Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phép biện chứng duy vật cảm nhận và vận dụng...

Tài liệu Phép biện chứng duy vật cảm nhận và vận dụng

.PDF
16
121
145

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT KHOA SAU ĐẠI HỌC . BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNG Môn học: TRIẾT HỌC Giảng viên: ThS. BÙI LONG DUNG Học viên: PHẠM VĂN ĐẠO Lâm Đồng, tháng 10/2014 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 I. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ............................................................... 1 1.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của phép biện chứng duy vật .................. 1 1.2 Các nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật ................................... 2 1.2.1 Hai nguyên lý cơ bản ............................................................................. 2 1.2.2 Ba quy luật cơ bản ................................................................................. 3 1.2.3 Sáu cặp phạm trù................................................................................... 5 II. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG VẬT LÝ HỌC 10 2.1 Góc nhìn triết học về khoa học vật lý...................................................... 10 2.2 Vận dụng triết học duy vật biện chứng vào vật lý học và những kết quả nghiên cứu khoa học. ................................................................................... 11 III. KẾT LUẬN ............................................................................................ 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 14 MỞ ĐẦU Trong các hoạt động nghiên cứu của con người về các sự vật, hiện tượng, mỗi chúng ta có những phương pháp nghiên cứu khác nhau dựa vào cách nhìn nhận các sự vật hiện tượng dưới nhiều góc độ khác nhau. Mặc dầu quan sát ở hệ quy chiếu nào đi chăng nữa, chúng ta cũng cần nắm bắt được bản chất và nguồn gốc của vấn đề. Đó là điểm chính của bức tranh về các sự vật và hiện tượng, nếu nắm rõ ta có thể đánh giá một cách chính xác về đối tượng mà ta nghiên cứu. Trong thực tế các sự vật và hiện tượng luôn vận động và phát triển không ngừng. Do vậy để nắm bắt được các quy luật, mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, chúng ta cần một học thuyết để dễ dàng nghiên cứu và tiếp cận nó. Học thuyết của Mác – Lênin đã đề cập các vấn đề này thông qua phép biện chứng duy vật. Đến nay, học thuyết này vẫn còn mang tính thời sự, vẫn được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu về tự nhiên, về các hoạt động của xã hội của con người… Trong chuyên đề này, các vấn đề được trình bày là về phép biện chứng duy vật và vận dụng phép biện chứng duy vật vào hoạt động nghiên cứu khoa học vật lý. I. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Triết học được coi là khoa học của mọi khoa học. Trong triết học, tư tưởng quan điểm của triết học Mác – xít đóng vai trò vô cùng quan trọng trong khoa học và đời sống hiện nay. Những tri thức của triết học đang là công cụ tu duy sắc bén và hiệu quả để con người nhận thức và tải tạo thế giới. Một trong những nội dung triết học đó chính là phép biện chứng duy vật. Sau đây là phần khái quát một số nội dung về phép biện chứng duy vật để làm cơ sở cho các phần nghiên cứu tiếp theo. 1.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của phép biện chứng duy vật Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: “Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. Chúng được chia thành hai loại: Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng khách quan là đặc tính vốn có của thế giới (gồm tự nhiên và xã hội). Chúng vận động theo những quy luật khách quan mà không phụ thuộc vào ý thức. Biện chứng chủ quan là đặc tính của tư duy con người. Các khái niệm, phán đoán, tư tưởng trong đầu óc của con người, có liên hệ với nhau theo những quy luật nhất định. Biện chứng chủ quan là phản ánh của biện chứng khách quan. Tuy nhiên, không phải bất cứ tu duy của các cá nhân nào cũng phản ánh đúng biện chứng khách quan, đôi khi còn xuyên tạc, sai lệch biện chứng khách quan. Vì thế, phép biện chứng duy vật là lý luận, là khoa học nghiên cứu cả biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan nhằm đảm bảo tu duy của con người phản ánh đúng biện chứng khách quan. Đặc điểm của phép biện chứng duy vật bao gồm: Thứ nhất, phép biện chứng duy vật được xác lập trên cơ sở thế giới quan duy vật và sự khái quát các thành tựu khoa học. Thứ hai, có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật biện chứng với phương pháp luận biện chứng duy vật, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới. Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung 1 đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn. 1.2 Các nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật Nội dung của phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật cơ bản. 1.2.1 Hai nguyên lý cơ bản - Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Theo quan điểm biện chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau.Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới. Dù chúng có đa dạng, phong phú bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng: liên hệ là phạm trù triết học, dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tính chất của mối liên hệ: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng và phong phú. Các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. - Nguyên lý về sự phát triển Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn. Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật và cũng là quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật. Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Theo quan điểm này, phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động – xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần 2 dần những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng và phong phú. Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển. Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở đó để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người. Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. 1.2.2 Ba quy luật cơ bản Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Trong thế giới tồn tại nhiều loại quy luật, chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm vi bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Do vậy, việc phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người. Nếu căn cứ vào mức độ của tính phổ biến để phân loại thì các quy luật được chia thành: những quy luật riêng, những quy luật chung và những quy luật phổ biến. Những quy luật riêng là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của các sự vật, hiện tượng cùng loại. Thí dụ: những quy luật vận động cơ giới, vận động hóa học, vận động sinh học... Những quy luật chung là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn: quy luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng... Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực: từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến đó. Nếu căn cứ vào lĩnh vực tác động để phân loại thì các quy luật được chia thành ba nhóm lớn: những quy luật tự nhiên, những quy luật xã hội và những quy luật của tư duy. Những quy luật tự nhiên là quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể cả cơ thể con người, không phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Những quy luật xã hội là quy luật hoạt động của chính con người trong các quan hệ xã hội; những quy luật đó không thể nảy sinh và tác động ngoài hoạt động có ý thức của con người, nhưng những quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan. Những quy luật của tư duy là những quy luật thuộc mối liên hệ nội tại của những khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận và của quá tình phát triển nhận thức lý tính ở con người. Với tư cách là một khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong toàn bộ các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Đó là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định. 3  Quy luật chuyển hóa giữa lượng và chất Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng và ngược lại; những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng tại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. - Khái niệm chất, lượng Chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật hiện tượng. Như vậy, tạo thành chất của sự vật, hiện tượng chính là các thuộc tính khách quan vốn có của nó nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật và hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự vật, hiện tượng phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính, trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ bản. Lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Với khái niệm này cho thấy: một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật, hiện tượng đó. Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật, hiện tượng chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng. - Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất là lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kì nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ. Sự vận động biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Tóm lại, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi 4 mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. - Ý nghĩa của phương pháp luận Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng. Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng. Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất sự vật, hiện tượng. Vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng. Vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất. Các quy luật dưới đây xem trong giáo trình [1],  Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập;  Quy luật phủ định của phủ định. 1.2.3 Sáu cặp phạm trù  Cái riêng và cái chung - Khái niệm “cái riêng” và “cái chung” Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với những sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau như: Cái bàn, cái nhà, cái cây cụ thể v.v. Mỗi sự vật đó được gọi là một cái riêng, đồng thời, chúng ta cũng thấy giữa chúng lại có những mặt giống nhau như những cái bàn đều được làm từ gỗ, đều có màu sắc, hình dạng. Mặt giống nhauđó người ta gọi là cái chung của những cái bàn. Vậy cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”. “Cái đơn nhất” là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. 5 - Quan hệ biện chứng giữa “cái riêng” và “cái chung” Trong lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa “cái riêng” và “cái chung”: Phái duy thực cho rằng, “cái riêng” chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có “cái chung” mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. “Cái chung” không phụ thuộc vào “cái riêng”, mà còn sinh ra “cái riêng”. Theo Platôn, cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời. Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định; còn phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng. - Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung Theo quan điểm duy vật biện chứng: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan. Trong đó, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của nó; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng, tức là không tách rời mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì, cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất; còn cái chung là biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng. Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định. Mối quan hệ giữa biện chứng cái riêng và cái chung đã được V.I.Lênin khái quát ngắn gọn: “Như vậy, các mặt đối lập (cái riêng đối lập với cái chung) là đồng nhất: cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là (một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất) của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách địa khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung... Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình)... - Ý nghĩa phương pháp luận Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Không nhận được được cái chung thì trong thực tiễn khi giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể sẽ nhất định vấp phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần phải xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tượng ngoài cái riêng. Mặt khác, cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung để giải quyết mỗi trường hợp cụ thể. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải biết vận dụng các điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung theo những mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định. 6  Nguyên nhân và kết quả - Phạm trù nguyên nhân, kết quả Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định. Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng. - Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, bao hàm tính tất yếu: không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định và ngược lại không có kết quả nào không có nguyên nhân. Nguyên nhân sinh ra kết quả, do vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả và một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên. Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một kết quả có thể diễn ra theo các hướng thuận, nghịch khác nhau và đều có ảnh hưởng đến sự hình thành kết quả, nhưng vị trí, vai trò của chúng là khác nhau: có nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài... Ngược lại, một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả, trong đó có kết quả chính và phụ, cơ bản và không cơ bản, trực tiếp và gián tiếp... Trong sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Ph.Ăngghen viết: “Chúng ta cũng thấy rằng nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định; nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy vẫn gắn với nhau và xoắn xuýt với nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau; cái ở đây hoặc trong lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả, và ngược lại”. - Ý nghĩa phương pháp luận Vì mối liên hệ nhân quả là mối quan hệ có tính khách quan, tất yếu nên trong nhận thức và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân – quả. Trong thực tế thế giới hiện thực không thể tồn tại những sự vật, hiện tượng hay quá trình biến đổi không có nguyên nhân và ngược lại không có nguyên nhân nào không dẫn tới những kết quả nhất định. Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn. Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cách nhìn mang tính toàn diện và lịch sử - cụ thể trong phân tích, giải quyết và vận dụng quan hệ nhân – quả.  Tất nhiên và ngẫu nhiên - Phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, không thể khác. Phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của 7 nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định do đó nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, xuất hiện như thế này hoặc như thế khác. - Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó cái tất nhiên đóng vai trò quyết định. Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất biện chứng với nhau; không có cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy. Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, là cái bổ sung cho tất nhiên. Ph.Ăngghen cho rằng: “… cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần túy cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu...”. Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa cho nhau: tất nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngẫu nhiên trở thành tất nhiên. - Ý nghĩa phương pháp luận Về căn bản, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải cái ngẫu nhiên. Tuy nhiên, không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên và khi dựa vào cái tất nhiên phải chú ý đến cái ngẫu nhiên. Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.  Nội dung và hình thức - Phạm trù nội dung, hình thức Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng. Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó. - Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau. Vì vậy, không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, đồng thời không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định. Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức và cùng một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mố i quan hệ biện chứng, trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện tượng. Nội dung thay đổi bắt buộc hình thức phải thay đổi theo cho phù hợp. Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp tuyệt đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung. 8 - Ý nghĩa phương pháp luận Nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó. Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết phải căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó. Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung trên cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác, cũng vần phải thực hiện những thay đổi đối với những hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển của nội dung.  Bản chất và hiện tượng; - Phạm trù bản chất, hiện tượng Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của những mặt, những mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định. - Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập với nhau. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng; cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào đó. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi bản chất mất đi thì hiện tượng cũng mất theo. Vì vậy, V.I.Lênin cho rằng: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”. Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng được thể hiện ở chỗ: bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng; bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài; bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi. - Ý nghĩa phương pháp luận Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức được đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến bản chất cấp hai…”. Mặt khác, bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện tượng thì mới có thể đánh giá một cách chính xác về sự vật, hiện tượng đó và mới có thể cải tạo căn bản sự vật.  Khả năng và hiện thực. - Phạm trù khả năng, hiện thực Phạm trù khả năng dùng để chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trong thực tế, nhưng sẽ xuất hiện và tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng. 9 Phạm trù hiện thực dùng để chỉ những cái đang tồn tại trong thực tế và trong tư duy. - Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, không tách rời. Quá trình đó biểu hiện: khả năng chuyển hóa thành hiện thực và hiện thực lại chứa đựng những khả năng mới; khả năng mới, trong những điều kiện nhất định, lại chuyển hóa thành hiện thực... Trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng, có thể tồn tại một hoặc nhiều khả năng: khả năng thực tế, khả năng tất nhiên, khả năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xảy ra... Trong đời sống xã hội, khả năng chuyển hóa thành hiện thực phải có điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan là tính tích cực xã hội của ý thức chủ thể con người để chuyển hóa khả năng thành hiện thực. Điều kiện khách quan là sự tổng hợp các mối quan hệ về hoàn cảnh, không gian, thời gian để tạo nên sự chuyển hóa đó. - Ý nghĩa phương pháp luận Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải dựa vào hiện thực để xác lập nhận thức và hành động. V.I.Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa Mác căn cứ vào những sự thật chứ không phải dựa vào những khả năng. Người mácxít chỉ có thể sử dụng, để làm căn cứ cho chính sách của mình, những sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được”. Tuy nhiên, trong nhận thức và thực tiễn cần phải nhận thức toàn diện các khả năng từ trong hiện thực để có được phương pháp hoạt động thực tiễn phù hợp với sự phát triển trong những hoàn cảnh nhất định; tích cực phát huy nhân tố chủ quan trong việc nhận thức và hoạt động thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục đích nhất định. II. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG VẬT LÝ HỌC 2.1 Góc nhìn triết học về khoa học vật lý Triết học nghiên cứu về sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng với vai trò của là khoa học của các ngành khoa học cụ thể thì vật lý nghiên cứu về những đối tượng trong sự vận động và các tính chất bất biến của nó. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật lý học là một môn khoa học tự nhiên tập trung vào sự nghiên cứu vật chất và chuyển động của nó trong không gian và thời gian, cùng với những khái niệm liên quan như năng lượng và lực. Một cách rộng hơn, nó là sự phân tích tổng quát về tự nhiên, được thực hiện để hiểu được cách biểu hiện của vũ trụ. Các vấn đề của triết học trong vật lý, triết học của vật lý, bao gồm bản chất của không gian và thời gian, quyết định luận1, và những lý thuyết trừu tượng như chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa tự nhiên và thực tại luận. Nhiều nhà vật lý cũng đã viết về ý nghĩa triết học trong các công trình của họ, như Laplace, người đưa ra học thuyết quyết định luận nhân quả, và Erwin Schrödinger viết về ý nghĩa thực tại của cơ học lượng tử. Điều đó nói lên mối quan hệ biện chứng chặt chẽ giữa vật lý học và triết học. 1 Thuyết thừa nhận hiện tượng tự nhiên và xã hội có tính quy luật, tính tất nhiên và quan hệ nhân quả. 10 2.2 Vận dụng triết học duy vật biện chứng vào vật lý học và những kết quả nghiên cứu khoa học. Có thể nói rằng, từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời thì mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên mới thật sự bước sang một giai đoạn mới, đặc biệt với vật lý học. Từ những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại trong thế kỷ XX như: Thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein (1905) và thuyết tương đối rộng (1916); thuyết lượng tử của Planck (1900); lý thuyết kết cấu nguyên tử lượng tử hoá của Niels Bohr (1913); lý thuyết cơ học lượng tử của Heisenberg (1925), v.v… Đã tạo nên những cuộc tranh luận ngày càng gay gắt về sự nhận thức của con người đối với thế giới. Chính điều này đã buộc các nhà khoa học tự nhiên phải tìm đến với một thế giới quan triết học đúng đắn để từ đó lý giải những vấn đề cụ thể trong lý thuyết khoa học của mình. Như Albert Einstein đã viết: “Các kết quả nghiên cứu khoa học thường gây nên những sự thay đổi trong các quan điểm triết học đối với những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi của những lĩnh vực rất hạn chế của bản thân khoa học”. Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và vật lý học chẳng những giúp cho các nhà triết học hiểu biết thêm những tri thức về khoa học tự nhiên mà còn làm cho họ thấy rõ được cơ sở khoa học chính xác, khách quan để triết học dựa vào đó khái quát thành những nguyên lý, những quy luật và những phạm trù triết học. Khi đưa ra nhận định về con đường phát triển phức tạp của vật lý học V.I.Lênin đã viết: “Vật lý học hiện đại đang và sẽ đi, nhưng nó đi tới phương pháp duy nhất đúng, đi tới triết học duy nhất đúng của khoa học tự nhiên, không phải bằng con đường thẳng, mà bằng con đường khúc khuỷu, không phải tự giác mà tự phát, không nhìn thấy rõ “mục đích cuối cùng” của mình, mà đi đến mục đích đó một cách mò mẫm, ngập ngừng và thậm chí đôi khi giật lùi nữa. Vật lý học hiện đại đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một cuộc sinh đẻ đau đớn, kèm theo sinh vật sống và có sức sống, không tránh khỏi một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bả nào đó phải vứt vào sọt rác. Toàn bộ chủ nghĩa duy tâm vật lý học, toàn bộ triết học kinh nghiệm phê phán, cũng như thuyết kinh nghiệm tượng trưng, v.v… đều thuộc những thứ cặn bả phải vứt bỏ đi ấy”. Ph. Ăngghen nhấn mạnh ý nghĩa có tính bước ngoặt của ba phát minh đối với sự ra đời của hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật biện chứng, thay cho hình thức cũ đã tỏ ra lỗi thời. Trong vật lý học, R. Kirchhoff (1824-1887) xác lập phương pháp phân tích quang phổ, Emanuel Clausius (1822-1888) phổ biến thuyết cơ học về nhiệt và đưa khái niệm entropy vào môn vật lý, Michael Faraday (1791 - 1867) đưa ra thuyết trường điện từ, sau đó J. Maxwell (1831-1879) xây dựng thuyết điện từ và ánh sáng. Những thành tựu của khoa học tự nhiên nêu trên đã chứng minh được tính chất biện chứng của các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Chính sự phát triển của khoa học, những thành tựu mới nhất của nó đã khiến cho phương pháp tư duy siêu hình cần phải được thay thế. Theo Ph. Ăngghen, sự phát triển của khoa học tự nhiên, những thành tựu mới nhất của nó từ thế kỷ XVI trở đi cho thấy tính tất yếu của tư duy biện chứng, và chứng tỏ rằng, trong tự nhiên không có những phạm trù và những quan hệ bất biến. Cũng chính từ việc khẳng định về tính tất yếu của tư duy biện chứng như đã nêu trên nó giúp chúng ta đi tới khẳng định: phép biện chứng chính là cơ sở phương pháp luận đối với khoa học tự nhiên nói chung và vật lý nói riêng, giúp các nhà khoa học khắc phục những hạn chế trong khi tiếp cận với các vấn đề lý luận chung. Điều này đã được Ph.Ăngghen luận giải: “Phép biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối liên hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác”. 11 Rõ ràng các nhà khoa học trước hết là những người đang phải giải quyết những vấn đề cơ bản, những vấn đề có tính chất nền tảng của khoa học, dù muốn hay không cũng buộc phải tìm đến triết học. Như chúng ta đã biết, triết học có nhiều trường phái khác nhau. Có triết học đúng, khoa học, cũng có triết học sai lầm, phản khoa học. Vậy trong tình hình phát triển như vũ bảo của khoa học như hiện nay, thì thứ triết học nào thực sự là thứ triết thực sự khoa học có thể đóng vai trò phương pháp luận phổ biến, đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của khoa học? Thực tiễn phát triển của khoa học hiện đại đã chứng minh rằng, một phương pháp luận như thế chỉ có thể là phép biện chứng duy vật. Điều đó có nghĩa là nắm được phương pháp biện chứng, tức là “phương pháp nắm sự vật và phản ánh sự vật trong tư tưởng, chủ yếu là trong sự liên hệ, ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu vong của sự vật” nhà khoa học sẽ có một công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực khoa học nào và ngược lại. Trong bất kỳ lĩnh vực khoa học nào, người nghiên cứu muốn đạt được chân lý thì cũng phải áp dụng phương pháp biện chứng. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần nắm vững và vận dụng phương pháp biện chứng là đã đủ để đạt tới chân lý trong từng lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Phương pháp biện chứng là phương pháp chung nhất, phổ biến nhất, nhưng cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình, bất cứ cái riêng nào cũng không được bao quát hoàn toàn trong cái chung. Vì vậy, phương pháp biện chứng cần phải được cụ thể hóa, cá biệt hóa cho từng khoa học cụ thể. Việc áp dụng phép biện chứng duy vật có thể diễn ra một cách tự giác, cũng có thể diễn ra một cách tự phát. Lịch sử của khoa học đã chứng minh nhiều trường hợp như vậy. Ví như: Từ hiện tượng năng lượng tách ra từ Ra, những người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng ở cuối thế kỷ XIX đã rút ra kết luận: chủ nghĩa duy vật đã bị phá sản. Do đó, họ cho rằng không cần tìm đại biểu vật chất của các thuộc tính phóng xạ. Nhưng M. Curie – nhà khoa học thiên tài người Pháp lại đặt vấn đề ngược lại: Khả năng phát ra các tia phóng xạ gắn liền với cái gì? Với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể như sự điện phân hay đó là một thuộc tính cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt? Nếu nó gắn liền với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể thì trong trường hợp đó việc tìm kiếm các nguyên tố phóng xạ sẽ là vô nghĩa. Nhưng nếu đó là một thuộc tính cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt thì trong khi đo các phóng xạ (vận động), cần tìm đại biểu vật chất của nó. Qua đây chúng ra thấy, với những người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng, những kết luận của họ chỉ đi tới sự kìm hãm của phát minh khoa học, phản khoa học. Còn với M. Curie, việc áp dụng phép biện chứng một cách tự phát nhưng lại đi tới phát minh khoa học. Hay như việc phát minh ra định luật tuần hoàn của các nguyên tố hóa học của Mendeleev và một ví dụ điển hình khi nói về tác dụng của tư tưởng duy vật biện chứng tới nghiên cứu khoa học tự nhiên. Điều này đã được Ph. Ăngghen khẳng định: “Nhờ áp dụng – một cách không có ý thức – quy luật của Hegel về sự chuyển hóa lượng thành chất, Mendeleev đã hoàn thành một kỳ công khoa học có thể tự hào đứng ngang hàng với kỳ công của Joseph Le Verrier (1811-1877) khi ông tính ra quỹ đạo của hành tinh sao Hải vương tinh mà người ta chưa biết”. Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng đã góp phần giúp cho các nhà khoa học nhìn nhận được sự vật đúng như chúng vốn có, nhờ đó giúp nhà khoa học sớm phát hiện ra được sự thật và xây dựng các lý thuyết phản ánh sự vật một cách chính xác hơn, tránh được các sai lầm phiến diện, giản đơn hay máy móc, giáo điều trong công tác nghiên cứu của mình. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà khoa học đã có sự phân ngành ngày càng sâu sắc, khi mà khoa học tự nhiên đã và đang đi vào những lĩnh vực chuyên môn rất hẹp và do đó dễ nhìn sự vật một cách phiến diện. Đây cũng là vấn đề hết sức quan trọng trong bối cảnh của việc tổng hợp tri thức khoa học ngày nay. 12 III. KẾT LUẬN Nhìn lại tiến trình lịch sử phát triển của triết học duy vật và vật lý học, chúng ta thấy rằng hai lĩnh vực tri thức này luôn có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Mối liên hệ giữa triết học nói chung, triết học duy vật biện chứng nói riêng với vật lý học là một tất yếu có tính quy luật và ngày càng phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn đặt cho mình nhiệm vụ phải khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên nói chung và vật lý học nói riêng để làm sâu sắc thêm, phong phú thêm những nguyên lý, những quy luật của mình. Và mỗi bước ngoặt của khoa học, trước sự đổ vỡ của những nguyên lý cũ và sự ra đời của những phát minh mới thì đại đa số các nhà khoa học đều đứng về phía chủ nghĩa duy vật. Khoa học hiện đại ngày càng chứng tỏ mối liên hệ mật thiết giữa nó với triết học duy vật biện chứng, chứ không phải với chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Tuy vậy, vẫn có một số ít những nhà khoa học do không nắm vững phép biện chứng, còn chịu ảnh hưởng của các trào lưu triết học sai lầm nên thường giải thích những thành tựu mới nhất của khoa học trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và đưa khoa học tự nhiên đi lệch sang phía chủ nghĩa duy tâm. Đây chính là lực cản của sự phát triển khoa học. 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Giáo trình triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005. [2] Werner Heisenberg, Vật lý và Triết học, Nxb Tri thức, 2009. [3] Lê Như Thuận, Vận dụng phép duy vật biện chứng vào nghiên cứu toán học, 2012. [4] Lâm Bá Hòa, Mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng với khoa học tự nhiên, 2010. [5] http://vi.wikipedia.org/wiki/Vật_lý_học 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng