phong cách càng ngày càng trở nên phức tạp, tổ hợp quá nhiều cách hiểu, thậm chí gây trở ngại cho nghiên cứu phê bình văn học. Đã đến lúc phải trả lại nó cho ngôn ngữ học, xem nó chỉ là phong cách ngôn ngữ là đủ. (xem “Phong cách văn học: Ghi chú ngắn về một khái niệm phức hợp”, tr. 265, Lubomir Dolezel : Studiez ceske literatury a poetiky, Nxb Torst, Praha, 2008). Còn theo nhận định của Khrapchenko thì “hiện đang tồn tại một số lượng rất lớn những định nghĩa khác nhau về phong cách văn học. Những định nghĩa này xoè ra như cái quạt giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử - thẩm mĩ rộng nhất, bao quát và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của những tác phẩm riêng lẻ” [73, tr. 258]. A. Compagnon trong cuốn Bản mệnh của lý thuyết cũng nhận định: “Phong cách học vẫn là một môn bất ổn định do tính đa nghĩa của phong cách, và nhất là của độ căng, của tính thăng bằng mong manh, thậm chí không thể có, vốn đặc trưng cho một quan niệm nằm ngất ngưởng giữa cái riêng và cái chung, cá nhân và đám đông. Phong cách nhất thiết phải có hai phương diện, một phương diện tập thể và một phương diện cá thể, hoặc một phía quay về ngôn ngữ xã hội và một phía quay về ngôn ngữ cá thể.” [14; tr.255]. Và với quan điểm của mình, Khrapchenco khẳng định: “Phong cách là 7 phương pháp biểu đạt cách chiếm lĩnh đời sống bằng hình tượng, là phương pháp thuyết phục và hấp dẫn người đọc.” [73, tr.7] Như vậy, phong cách là thủ pháp, là cách thức, phương tiện nghệ thuật để nhà văn phản ánh hiện thực nhằm tạo ra sự hấp dẫn của tác phẩm đối với bạn đọc. Bên cạnh quan điểm của Khrapchenco về phong cách, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn chương Nga như V.V.Vinogradov, V.Turin, L.Novichenko, V.Jirmunxky… trong các công trình của mình cũng đã đưa ra những quan niệm riêng về phong cách. Theo V.V.Vinogradov: “Phong cách học nghiên cứu sự phát triển của các phong cách cá nhân, chiếm vị trí trung tâm trong phong cách học văn học là những quan sát và nghiên cứu trong lĩnh vực các quy luật hình thành và phát triển của các hệ thống biểu hiện ngôn từ nghệ thuật - đây là những hệ thống có tính chất cá nhân hoặc được cá thể hóa, tức là được hình thành như những cấu trúc cố định và hoàn chỉnh - cả trong lịch sử từng nền văn học dân tộc nói riêng, cả trong lịch sử chung của văn học thế giới (phong cách tác phẩm văn học, phong cách nhà văn, phong cách trường phái văn học…)" [73, tr. 18] Đi sâu vào bình diện ngôn ngữ - một yếu tố quan trọng cấu thành nên phong cách nhà văn, V. Turin lưu ý: "Phong cách đó là ngôn từ được xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng, đó là tác động qua lại thường xuyên giữa những khái niệm và những ý nghĩa nảy sinh trong ngôn từ vốn đặt vào một văn cảnh nghệ thuật” [73, tr. 259]. Còn L.Novichenko thì cho rằng phong cách nghệ thuật gắn liền với cá tính sáng tạo và bị chi phối bởi những tác động của thời đại, cộng đồng: "Phong cách học hiểu theo nghĩa chung nhất là vẻ đặc thù trong những tác phẩm của nhà văn (hoặc của một nhóm nhà văn), vẻ đặc thù này được quy định bởi những quan điểm chung về cuộc sống và thể hiện trong những đặc điểm có tính chất đặc trưng về nội dung và hình thức của những tác phẩm ấy." [73, tr. 261]. Với nhà nghiên cứu V.Jirmunxky, khi nhận định về phong cách của tác phẩm văn học lại nhấn mạnh sự thống nhất của các yếu tố nội dung và những yếu tố tạo hình thức của phong cách: "Phong cách nghệ thuật của nhà văn là sự biểu hiện thế giới quan của anh ta, thế giới quan đó được thể hiện trong những hình tượng bằng các phương tiện ngôn ngữ. Bởi vậy không thể nghiên cứu 8 phong cách nghệ thuật của nhà văn trong tính mục đích chức năng của nó mà tách rời nội dung tư tưởng - hình tượng của tác phẩm. Đồng thời phong cách của tác phẩm văn học không phải là tu từ học: đề tài, hình tượng, bố cục của tác phẩm văn học, nội dung nghệ thuật của nó (nội dung này được thể hiện bằng những phương tiện ngôn ngữ nhưng không giới hạn ở từ ngữ) cũng là những yếu tố quan trọng của của phong cách, và có thể khá quan trọng, bởi vì chúng xác định cả những nguyên tắc nghệ thuật của việc lựa chọn chất liệu từ ngữ, tức là tu từ học hiểu theo nghĩa hẹp của từ đó" [73, tr. 260]. Bên cạnh những thành tựu lý luận của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học Nga bàn về phong cách, các nhà nghiên cứu văn học Pháp, Mỹ như: A. Compagnon, G.Flaubert, R. Barthes, R. Jakovson, C. Lévi - Strauss, M. Riffaterre… bằng những kiến giải từ hệ hình cấu trúc, ngôn ngữ, thi học, cũng đã đưa ra những ý kiến, quan điểm mới về vấn đề tưởng chừng như xưa cũ là phong cách: Nhà văn Pháp G. Flaubert khi bàn về phong cách cho rằng yếu tố quan trọng làm nên phong cách là ở quan điểm của người nghệ sĩ: “Phong cách đối với nhà văn cũng như màu sắc đối với họa sĩ là một vấn đề không thuộc về kỹ thuật mà về quan điểm.” [14; tr. 250] Còn trong công trình Độ không của lối viết, nhà nghiên cứu R. Barthes bằng việc khảo sát, so sánh giữa ngôn ngữ và phong cách đã khẳng định: “Phong cách là sự lựa chọn tổng quát một giọng, một éthos (văn thể)” [14; tr. 257] Với A. Compagnon, nhìn vấn đề từ bản thể lý thuyết, ông cho rằng: “Phong cách, về bản chất đó là sự phóng tứ của thi pháp, là khoảng cách trong quan hệ với lối sử dựng được coi là thông thường của ngôn ngữ” [14; tr. 266]. “Phong cách giống như một chữ kí cũng có thể áp dụng cho cá nhân cũng như trào lưu hoặc trường phái, và cho xã hội; ở mỗi một cấp độ, nó cho phép ta giải quyết những vấn đề quy kết thuộc tính. Đó là một vẻ riêng của gia đình mà chúng ta có thể nhận ra ngay khi chúng ta không có khả năng miêu tả nó, tách bạch hoặc phân tích nó.” [14; tr. 278] Qua thống kê, khảo sát những ý kiến, quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trước, A. Compagnon đã đưa ra ba tiêu chí mang tính thuyết phục để nhận diện phong cách, và ông khẳng định những 9 phương diện, tiêu chí này chưa bao giờ thực sự bị thủ tiêu. Phong cách vẫn sống: - “Phong cách là một biến hóa hình thức trên một nội dung ổn định (ít hoặc nhiều) - Phong cách là một tập hợp những nét đặc trưng của một tác phẩm cho phép qua đó nhận dạng và nhận ra tác giả (trực giác hơn là phân tích) - Phong cách là một sự lựa chọn giữa nhiều lối viết.” [14; tr.285] Tuy còn có những điểm khác biệt trong quan niệm, cách giải thích, định nghĩa về phong cách cũng như việc xác định, quy chiếu những yếu tố làm nên phong cách nghệ thuật tác giả, tác phẩm, thể loại, thời đại… nhưng điểm gặp gỡ trong quan điểm của các nhà nghiên cứu phương Tây là họ nhấn mạnh đến khía cạnh sáng tạo, những nét riêng biệt, độc đáo của người nghệ sĩ sẽ góp phần tạo nên phong cách. Và phong cách được thể hiện trong toàn bộ hành trình sáng tạo, trong nội dung tư tưởng tác phẩm và phương thức biểu hiện. Ở các nước phương Đông, đặc biệt là Trung Hoa, thuật ngữ phong cách tuy xuất hiện muộn nhưng trong các công trình bàn về thơ của Lưu Hiệp (Văn tâm điêu long), Viên Mai (Tùy viên thi thoại)… khái niệm văn khí, khí chất, văn như kỳ nhân đã được các nhà phê bình sử dụng nhiều trong các bài viết khi bàn về đặc tính của thơ, coi đó là yếu tố cơ bản để phân biệt giọng văn, khí chất giữa nhà thơ này với nhà thơ khác. Bàn về quy luật và yêu cầu sáng tạo thi ca, Viên Mai nhấn mạnh đến dấu ấn cá nhân của thi sĩ: “Thơ có người mà không có ta là bù nhìn vậy… Làm thơ cũng như các huyện ở Giang Nam nấu rượu đều lấy gạo làm nguyên liệu mà vẫn nấu thành các vị riêng. Người sành rượu nếm khắp và nói đây là rượu Nam Kinh này, còn đây là rượu Tô Châu này… Cái ngon giống nhau mà vị khác nhau là vì mỗi nơi đều có cách nấu khác nhau.” [96, tr.134]. Như vậy, tuy không trực tiếp bàn về vấn đề phong cách nhưng qua cách lý giải của Viên Mai về năng lực, tài nghệ sáng tạo của người nghệ sĩ trong việc tạo ra những nét riêng, độc đáo ở mỗi tác phẩm, ta thấy từ rất sớm những yêu cầu về sự độc đáo, khác lạ, không lặp lại trong sáng tạo văn chương là quy luật, yêu cầu bắt buộc đối với mỗi nghệ sĩ. Và để có được “khí chất” riêng, ngoài những yếu tố thiên bẩm, cá tính sáng tạo, đòi hỏi 10 thi sĩ phải học tập cổ nhân, nỗ lực cố gắng trong lao động nghệ thuật. Lưu Hiệp nói: “Tài năng có cao thấp, khí chất có cứng mềm, học vấn có sâu nông, tập quán có khéo vụng, đều là do bản chất và cũng do sự rèn luyện thêm mà đúc thành. Vì thế mà văn chương có hay có dở, biến hóa vô cùng, vậy nên văn lý sắc hay cùn, không thể vượt khỏi tài năng. Văn khí cứng hay mềm không thể khác với khí chất, sự nghĩa nông sâu không thể trái với học vấn, thể thức tinh hay thô không thể ngược với sự rèn luyện. Mỗi người đều theo cái sự thành tâm của mình, sự khác nhau thật giống như gương mặt của từng người vậy.” [96, tr. 135] Nhấn mạnh khí chất, phong cách của mỗi cá nhân nhưng Lưu Hiệp cũng cho rằng qua những sáng tạo của người nghệ sĩ, người đọc sẽ thấy được bức tranh, gương mặt văn chương của cả thời đại. Như vậy, song hành với quá trình sáng tác của người nghệ sĩ, vấn đề phong cách luôn được đặt ra bởi đó là những nét riêng, những sáng tạo độc đáo làm nên bản sắc của mỗi thi sĩ, văn nhân. Đây cũng là tiêu chí để nhận diện, phân biệt giữa nhà văn này với nhà văn khác, và rộng hơn là giữa văn học của dân tộc này với dân tộc khác. Nhà văn Pháp Voltaire từng khẳng định: “Từ phong cách sáng tác để nhận ra người Ý, người Pháp, người Anh, người Tây Ban Nha cũng rất dễ dàng như qua gương mặt, giọng nói, cử chỉ hành động để nhận ra quốc tịch của họ vậy. Cái mềm mại đẹp ngọt của tiếng Ý đã tự nhiên nhi nhiên thấm vào tư chất của nhà văn Ý. Và tôi cũng thấy đặc điểm của nhà văn Tây Ban Nha thường được đánh dấu bằng ngôn từ hoa lệ, phong cách trang trọng, ưa dùng những ẩn dụ… Muốn thấy rõ được sự khác nhau trong sở thích, hứng thú của các dân tộc lân bang, phải khảo cứu phong cách khác nhau giữa họ.” [96, tr. 136] Ở Việt Nam, trong các cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, 150 thuật ngữ văn học, Từ điển văn học, thuật ngữ phong cách được cắt nghĩa một cách tương đối thống nhất: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.” [132, tr.256] 11 1.1.2. Về vấn đề phong cách cá nhân nhà văn Phong cách cá nhân nhà văn hay phong cách tác giả là một trong những vấn đề quan trọng của phong cách, bởi nhà văn đóng vai trò là chủ thể, là nhân tố quan trọng trong đời sống văn học. Nói như M. Proust: Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập. Và chính sự độc đáo, riêng biệt, mới lạ trong sáng tác của mỗi nhà văn thông qua những tác phẩm cụ thể sẽ góp phần làm nên phong cách nghệ thuật của nhà văn đó. Đồng thời qua phong cách nghệ thuật sẽ cho thấy sự trưởng thành, định hình của một tài năng sáng tạo. Tuy là là một vấn đề quan trọng của phong cách học nhưng những quan niệm, đánh giá, xác định về phong cách cá nhân nhà văn vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng phong cách cá nhân nhà văn gắn liền với tư tưởng, tình cảm của nhà văn đó, người khác thì lại nghiêng về việc xem xét những kỹ thuật biểu hiện ở nội dung và hình thức tác phẩm sẽ cho thấy những sáng tạo riêng làm nên phong cách nhà văn… Ở góc độ nào đó, có thể thấy những ý kiến đó đều đúng nhưng chưa đủ. Trong tiểu mục này, chúng tôi sẽ khảo sát ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn đề này, qua đó xây dựng những tiêu chí, bình diện cụ thể để làm cơ sở tìm hiểu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng. Theo cách hiểu truyền thống, nói đến phong cách là nói đến dấu ấn sáng tạo của cá nhân nhà văn, nó mang tính riêng biệt, cá thể, độc đáo không lặp lại, không tìm thấy trong sáng tác của nhà văn khác. Đồng thời phong cách nhà văn còn thể hiện ở hệ thống các phương tiện biểu đạt, ở hình thức nghệ thuật được xem xét trong tính quy luật và các nguyên tắc hài hòa. Như vậy, phong cách cá nhân nhà văn được thể hiện trong nhiều yếu tố từ cá tính sáng tạo, tài năng, cách nhìn nhận thế giới, con người đến việc lựa chọn đối tượng phản ánh và những dấu ấn sáng tạo trong phương thức biểu hiện… Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các ý kiến, quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi xin được nêu ra hai bình diện cơ bản làm cơ sở lí luận cho việc tìm hiểu dấu ấn sáng tạo và phong cách nghệ thuật của cá nhân nhà văn. Ở bình diện thứ nhất, phong cách cá nhân nhà văn biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ mang tính chất khám phá, phát hiện mới về cuộc sống 12 nhân sinh. Đây là yếu tố thuộc về vấn đề thế giới quan, tư tưởng, lập trường và quan điểm sáng tác của người nghệ sĩ. Tùy thuộc vào khí chất, tính cách và những tác động của môi trường sống (gia đình, quê hương, thời đại), sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa, văn học truyền thống và nước ngoài sẽ chi phối và ảnh hưởng lớn đến cảm quan sáng tác của nhà văn. Khrapchenco có cơ sở khi cho rằng: “Phong cách biểu hiện những đặc điểm của cá tính sáng tạo của nhà văn, sự hoàn chỉnh của nhận thức nhà văn về cuộc sống, của cách nhìn của nhà văn đối với thế giới.” [73, tr. 272] Cùng quan điểm này, nhà văn Đức Goethe cũng nhấn mạnh: Phong cách nằm trong những căn cứ sâu xa của nhận thức, nằm trong chính bản chất của sự vật chừng nào ta có thể xác định nó trong những hình tượng có thể nhìn thấy và sờ thấy được. Còn A. Compagnon thì cho rằng “Phong cách là một cách nhìn độc đáo, là dấu ấn chủ thể trong diễn ngôn.” [14; tr. 250]. Nhưng nhận định trên đã khẳng định, thế gới quan của nhà văn có vai trò, tác động lớn trong việc lựa chọn, phản ánh đối tượng, giúp họ tìm được vùng hiện thực thẩm mỹ để sáng tác. Bàn về vai trò của việc tạo xúc cảm thẩm mỹ trong văn bản ngôn từ, R. Jakovson nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của “người gửi” (addresser) trong việc tạo “mã” (code) văn bản: “Chức năng được gọi là cảm xúc hay biểu cảm vốn tập trung ở người gửi có mục đích thể hiện trực tiếp thái độ của người nói với cái mà anh ta nói đến.” [32; tr. 111] Thế giới quan của người nghệ sĩ còn được thể hiện qua những bài viết mang tính tuyên ngôn, quan điểm, và nhất là được thể hiện qua những sáng tác cụ thể. Thế giới quan sẽ chi phối việc nhà văn tiếp cận, lựa chọn chất liệu, nội dung phản ánh, từ đó thấy được tinh thần, thái độ và trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với những vấn đề mà cuộc sống, xã hội đặt ra. K.A. Fedin từng viết: Cách nhìn nhận cuộc sống chỉ thôi thúc nhà tiểu thuyết chọn tư liệu này chứ không phải tư liệu khác cho tác phẩm của mình. Cùng quan điểm này, Khrapchenco nhấn mạnh thêm: “Trong khi tạo thành một trong những đặc điểm cơ bản của phương pháp tác phẩm, thái độ đối với những hiện tượng của hiện thực được thể hiện ở sự lựa chọn tư liệu, ở các điển hình hóa, ở việc phân bố các nhân vật của tác phẩm… Trong trường hợp này, thái độ đối với đối tượng sáng tác được coi như một yếu tố cấu thành của phong cách.” [73; tr. 298], hay “Cá tính sáng 13 tạo của nhà văn thể hiện trong những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật của nhà văn đó, trước hết nó thể hiện ở sự độc đáo trong cách nhìn của anh ta đối với những hiện tượng của cuộc sống, ở sự độc đáo và ở ý nghĩa của những khái quát mang tính sáng tạo của anh ta.” [73; tr. 221] Như vậy, vai trò của thế giới quan, quan điểm sáng tác sẽ chi phối và tác động lớn đến việc hình thành những đặc điểm riêng trong cách nhìn nhận, khám phá hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ. Những yếu tố này tạo thành nét riêng, độc đáo, tạo cơ sở, tiền đề cho việc hình thành phong cách nghệ thuật. Bên cạnh vai trò của thế giới quan trong sáng tác, một trong những yếu tố có vai trò then chốt, quyết định đến việc tạo ra những tác phẩm lớn phải kể tới là yếu tố tài năng, thiên bẩm của người viết. Bàn về tài năng, cá tính sáng tạo của nhà văn, Turghenev đã nhấn mạnh đến nét riêng, sự sáng tạo độc đáo của mỗi người, cái mà ông đề cao là tiếng nói, giọng điệu riêng biệt: “Cái quan trọng trong tài năng văn học… và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kỳ một tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của mình. Đúng thế, cái quan trọng là tiếng nói của mình, cái quan trọng là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác… Muốn nói được như vậy và muốn có được cái giọng ấy thì phải có cái cổ họng được cấu tạo một cách đặc biệt, giống như của loài chim vậy. Đó chính là đặc điểm phân biệt chủ yếu của tài năng văn học.” [73; tr. 220] Cùng quan điểm này, nhà văn Ácmêni Đerenik Đemirchian cũng cho rằng với mỗi tài năng sáng tạo phải tạo ra được “tiếng nói của mình”, “cái của riêng mình” bởi đó là những yếu tố làm nên sự hấp dẫn, thích thú cho người đọc: Trong mỗi người tàng trữ quá nhiều khoáng liệu, chất liệu của mình. Do đó cần phải rút ra, cần phải khai thác cái chất liệu đó chứ không nên sử dụng những thứ do những người khác đã làm ra trước anh. Cái của riêng mình dù nó là nhỏ bé nhưng là của riêng mình - đó chính là cái có giá trị lớn trong văn học và đem lại sự thích thú cho văn học… Việc khẳng định những cái riêng, những cái chỉ có ở nhà văn này mà không có ở nhà văn khác là những biểu hiện của cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật nhà văn. “Cá tính sáng tạo của nhà văn thể hiện trong những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật của nhà văn đó, trước hết nó 14 thể hiện ở sự độc đáo trong cách nhìn của anh ta đối với những hiện tượng của cuộc sống, ở sự độc đáo và ở ý nghĩa của những khái quát mang tính sáng tạo của anh ta.” [73, tr. 221] Nhấn mạnh đến phương diện nội dung phản ánh sẽ quyết định lớn đến việc định hình phong cách nhà văn, G. Flaubert cũng cho rằng: Một tác phẩm viết tốt không bao giờ làm cho người ta mệt mỏi, phong cách - đó là cuộc sống. Đó là máu của chính tư tưởng. Ở bình diện thứ hai, khi nói về phong cách cá nhân nhà văn, không thể không quan tâm đến vai trò, tài nghệ của người nghệ sĩ đối với việc tổ chức kết cấu tác phẩm; cách lựa chọn, xử lý tư liệu; vấn đề tạo giọng điệu, sử dụng ngôn ngữ, thể loại - những yếu tố thuộc phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm, thiên về kỹ thuật, lối viết và phương thức biểu hiện. Đây là những yếu tố quan trọng, là tín hiệu nghệ thuật để người nghiên cứu có thể gọi tên phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Bàn về vai trò của việc tổ chức, sắp xếp tư liệu của người nghệ sĩ, Khrapchenco cho rằng: “Phong cách không chỉ được hình thành dưới tác động của đối tượng sáng tác, của tư liệu hiện thực mà còn tích cực tổ chức nên tư liệu đó.” [73, tr. 282] và ông khẳng định, đặc điểm của người nghệ sĩ điêu luyện là biết sắp xếp, tổ chức tư liệu, biết tách cái chủ yếu ra khỏi cái ngẫu nhiên, biết khắc phục sự chống đối của tư liệu. Cùng với tư tưởng chung, phong cách cũng có sứ mệnh kết hợp lại thành một chỉnh thể năng động những yếu tố không thuần nhất có trong tư liệu của cuộc sống, trong đối tượng sáng tác. Ở phương diện khác, bên cạnh việc lựa chọn, xử lý tư liệu thì cách thức tổ chức, kết cấu tác phẩm, cốt truyện, không gian - thời gian cũng là những yếu tố hợp thành phong cách cá nhân nhà văn. “Tính xác định về chất của phong cách cá nhân biểu hiện rõ trong những thủ pháp và những phương thức kết cấu các tác phẩm văn học, trong cách cấu tạo chúng. Cách cấu tạo - xét trên phương diện vai trò chức năng của nó trong hệ thống phong cách - có thể được xác định như là sự tổ chức không gian và thời gian trong văn tự sự và trong kịch một cách hợp lý và hữu hiệu nhất theo quan điểm của những nguyên tắc thẩm mỹ cơ bản mà nhà văn làm kim chỉ nam.” [73, tr. 303] 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan