Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính lý luận và thực tiễn...

Tài liệu Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính lý luận và thực tiễn

.PDF
103
260
67

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH  LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT Khóa 2010 – 2014 Tên đề tài: PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: ThS. Diệp Thành Nguyên Nguyễn Thị Thúy Hằng Bộ Môn Luật Hành Chính MSSV: 5105861 Lớp: Luật Hành Chính K36 Cần Thơ, tháng 8 năm 2013 LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian học tập tại trường, tác giả đã tiếp thu được nhiều kiến thức hữu ích, đó là nguồn kiến thức quý báu, là nền tảng vững chắc cho tương lai. Quá trình nghiên cứu đề tài "Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính - lý luận và thực tiễn", tác giả đã gặp không ít khó khăn nhưng với sự giúp đỡ nhiệt tình của quý Thầy cô và các bạn đã giúp tác giả vượt qua khó khăn và hoàn thành công trình nghiên cứu của mình. Có được thành quả như ngày hôm nay là nhờ vào sự tận tụy, nhiệt tình truyền đạt kiến thức của quý Thầy cô Khoa Luật, sự cố gắng phấn đấu của tác giả và sự quan tâm, lo lắng của gia đình. Để đáp lại tấm chân tình ấy, tác giả trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến: Ban Giám Hiệu trường Đại học Cần Thơ, quý Thầy cô Khoa Luật đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả trong học tập và hoàn thành luận văn. Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên - người thầy kính mến, Người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt thời gian học tập và làm luận văn tốt nghiệp. Các cô chú, các anh chị trong Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng - những người đã hết lòng giúp đỡ cho tác giả trong việc thực tập. Với lòng kính trọng tác giả xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy cô trong hội đồng phản biện đã có những nhận xét quý báu. Xin gửi những lời cảm ơn đến tất cả bạn bè - những người luôn động viên tinh thần những lúc tác giả gặp khó khăn. Xin gửi lời tri ân đến ba mẹ, hai em đã luôn ở bên cạnh động viên, an ủi giúp đỡ, những người luôn đồng hành với tác giả trong cuộc sống. Xin trân trọng cảm ơn! Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Thúy Hằng MSSV: 5105861 NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………..……………….1 1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………………….1 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài………………………………………………….2 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài…………………………………...........................2 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài……………………………………………...2 5. Cơ cấu luận văn………………………………………………….........................2 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH…………………………........................................4 1.1. Khái quát chung về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính…………………..4 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản………………………………………………......4 1.1.1.1. Khái niệm về tố tụng hành chính..................................................4 1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của vụ án hành chính..............................8 1.1.1.3. Khái niệm về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính…………….15 1.1.2. Vai trò và vị trí của phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính trong Luật tố tụng hành chính………………………………………………………………………......17 1.2. Điều kiện và thời điểm diễn ra phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính theo quy đinh của pháp luật hiện hành……………………………………………….20 1.2.1. Điều kiện………………………………………………………………..20 1.2.2. Thời điểm diễn ra phiên tòa…………………………………………….22 1.3. Những quy định có liên quan đến thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hành chính……………………………………………………………………………….23 1.3.1. Quyền khởi kiện.......................................................................................23 1.3.2. Phạm vi khởi kiện....................................................................................24 1.3.3. Hình thức và cách thức gửi đơn kiện.......................................................25 1.3.4. Thủ tục nhận đơn kiện và trả lại đơn kiện................................................27 1.3.5. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.............................................................29 1.3.6. Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính…………………………………..29 1.3.7. Thụ lý giải quyết vụ án.............................................................................30 CHƯƠNG 2: PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM…………………………………………32 2.1. Những quy định chung về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính…………..32 2.1.1. Chuẩn bị cho việc mở phiên tòa...............................................................32 2.1.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử………………………………………..............34 2.1.3. Những quy định chung về Hội đồng xét xử…………………………….35 2.1.4. Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính…………………………………….36 2.1.5. Những người tham gia phiên tòa……………………………..................37 2.1.6. Trường hợp nguyên đơn vắng mặt trong phiên tòa……………………..38 2.1.7. Trường hợp tạm ngừng phiên tòa…………………………….................39 2.1.8. Trường hợp người có quyền và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa…………………………………………………………………………………..40 2.1.9. Trường hợp bị đơn vắng mặt tại phiên tòa……………………………...41 2.1.10. Xét xử vắng mặt các đương sự………………………………………...41 2.1.11. Sự có mặt của người làm chứng……………………………………….43 2.1.12. Sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa…………………………….44 2.1.13. Thời hạn hoãn phiên tòa và quyết định tạm hoãn phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính………………………………………………………………………….45 2.1.14. Đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính……………...47 2.1.15. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời………………………………………49 2.2. Thủ tục bắt đầu phiên tòa……………………………………………………50 2.2.1. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa……………………………………………50 2.2.2. Khai mạc phiên tòa……………………………………………………...51 2.2.3. Thủ tục hỏi tại phiên tòa………………………………………………...53 2.2.3.1. Hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của đương sự………………………………………………………………53 2.2.3.2. Hỏi đương sự về việc thay đổi địa vị tố tụng…………………..54 2.2.3.3. Thứ tự xét hỏi tại phiên tòa…………………………………….55 2.2.4. Tiến hành xét hỏi tại phiên tòa………………………………….............55 2.2.5. Tranh luận tại phiên tòa ………………………………………………..59 2.2.6. Nghị án và tuyên án…………………………………………………….62 2.2.6.1. Nghị án …………………………………………………………..62 2.2.6.2. Tuyên án ……………………………………………...................64 2.2.7. Kết quả phiên tòa ....................................................................................64 2.3. Thủ tục sau phiên tòa………………………………………………………..67 2.3.1. Sửa chữa, bổ sung bản án…………………….........................................67 2.3.2. Cấp, trích lục bản án, bản án……………………………………………68 2.3.3. Biên bản phiên tòa…………………………………………...................68 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH…………………………………………………………………………….70 3.1. Thực tiễn xét xử vụ án hành chính ở nước ta………………..……………..70 3.1.1. Khái quát chung về tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam………………………………………………………………………………...70 3.1.2. Một số vướng mắc tồn tại trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính………………………………………………………………………………..73 3.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế…………………………….77 3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động xét xử án hành chính trong phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính…………………………………………….82 3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính…………………………………………………………….............................84 3.3.1. Về công tác xây dựng pháp luật……………………………...................84 3.3.2. Về công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật………………..86 3.3.3. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức, đội ngũ cán bộ và Thẩm phán hành chính………………………………………………………………………………..87 3.3.4. Công tác tổng kết thực tiễn xét xử hành chính…………….....................88 3.3.5. Các biện pháp khác……………………………………………………...89 KẾT LUẬN………………………………………………………………..............90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Ngày 28 tháng 10 năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân trong đó có quy định Tòa hành chính được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 7 năm 1996. Trên cơ sở đó, ngày 21 tháng 5 năm 1996, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành "Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính" và Tòa án nhân dân được giao thẩm quyền giải quyết một số khiếu kiện hành chính. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 1996, được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất vào ngày 25 tháng 12 năm 1998 và sửa đổi, bổ sung lần thứ hai vào ngày 05 tháng 4 năm 2006. Như vậy, việc ban hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là một việc cần thiết, kịp thời nhằm bảo vệ quyền tự do dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, đảm bảo cho cơ quan nhà nước giữ được tính dân chủ và pháp chế trong hoạt động của mình. Trong quá trình quản lý, điều hành, cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ, công chức nhà nước đôi khi có những quyết định hoặc những hành vi trái với quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức từ đó làm phát sinh các khiếu kiện hành chính. Vì vậy, việc thực hiện quy trình tố tụng hành chính và các loại chế tài cụ thể trong hoạt động xét xử án hành chính nhằm đảm bảo các quyền dân chủ của công dân, khắc phục được những biểu hiện lạm quyền, góp phần ngăn chặn tệ nạn quan liêu, tham nhũng và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Trên thực tế, việc thi hành các bản án hành chính vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn mà Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính lại không đáp ứng được yêu cầu này, Pháp lệnh cũng không quy định cụ thể cơ chế để thi hành các phán quyết của Tòa án, vì vậy tại kỳ họp thứ VIII, ngày 24 tháng 11 năm 2011, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật tố tụng hành chính và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Việc ra đời của Luật tố tụng hành chính đã đánh dấu một bước ngoặc mới trong công tác lập pháp, tạo hành lang pháp lý để người dân thực hiện quyền khởi kiện, được quyền yêu cầu Tòa án xem xét tính đúng đắn của các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cá nhân, cơ quan nhà nước. Luật tố tụng hành chính được ban hành GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 1 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn thay thế Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính nhằm tạo ra sự hoàn thiện hơn cho các hoạt động xét xử án hành chính nhưng khi áp dụng vào thực tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Để tìm hiểu rõ hơn về những vướng mắc gặp phải khi áp dụng Luật tố tụng hành chính vào thực tế thông qua việc xét xử án hành chính, tác giả chọn đề tài: "Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính - lý luận và thực tiễn" để làm luận văn tốt nghiệp cho mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Đề tài luận văn hướng tới mục đích làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành về việc diễn ra phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính ở một số Tòa án. Chỉ ra những nguyên nhân và hạn chế trong việc xét xử án hành chính và đề ra giải pháp giúp việc xét xử đạt hiệu quả hơn. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề trước, trong và sau khi diễn ra phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính, điều kiện, căn cứ và thời điểm diễn ra phiên tòa. Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam được quy định cụ thể trong Luật tố tụng hành chính 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác LêNin, những quan điểm của Đảng và Nhà nước, vận dụng những kiến thức chuyên ngành, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ hơn những vấn đề liên quan đến hoạt động xét xử án hành chính. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp: so sánh, phân tích, tổng hợp để hoàn thành việc nghiên cứu của mình. 5. Cơ cấu luận văn: Luận văn gồm: Lời nói đầu, 3 chương, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính. GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 2 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn Chương 2: Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính trong Luật tố tụng hành chính Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn xét xử và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính. GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 3 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH 1.1. Khái quát chung về phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính: 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản: 1.1.1.1. Khái niệm về tố tụng hành chính: Cũng như những ngành Luật tố tụng khác, tố tụng hành chính là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật nước ta, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân, các cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ án hành chính để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức này. Kể từ ngày 01 tháng 7 năm 1996, Tòa hành chính được thành lập và đi vào hoạt động cho đến nay, thì lĩnh vực hành chính vẫn còn là một lĩnh vực khá mới trong hoạt động tư pháp của Việt Nam cả về phương diện lý luận hay thực tiễn và khái niệm tố tụng hành chính lại càng mới mẽ hơn với người dân. Với tâm lý "con kiến kiện củ khoai" nên người dân vẫn còn nhiều lo ngại khi thực hiện việc khiếu kiện hành chính. Vì vậy, thực hiện hoạt động xét xử các vụ án hành chính là một vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc củng cố, tăng cường và hoàn thiện bộ máy nhà nước, đặc biệt là đối với việc đảm bảo, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để tìm hiểu cụ thể hơn về tố tụng hành chính chúng ta cần phải tìm hiểu về hoạt động tài phán nói chung và hoạt động tài phán hành chính nói riêng, bởi nó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tố tụng hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán. Theo nghĩa rộng thì tài phán là quyền lực của Chính phủ trong việc xem xét tính đúng sai của các hoạt động diễn ra trên phạm vi lãnh thổ nhất định. Theo nghĩa hẹp thì thuật ngữ này dùng để chỉ thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, đánh giá và đưa ra các phán quyết đối với vụ việc cụ thể và đối với các đối tượng xác định. Theo khái niệm này thì tài phán được hiểu là các hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án và hoạt động giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính. Tùy vào bản chất, đặc điểm tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong các chế độ chính trị khác nhau mà mỗi nước có quan niệm khác nhau về tài phán hành chính, quan niệm của các quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới cũng không có sự thống nhất. Có thể hiểu khái niệm về tài phán hành chính như sau: GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 4 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn “Tài phán hành chính là hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính giữa cơ quan công quyền với cá nhân, cơ quan, tổ chức, do các cơ quan tài phán của nhà nước thực hiện theo một trình tự thủ tục nhất định được pháp luật quy định”1. Đối với Việt Nam, tài phán hành chính ở nước ta là một vấn đề mới, vừa có những đặc điểm của tài phán hành chính nói chung vừa phản ánh những nét đặc thù phù hợp với bản chất và đặc tính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tài phán hành chính Việt Nam mang những đặc điểm sau 2: Một là, Tài phán hành chính là tổ chức và hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính phát sinh khi có đơn khởi kiện vụ án hành chính giữa cá nhân, cơ quan, tổ chức với cơ quan công quyền. Nghĩa là khi các chủ thể quản lý hành chính thực hiện các hành vi quản lý như ban hành văn bản quản lý hành chính và thực hiện các hành vi hành chính khác, các cơ quan nhà nước hay cán bộ, công chức có thẩm quyền đôi khi sơ suất, do không tuân theo pháp luật hoặc vì những lý do khác có thể xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức do đó bị các chủ thể này phản ứng bằng cách khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét, giải quyết nhằm bảo vệ, phục hồi quyền và lợi ích của mình. Trong trường hợp này, rõ ràng Tòa án có thẩm quyền, có trách nhiệm thụ lý và giải quyết. Hai là, Đối tượng của tài phán hành chính ở nước ta là các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân bị cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức khởi kiện. Ba là, Bên bị kiện trong vụ án hành chính luôn là cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức nhà nước. Đây là điểm đặc thù của tố tụng hành chính xét về mặt chủ thể tham gia quan hệ tố tụng so với các loại tố tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành sự. Bốn là, Cơ quan tài phán hành chính ở nước ta hiện tại là Tòa hành chính thuộc hệ thống Tòa án nhân dân. Theo quy định của pháp luật Việt Nam như Hiến Pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì chỉ có Tòa án nhân dân (Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án Quân sự) là cơ quan xét xử của Nhà nước. Do vậy, 1 Trường Đại học Cần Thơ, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật tố tụng hành chính, Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên biên soạn, tháng 5/2012, trang 07. 2 Trường Đại học Cần Thơ, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật tố tụng hành chính, Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên biên soạn, tháng 5/2012, trang 09. GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 5 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn việc thiết lập các Tòa hành chính trong tòa án nhân dân là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Năm là, Hoạt động tài phán hành chính phải tuân theo trình tự, thủ tục do Luật tố tụng hành chính quy định chứ không phải theo thủ tục của Luật hành chính. Qua các đặc điểm trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩa về khái niệm Tài phán hành chính Việt Nam như sau: "Tài phán hành chính Việt Nam là hoạt động xét xử các vụ án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính và chủ yếu do các Tòa hành chính, các Thẩm phán hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước”3. Ở Việt Nam trước khi Tòa hành chính được thành lập ngày 01 tháng 7 năm 1996 thì vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính đã được quan tâm nhưng chỉ ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng của mô hình hệ thống pháp luật cũng như tư tưởng lập pháp xã hội chủ nghĩa trước đây nên trong thời kì này nước ta chỉ thừa nhận các tranh chấp hành chính như những khiếu nại thông thường, được giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà không được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tòa án. Tại kỳ họp thứ VIII, khóa IX, ngày 28 tháng 10 năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân và chính thức trao quyền xét xử các vụ án hành chính cho Tòa án nhân dân. Theo đó hệ thống Tòa hành chính được thành lập bên cạnh các Tòa chuyên trách khác của Tòa án nhân dân, đây là một bước ngoặc mới, là sự chuyển biến về tư tưởng trong công tác lập pháp, giúp giải quyết các tranh chấp hành chính ở nước ta, là cột mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của ngành Luật hành chính. Việc ra đời của Luật tố tụng hành chính cho thấy chúng ta đã thừa nhận việc giải quyết tranh chấp hành chính bằng thủ tục tố tụng nhưng vẫn còn hạn chế là không thành lập một hệ thống Tòa án hành chính độc lập chuyên xét xử án hành chính mà thành lập các Tòa hành chính với tư cách là tòa chuyên trách thuộc hệ thống Toà án nhân dân. Ngày 01 tháng 7 năm 1996, Tòa hành chính được thiết lập và đi vào hoạt động. Để việc giải quyết các khiếu nại của người dân được kịp thời và đúng pháp luật thì phải 3 Trường Đại học Cần Thơ, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật tố tụng hành chính, Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên biên soạn, tháng 5/2012, trang 11 GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 6 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn tiến hành giải quyết theo một trình tự, thủ tục do Luật tố tụng hành chính quy định. Bên cạnh đó, sau khi đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì việc thi hành bản án, quyết định cũng phải tuân theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Đó là những trình tự thủ tục gọi chung là tố tụng hành chính. Như vậy, trình tự tố tụng hành chính sẽ bắt đầu kể từ khi có quyết định hành chính, hành vi hành chính mà cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình và chúng thuộc đối tượng xét xử của Tòa hành chính thì họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính sau khi đã trải qua giai đoạn đặc biệt của tố tụng hành chính – giai đoạn "tiền tố tụng" – hiện nay, thủ tục này không còn là thủ tục bắt buộc nữa. Việc khởi kiện tại Tòa án phải được lập thành văn bản – đơn kiện, trong đó phải ghi rõ họ tên, địa chỉ người khởi kiện, ngày, tháng, năm làm đơn; họ tên, địa chỉ cơ quan, cán bộ bị kiện; nội dung và lý do khởi kiện; yêu cầu của người khởi kiện và gửi đến Tòa án nhân dân. Sau khi nhận được đơn khởi kiện Tòa án sẽ tiến hành xem xét đơn kiện, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì tiến hành các giai đoạn tiếp theo. Vậy, Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức trong việc giải quyết vụ án hành chính, cũng như trình tự do pháp luật quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính 4. Tố tụng hành chính là việc giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng con đường tố tụng, được giải quyết bởi Tòa hành chính nằm trong hệ thống Tòa án nhân dân theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành Luật tố tụng hành chính. Xét về bản chất, tố tụng hành chính là một phương thức giải quyết các vụ khiếu kiện hành chính, nó tồn tại song song với cơ chế giải quyết các khiếu nại, tố cáo hành chính bằng thủ tục khiếu nại, tố cáo. So với cơ chế giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, tố tụng hành chính có ưu điểm lớn đó là các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan chuyên trách độc lập đó là Tòa hành chính thuộc hệ thống Tòa án nhân dân. Không những thế, thủ tục tố tụng hành chính còn đảm bảo sự bình đẳng giữa công dân với cơ quan công quyền trước Tòa án, đây là một điều không thể có được khi giải quyết theo thủ tục hành chính các khiếu kiện hành 4 Trường Đại học Cần Thơ, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật tố tụng hành chính, Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên biên soạn, tháng 5/2012, trang 12. GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 7 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn chính. Chính vì vậy, đây là một cơ chế hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi những quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan công quyền. 1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm vụ án hành chính: * Khái niệm: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân; bởi thế các quyền tự do cơ bản của người dân được pháp luật quy định một cách đầy đủ và được đảm bảo thực hiện có hiệu quả bằng nhiều biện pháp, điều này được thể hiện trong Hiến Pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại chương V quy định về “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như: Công dân có các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền kiến nghị và các quyền tự do khác. Điều 74, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định”. Điều này có nghĩa là khi hành vi sai trái của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhà nước làm phương hại đến quyền và lợi ích của người dân thì họ có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sẽ được xem xét giải quyết đúng theo quy định của pháp luật trên tinh thần của Hiến Pháp “mọi công dân điều bình đẳng trước pháp luật”5. Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý hành chính thường xuyên ban hành những quyết định hành chính hay có những hành vi hành chính do không tuân theo pháp luật, duy ý chí, sơ suất hay vì bất kỳ lý do nào mà xâm hại đến lợi ích của người dân; khi các xung đột này không được giải quyết một cách thỏa đáng thì bằng cách khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của các quyết định này để đảm bảo quyền và lợi ích của mình sẽ làm phát sinh vụ án hành chính tại Tòa án. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. 5 “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, Điều 52, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, nhà xuất bản chính trị quốc gia. GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 8 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hiện nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào nêu lên khái niệm về vụ án hành chính ngay cả trong Luật tố tụng hành chính 2010, nhưng khi nhắc đến khái niệm vụ án hành chính thì ta có thể hiểu như sau: “Vụ án hành chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính có thẩm quyền do cá nhân, cơ quan nhà nước khởi kiện ra trước Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”6. * Đặc điểm: Để phân biệt vụ án hành chính với vụ án dân sự hay vụ án hình sự ta có thể dựa vào các đặc điểm sau đây: Một là, Vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện và được thụ lý vụ án hành chính của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Theo Điều 5, Luật tố tụng hành chính năm 2010 quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật tố tụng hành chính”. Vụ án hành chính chỉ có thể phát sinh khi có tranh chấp giữa chủ thể và đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Nhà nước trao quyền cho đối tượng quản lý hành chính được khởi kiện vụ án hành chính khi có sự xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên nhân của sự xâm hại này là sự xuất phát từ việc các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền trong các cơ quan này ban hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính không tuân thủ theo quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đó. Nội dung và mức độ gay gắt của việc khởi kiện này phụ thuộc vào nội dung và mức độ xâm hại các quyền, lợi ích từ phía các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Vụ án hành chính xuất phát từ việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho những đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính hay quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Vụ án hành chính phát sinh khi được Tòa án thụ lý: Đặc điểm này cho thấy, vụ án hành chính muốn phát sinh cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy 6 Trường Đại học Cần Thơ, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật tố tụng hành chính, Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên biên soạn, tháng 5/2012, trang 13 GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 9 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn định. Việc quy định cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hành chính không có nghĩa là vụ án hành chính đương nhiên phát sinh khi có đơn khởi kiện vụ án. Có thể xem, đặc điểm thứ nhất là điều kiện cần thiết, đặc điểm này chính là điều kiện đủ của việc phát sinh vụ án hành chính tại Tòa án. Việc thụ lý vụ án hành chính sẽ làm phát sinh trách nhiệm và quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết vụ án hành chính. Bởi lẽ, mỗi cấp Tòa án được giao nhiệm vụ giải quyết những tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình theo quy định pháp luật, nhằm tránh tình trạng tranh chấp thẩm quyền giữa các cấp Tòa án gây cản trở cho quá trình xét xử. Tòa án chỉ có nhiệm vụ giải quyết vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, nếu vụ án đó đã được thụ lý. Việc thụ lý án hành chính không chỉ chính thức làm phát sinh trách nhiệm của Tòa án mà còn có những nhận định ban đầu cần thiết về tình trạng tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình trạng tranh chấp về thẩm quyền có thể xảy ra. Việc thụ lý vụ án còn làm phát sinh những quyền hạn cụ thể của Tòa án trong việc xét xử hành chính. Khi đơn kiện đã được thụ lý thì vụ án hành chính đã phát sinh và vụ án đó phải được giải quyết bằng bản án hay quyết định của Tòa án. Hai là, Đối tượng của vụ án hành chính là các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính. Tranh chấp trong lĩnh vực hành chính là các tranh chấp phát sinh giữa chủ thể quản lý nhà nước với các đối tượng quản lý nhà nước. Nhằm đảm bảo quyền công dân, pháp luật nước ta đã quy định cho phép đối tượng quản lý hành chính nhà nước có quyền được khởi kiện ra tòa nếu nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm hại bởi hoạt động quản lý hành chính nhà nước của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Nói cách khác, khi chủ thể quản lý hành chính nhà nước ban hành quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính mà gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước thì hiển nhiên sẽ gây nên mâu thuẫn giữa hai đối tượng này. Những tranh chấp này nảy sinh từ việc cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành những quyết định hành chính, thực hiện những hành vi hành chính nhằm giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình. Đó là những quyết định hành chính, hành vi hành chính được quy định tại Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và 2006). GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 10 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn Tuy nhiên, hiện nay Luật tố tụng hành chính năm 2010 mở rộng phạm vi đối tượng xét xử vụ án hành chính thông qua quy định về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án tại Điều 28. Điều này nhằm mở rộng thêm quyền khởi kiện cho các cá nhân, tổ chức hơn nữa. Theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án được mở rộng hơn theo phương pháp loại trừ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc xác định quyền khởi kiện vụ án hành chính, đảm bảo sự công bằng cho người dân và đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Nhìn chung, quy định về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Thẩm quyền này bao gồm việc xét xử các khiếu kiện sau: quyết định hành chính, hành vi hành chính trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh 7. Mặc dù có sự thay đổi như thế, nhưng thẩm quyền xét xử vụ án hành chính vẫn là xét xử các tranh chấp hành chính. Việc sửa đổi như trên, đã góp phần hạn chế được những khó khăn khi áp dụng các quy định của Pháp lệnh trong xét xử vụ án hành chính. Thế nhưng, sự thay đổi này vẫn còn một số tồn tại cần được bàn bạc lại. Việc Luật tố tụng hành chính trao cho Chính phủ quyền quy định danh mục các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao không thuộc thẩm quyền xét xử vụ án hành chính là không hợp lí. Vì điều đó sẽ tạo ra khả năng cho Chính phủ - cơ quan thực thi quyền hành pháp hạn chế thẩm quyền xét xử của Tòa án - cơ quan thực thi quyền tư pháp. Luật tố tụng hành chính nên bổ sung thêm quy định về những quyết định hành chính, hành vi hành chính không thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án. Hơn nữa, việc liệt kê các loại đối tượng khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm như trên không những 7 Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ, Đặc san tuyên truyền pháp luật tố tụng hành chính số 12/2011 GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 11 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn làm giảm tính thống nhất giữa các loại đối tượng này mà còn làm phức tạp thêm một khoảng cách không cần thiết các quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Ba là, Hoạt động xét xử vụ án hành chính được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng hành chính quy định. Một trong những đặc điểm cơ bản của nhà nước là hoạt động theo trật tự pháp lý, nghĩa là pháp luật quy định thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước. Trình tự đó còn được gọi là thủ tục thực hiện thẩm quyền. “ Thủ tục là toàn bộ quy tắc và thể thức cần phải tuân theo để hành động về mặt pháp lý trước, trong khi tiến hành một việc cần giải quyết cho tới khi kết thúc, cũng như để hoàn thành những văn bản thực hiện bắt buộc”8. Với cách hiểu như vậy, bất kỳ hoạt động của cơ quan nhà nước nào cũng diễn ra theo một trình tự nối tiếp nhau, trình tự đó được quy định trong hệ thống quy phạm về thủ tục. Qua đó, có thể hiểu thủ tục tố tụng hành chính là một loại thủ tục pháp lý được quy định trong Luật tố tụng hành chính, đó là tổng thể các quy phạm pháp luật tố tụng hành chính được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định về trình tự, trật tự thực hiện thẩm quyền của Tòa hành chính nhằm giải quyết vụ án hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Xuất pháp từ đặc thù của xét xử án hành chính – là xét xử các tranh chấp hành chính giữa các chủ thể quản lý hành chính nhà nước (cá nhân, cơ quan, tổ chức được sử dụng quyền hành pháp) và đối tượng chịu sự quản lý nhà nước (cá nhân, cơ quan, tổ chức phục tùng quyền hành pháp) phát sinh khi có những quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác nên việc giải quyết các tranh chấp này phải được thực hiện theo một trình tự đặc biệt – đó là thủ tục tố tụng hành chính – trình tự xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án. Xét về phương diện lý luận, thủ tục tố tụng hành chính là một dạng cụ thể của thủ tục tư pháp, cho nên thủ tục tố tụng hành chính cũng được xác lập trên cơ sở những nguyên tắc chung của thủ tục tư pháp như: Nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán; Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật; Nguyên tắc xét xử công khai; Các đương sự bình đẳng trong tố tụng hành chính; Các đương sự được quyền tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó, xét xử án hành chính phải được tiến hành theo trình tự thủ tục chặt chẽ do tố tụng hành chính quy định, bao gồm các giai đoạn: 8 Đại từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Văn hóa thông tin, năm 1998, trang 371 GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 12 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn Giai đoạn thụ lý vụ án hành chính là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án. Giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính được tính từ khi thụ lý vụ án hành chính cho đến khi Tòa án ra một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử, tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án. Giai đoạn xét xử án hành chính được tính từ khi có quyết định đưa vụ án hành chính ra xét xử cho đến khi Tòa án thực hiện xong các thủ tục sau phiên tòa. Trong giai đoạn này, Tòa án phải tiến hành các công việc sau: chuẩn bị mở phiên tòa xét xử, tiến hành phiên tòa xét xử, thực hiện thủ tục sau phiên tòa. Bốn là, Hoạt động xét xử án hành chính của Tòa án được thể hiện thông qua việc áp dụng pháp luật để xét xử các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Tòa án là cơ quan xét xử các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính. Thông qua việc được trao thẩm quyền xét xử đó, Tòa án sử dụng quyền tư pháp của mình để xem xét tính hợp pháp hay không hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, các công việc này không phải là việc xem xét theo cảm tính, không có cơ sở pháp lý mà phải tuân theo những nguyên tắc, quy định chặt chẽ của pháp luật. Tòa án phải căn cứ vào các quy định liên quan trong văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề này để lựa chọn áp dụng trực tiếp điều chỉnh các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của chủ thể quản lý nhà nước. Điều này nhằm đảm bảo cho hoạt động xét xử án hành chính bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Đồng thời, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào nhà nước và pháp luật; nâng cao chất lượng hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Năm là, Kết quả của việc xét xử vụ án hành chính là ra phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, được thể hiện trong bản án hành chính. Kết quả xét xử vụ án hành chính sẽ được ghi nhận trong bản án hành chính. Bản án hành chính là kết quả của quá trình giải quyết vụ án hành chính tại phiên tòa ở các cấp xét xử, Tòa án ra bản án để xác định quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị khởi kiện là vi phạm pháp luật hay không; có xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể nào hay không; xác định mức độ thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính gây ra trong thực tế là bao nhiêu; và xác định mức bồi thường mà cơ quan công quyền phải hoàn trả lại cho cá nhân, tổ chức, cơ GVHD: Th.S: Diệp Thành Nguyên 13 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng