1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức đạo đức là một thuộc tính cơ bản quy định nhân cách người sĩ quan hậu cần trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Phát triển ý thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần hiện nay, là một vấn đề hết sức quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện nhân cách người học viên, nhằm đào tạo ra những người sĩ quan hậu cần có phẩm chất và năng lực toàn diện, có đủ đức và tài, góp phần cùng với toàn quân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Học viện Hậu cần là trung tâm giáo dục, đào tạo cán bộ, sĩ quan chuyên đảm bảo công tác Hậu cần cho Quân đội. Thấy được tầm quan trọng của ý thức đạo đức đối với người sĩ quan hậu cần trong quân đội ta, những năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện, các Phòng, Khoa, công tác giáo dục rèn luyện ý thức đạo đức cho các đối tượng, trong đó có đội ngũ học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần, luôn được quán triệt và duy trì thường xuyên trong quá trình giáo dục và đào tạo của Học viện. Nhờ đó, ý thức đạo đức của người học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội luôn đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo đặt ra, có những bước phát triển vững chắc trong nhân cách, phẩm chất, lối sống của người học viên sĩ quan hậu cần. Đảm bảo các khóa học viên ra trường đều hội đủ phẩm chất và năng lực, có đức, có tài hoàn thành mọi nhiệm vụ được phân công trong công tác hậu cần quân đội.
Trong quá trình đào tạo tại học viện, người học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội đã nhận thức đúng đắn mục tiêu, yêu cầu đạo tạo, có động cơ học tập tốt, tích cực phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tư tưởng lành mạnh, trong sáng. Tuy nhiên, trước những tác động nhiều mặt của cơ chế thị trường cùng với những tác động tiêu cực của đời sống xã hội… đã làm cho ý thức đạo đức của một bộ phận học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội đã có những biểu hiện nhận thức lệch lạc về nhiệm vụ, lý tưởng cách mạng, lối sống cơ hội, thực dụng, thiên về lợi ích vật chất, giảm sút niềm tin, suy giảm phẩm chất đạo đức, làm ảnh hưởng tiêu cực đến truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và bản chất truyền thống đạo đức Học viện Hậu cần nói riêng.
Trong những năm tới, cùng với quá trình hiện đại hóa quân đội ta, công tác hậu cần càng ngày càng có nhiều đổi mới và đi vào chiều sâu, đòi hỏi người học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội phải có phẩm chất, năng lực toàn diện. Bên cạnh kiến thức, năng lực chuyên ngành, phải có phẩm chất đạo đức tốt. Vì suy cho cùng, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của công tác hậu cần phần lớn là do phẩm chất đạo đức của người cán bộ hậu cần quyết định. Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và đề ra các giải pháp góp phần phát triển ý thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội là vất đề rất quan trọng, có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY
LUẬT PHÁT TRIỂN Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC
VIÊN Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN
1.1. Thực chất phát triển ý thức đạo đức của học viên ở
8
Học viện Hậu cần
1.2. Một số vấn đề có tính quy luật phát triển ý thức đạo
8
đức của học viên ở Học viện Hậu
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
29
PHÁT TRIỂN Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC VIÊN
Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN HIỆN NAY HIỆN NAY
2.1. Thực trạng phát triển ý thức đạo đức của học viên ở
43
Học viện Hậu cần hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển ý thức đạo đức của
43
học viên ở Học viện Hậu cần hiện nay
KẾT LUẬN
55
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
80
PHỤ LỤC
84
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức đạo đức là một thuộc tính cơ bản quy định nhân cách người sĩ quan
hậu cần trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Phát triển ý thức đạo đức của học
viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần hiện nay, là một vấn đề
hết sức quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện nhân cách người học viên,
nhằm đào tạo ra những người sĩ quan hậu cần có phẩm chất và năng lực toàn
diện, có đủ đức và tài, góp phần cùng với toàn quân hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Học viện Hậu cần là trung tâm giáo dục, đào tạo cán bộ, sĩ quan chuyên
đảm bảo công tác Hậu cần cho Quân đội. Thấy được tầm quan trọng của ý thức
đạo đức đối với người sĩ quan hậu cần trong quân đội ta, những năm qua, dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện, các Phòng, Khoa,
công tác giáo dục rèn luyện ý thức đạo đức cho các đối tượng, trong đó có đội
ngũ học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần, luôn được quán
triệt và duy trì thường xuyên trong quá trình giáo dục và đào tạo của Học viện.
Nhờ đó, ý thức đạo đức của người học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội luôn
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo đặt ra, có những bước phát triển vững chắc
trong nhân cách, phẩm chất, lối sống của người học viên sĩ quan hậu cần. Đảm
bảo các khóa học viên ra trường đều hội đủ phẩm chất và năng lực, có đức, có tài
hoàn thành mọi nhiệm vụ được phân công trong công tác hậu cần quân đội.
Trong quá trình đào tạo tại học viện, người học viên cử nhân hậu cần cấp
phân đội đã nhận thức đúng đắn mục tiêu, yêu cầu đạo tạo, có động cơ học tập
tốt, tích cực phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tư tưởng
lành mạnh, trong sáng. Tuy nhiên, trước những tác động nhiều mặt của cơ chế thị
trường cùng với những tác động tiêu cực của đời sống xã hội… đã làm cho ý thức
đạo đức của một bộ phận học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội đã có những biểu
hiện nhận thức lệch lạc về nhiệm vụ, lý tưởng cách mạng, lối sống cơ hội, thực dụng,
4
thiên về lợi ích vật chất, giảm sút niềm tin, suy giảm phẩm chất đạo đức, làm ảnh
hưởng tiêu cực đến truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung
và bản chất truyền thống đạo đức Học viện Hậu cần nói riêng.
Trong những năm tới, cùng với quá trình hiện đại hóa quân đội ta, công tác hậu
cần càng ngày càng có nhiều đổi mới và đi vào chiều sâu, đòi hỏi người học viên cử
nhân hậu cần cấp phân đội phải có phẩm chất, năng lực toàn diện. Bên cạnh kiến
thức, năng lực chuyên ngành, phải có phẩm chất đạo đức tốt. Vì suy cho cùng, khả
năng hoàn thành nhiệm vụ của công tác hậu cần phần lớn là do phẩm chất đạo đức
của người cán bộ hậu cần quyết định. Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu những
vấn đề lý luận và đề ra các giải pháp góp phần phát triển ý thức đạo đức của học viên
cử nhân hậu cần cấp phân đội là vất đề rất quan trọng, có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay xung quanh vấn đề đạo đức đã
có nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các góc độ và quy mô khác nhau, liên quan
đến đề tài luận văn, có thể phân chia thành các nhóm.
Nhóm vấn đề về đạo đức mới và đạo đức cách mạng có các công trình:
Luận án tiến sĩ Lê Thị Thuỷ (2001) Vai trò đạo đức với sự hình thành nhân cách
con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay; GS. TS Nguyễn Trọng
Chuẩn (2003) Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay; TS Lê Thị Tuyết Ba (2010) Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb KHXH, Hà Nội. Những công trình trên đã chỉ
ra quan niệm chung nhất về đạo đức mới, nội dung đạo đức của con người mới
trong các lĩnh vực. Phân tích làm rõ nguồn gốc, đặc điểm và biểu hiện tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước,
những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Chỉ ra mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế, sự tác động “hai mặt” của kinh tế
thị trường đối với đạo đức xã hội. Thang giá trị đạo đức - Sự biến đổi của nó
trong kinh tế thị trường ở nước ta. Đề cập sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức,
5
lối sống của con người Việt Nam, đề xuất những giải pháp cơ bản, nhằm nâng
cao đạo đức cách mạng và phát triển ý thức đạo đức ở mỗi người dân Việt Nam
nói chung và thế hệ trẻ nói riêng.
Nhóm vấn đề đạo đức quân sự có các công trình: Đề tài khoa học do TS
Phạm Văn Nhuận chủ nhiệm (2003) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của
người cán bộ quân đội và giải pháp nâng cao đạo đức của người cán bộ quân
đội hiện nay; TS Nguyễn Hùng Oanh (2009) Phát triển đạo đức cách mạng ở
thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay, Nxb QĐND,
Hà Nội; Luận văn Ths Đinh Phú Cường (2004) Phát triển đạo đức cách mạng
của học viên đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân
sự hiện nay. Những công trình trên đã đề cập đến những phẩm chất đạo đức cơ
bản, tính qui luật và con đường phát triển đạo đức cách mạng đối với đội ngũ cán
bộ, thanh niên trong quân đội, những yêu cầu biện pháp giáo dục bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, thanh niên quân đội hiện nay. Làm rõ
nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ, thanh niên quân
đội và ý nghĩa của nó đối với việc nâng cao đạo đức cách mạng của người cán
bộ, thanh niên quân đội hiện nay. Đánh giá đúng thực trạng đạo đức của người
cán bộ, học viên, thanh niên trong quân đội, luận giải những nhân tố tác động tới
việc phát triển đạo đức cách mạng người cán bộ, học viên, thanh niên quân đội.
Nhóm vấn đề đạo đức ngành hậu cần quân đội đã có các công trình: Luận
án TS Hà Nguyên Cát (2000) Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ Hậu
cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay; đề tài khoa học do
TS Nguyễn Quốc Chiến chủ nhiệm đề tài (2001) Nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cách mạng trong đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên hậu cần ở Học viện
Hậu cần hiện nay; Luận án TS Trần Như Chủ (2001) Đặc điểm phát triển đạo
đức cách mạng của người cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam; Luận
văn thạc sỹ Ngô Văn Luyện (2008) Phát triển đạo đức cách mạng của học
viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần hiện nay. Các công
6
trình trên đã luận giải sâu sắc về vấn đề đạo đức, đạo đức cách mạng và đạo
đức Hồ Chí Minh, luận giải những nhân tố tác động tới phát triển đạo đức,
đạo đức cách mạng, làm rõ vai trò phát triển đạo đức đối với người cán bộ,
làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đặc điểm phát triển đạo đức cách
mạng của người cán bộ quân đội nói chung và cán bộ ngành hậu cần nói
riêng. Đã bước đầu đề cập đến thực chất định hướng giá trị đạo đức và vai trò
của nó, trong phát triển đạo đức của người cán bộ hậu cần. Các đề tài đã đề
xuất, những giải pháp cơ bản phát triển đạo đức cách mạng của đội ngũ cán
bộ, nhân viên chuyên môn ngành hậu cần quân đội.
Tuy nhiên, trên thực tế dưới góc độ triết học chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ thống về phát triển ý thức đạo đức.
Chính vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển ý thức đạo đức của học viên ở Học
viện Hậu cần hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Trên cơ sở luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn phát triển ý thức đạo
đức, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển ý thức đạo đức của học
viên ở Học viện Hậu cần hiện nay .
* Nhiệm vụ:
Làm rõ một số vấn đề cơ bản về ý thức đạo đức, phát triển ý thức đạo
đức của học viên ở Học viện Hậu cần.
Đánh giá thực trạng phát triển ý thức đạo đức của học viên ở Học viện
Hậu cần hiện nay và làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển ý thức đạo đức của học viên ở
Học viện Hậu cần hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu
Bản chất và tính quy luật phát triển ý thức đạo đức của học viên ở Học
viện Hậu cần.
7
* Phạm vi nghiên cứu
Phát triển ý thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện
Hậu cần. Số liệu điều tra, khảo sát thực tế và nghiên cứu tài liệu phục vụ công tác
nghiên cứu được giới hạn chủ yếu từ năm 2007 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
*Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các văn kiện, Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng ủy Quân sự trung ương về xây dựng quân đội cách mạng, xây dựng đội
ngũ cán bộ trong quân đội nhân dân Việt Nam; về đạo đức và ý thức đạo đức.
* Cơ sở thực tiễn:
Từ thực trạng ý thức đạo đức và phát triển ý thức đạo đức của học viên cử
nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần qua kết quả báo cáo tổng kết
công tác giáo dục, đào tạo, rèn luyện đạo đức của Phòng Đào tạo, cơ quan chức
năng ở Học viện Hậu cần và khảo sát của tác giả luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp của các khoa
học liên ngành và chuyên ngành, trong đó chú trọng phương pháp lôgic – lịch sử, phân
tích – tổng hợp, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học phát
triển ý thức đạo đức của học viên, trên cơ sở đó giúp cấp ủy, chỉ huy các cấp vận
dụng trong huấn luyện, quản lý và phát triển ý thức đạo đức của học viên cử
nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo của học viện.
6. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
8
Chương 1
THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT PHÁT TRIỂN
Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC VIÊN Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN
1.1. Thực chất phát triển ý thức đạo đức của học viên ở Học viện
Hậu cần
1.1.1. Ý thức đạo đức của học viên ở Học viện Hậu cần
* Đạo đức, ý thức đạo đức
Đạo đức giữ một vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Chính vì lẽ đó mà con người đã không ngừng đi vào tìm hiểu,
làm rõ bản chất của hiện tượng phức tạp này. Song, do sự khác nhau về phương
pháp tiếp cận, trình độ phản ánh và những nguyên nhân xã hội khác… nên trong
lịch sử tư tưởng nhân loại cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Những người theo quan điểm duy tâm, tôn giáo cho rằng đạo đức là phẩm chất
vốn có của con người, là những nguyên tắc, chuẩn mực được rút ra từ trong đầu óc,
hay từ một lực lượng siêu nhiên, như thượng đế, “ý niệm tuyệt đối”, tự ý thức, hoặc
một bản tính người trừu tượng nào đó, rồi đem áp đặt vào đời sống hiện thực.
Các nhà duy vật siêu hình, đã đấu tranh chống lại quan điểm của chủ nghĩa
duy tâm, tôn giáo. Họ cho rằng, chỉ có giải thích đời sống đạo đức con người từ
đời sống hiện thực của họ, chứ không thể giải thích trong đầu óc của họ, coi đạo
đức là sản phẩm của tự nhiên, của văn hoá lịch sử. Họ đã đề cao đạo đức cá
nhân, thể hiện sự khát vọng tự do, hạnh phúc chính đáng của con người, khát
vọng giải phóng con người khỏi trói buộc của tôn giáo, thần học. Nhưng, do hạn
chế về nhận thức và lập trường giai cấp, các nhà duy vật siêu hình đã không lý
giải một cách đúng đắn và khoa học về đạo đức, họ coi đạo đức như một hiện
tượng bất biến, phi lịch sử, phi giai cấp.
Các nhà đạo đức học Mác-Lênin thì cho rằng, đạo đức là một trong những
phương thức cơ bản điều tiết chuẩn mực hoạt động của con người, là một hình
thái ý thức xã hội, là một dạng của quan hệ xã hội (quan hệ đạo đức), là đối
9
tượng nghiên cứu của đạo đức học, hay nói cách khác: “Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực, xã hội, nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
trong quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [27, tr.8].
Một quan niệm khác thì cho rằng “đạo đức là một phương thức điều chỉnh
hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời là hệ thống
những giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực biểu thị sự quan tâm tự nguyện tự giác của
con người với con người, con người với xã hội” [47, tr.2].
Theo góc độ nghiên cứu của xã hội học thì đạo đức là toàn bộ những quy
tắc, những chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên; hoặc đạo đức là hệ thống
những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với cộng đồng xã hội và với chính bản thân mình.
Như vậy, có thể hiểu đạo đức là một hiện tượng của đời sống tinh thần xã
hội, bao gồm toàn bộ những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó mà con
người tự giác đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình trong quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân với xã hội và giữa con người với giới tự
nhiên sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, đạo đức và ý thức đạo
đức được hình thành từ trong lao động và là sản phẩm của hoạt động có ý thức
của con người, của loài người. Ý thức đạo đức là một trong những yếu tố tạo nên
cấu trúc của đạo đức, là sự thể hiện thái độ, cảm xúc, tình cảm đạo đức của con
người, là ý thức về hệ thống những quy tắc chuẩn mực, hành vi phù hợp với
những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại [27, tr.11]; ý thức đạo đức còn được
hiểu là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong
sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những quy tắc đạo đức do xã
hội đặt ra. Nó giúp con người điều chỉnh hành vi và hoàn thành nghĩa vụ đạo đức
10
một cách tự nguyện, tự giác. Trên cơ sở đó, có thể khái quát: ý thức đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, là sự thể hiện thái độ cảm
xúc, sự nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với
hệ thống những quy tắc, chuẩn mực đạo đức do xã hội đặt ra nhằm điều chỉnh,
đánh giá cách ứng xử của con người trong những quan hệ với xã hội và được
thực hiện một cách tự giác bởi ý chí, niềm tin cá nhân, bởi truyền thống, sức
mạnh của dư luận xã hội.
Có thể nói, khi bàn về ý thức đạo đức có rất nhiều cách tiếp cận. Ở đây, nếu
xét trong mối quan hệ với tồn tại xã hội thì đạo đức trở thành một nội dung hoạt
động của con người thông qua các hành vi cụ thể. Còn ý thức đạo đức là sự
phản ánh tồn tại xã hội.
Ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội và tác động đến tồn tại xã hội bằng
cách điều tiết mối quan hệ giữa các cá nhân và hoạt động chung của con người
trong những lĩnh vực hết sức khác nhau của đời sống xã hội. Ý thức đạo đức
hình thành và phát triển cùng với các hình thái ý thức xã hội khác như ý thức
chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và có quan hệ qua
lại với các hình thái ý thức xã hội ấy.
Với tính cách là một dạng quan hệ xã hội, quan hệ đạo đức có mặt hầu hết ở
tất cả các mối quan hệ xã hội còn lại và không một mối quan hệ xã hội nào thoát
khỏi ảnh hưởng của ý thức đạo đức. Hơn nữa, các chuẩn mực của ý thức đạo đức
được hình thành và tác động trực tiếp trong thực tiễn của hành vi con người,
trong quá trình con người giao tiếp với nhau.
Ý thức đạo đức khác với các hình thái ý thức xã hội khác là các chuẩn mực
của ý thức đạo đức hình thành và tác động trực tiếp trong thực tiễn do hành vi và
đến hành vi của những con bình thường, những tập đoàn người to lớn trong xã
hội chứ không phải do một nhóm người quy định, soạn thảo. Do đặc tính hình
thành mang tính tự phát và qua thời gian dài trong những điều kiện lịch sử nhất
định, chúng có khả năng chấp nhận một cách tự nguyện cao. Ý thức đạo đức là
11
chức năng của tư duy, nhờ năng lực này con người biết hành vi nào là tốt, đáng
khen ngợi, hành vi nào xấu, đáng xấu hổ, là năng lực phân biệt cái tốt, cái xấu,
điều thiện, điều ác, biết mình phải làm gì, đồng thời dự đoán kết quả có thể đạt
được của hành vi có phù hợp với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình không. Cần
phân biệt ý thức đạo đức với việc thuộc lòng một cách hình thức những chuẩn
mực đạo đức. Ý thức đạo đức thể hiện nhận thức của con người trước hành vi
của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những nguyên
tắc đạo đức xã hội đặt ra; nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn
thành tự giác, tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức.
Trong suốt quá trình vận động, biến đổi và phát triển của lịch sử, ý thức
đạo đức được hình thành để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau,
giữa cá nhân với xã hội và điều chỉnh hoạt động của con người nói chung. Ý
thức đạo đức được nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội mà trước hết là nhu
cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong phân phối sản
phẩm, trong đấu tranh xã hội để tồn tại và phát triển. Trong đời sống, con
người, một mặt phải quan hệ với tự nhiên, tìm hiểu tự nhiên, tác động vào tự
nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình. Cuộc sống buộc phải quan hệ với
nhau để cùng tác động vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa người với người
là hệ quả của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. Do vậy, ý thức đạo
đức chính là sản phẩm của hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng là sản phẩm của
hoạt động nhận thức của con người. Mặc dù ý thức đạo đức có những nét đặc
thù cả về phương diện phản ánh, cách thức hình thành cũng như về phương
thức tác động nhưng nó vẫn là hình thái ý thức xã hội “phản ánh điều kiện sinh
hoạt vật chất xã hội, là sản phẩm của tình hình kinh tế” (C.Mác). Nói cách
khác, ý thức đạo đức là hiện tượng tinh thần phản ánh tồn tại xã hội của con
người, hiện tượng đó đã là sản phẩm của xã hội và vẫn là như vậy chừng nào
con người còn tồn tại. Cho dù ở xã hội nào, thời đại nào thì ý thức đạo đức đều
được quy định bởi những điều kiện đời sống vật chất của xã hội, là sản phẩm
của hoạt động kinh tế - xã hội của con người.
12
Khác với quan điểm của các nhà đạo đức học duy tâm, chủ nghĩa duy vật lịch
sử cho rằng, ý thức đạo đức không phải là cái gì vĩnh cửu, bất biến mà “điều kiện
đời sống vật chất của xã hội như thế nào thì ý thức đạo đức của con người như
vậy. Ý thức đạo đức bao giờ cũng tương ứng với những điều kiện của đời sống vật
chất, là sự biểu hiện của đời sống vật chất và cùng biến đổi với nó” [3, tr.49].
Ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, chính vì vậy, bản thân ý thức đạo
đức luôn gắn liền với tính giai cấp; phản ánh những quan hệ giữa người và người
về mặt đạo đức theo những quan điểm thích hợp về những tiêu chuẩn, nguyên
tắc về thiện, ác, tốt, xấu, công bằng và bất công, lương tâm và trách nhiệm... Tất
cả những hình thức này của ý thức hợp thành một hệ thống vừa quy định vừa
đánh giá những hành động đạo đức. Cho nên, ý thức đạo đức là sự thể hiện thái
độ nhận thức và hành vi của mỗi người trước yêu cầu hệ thống chuẩn mực và
quy tắc đánh giá, điều chỉnh của xã hội; giúp con người tự giác điều chỉnh hành
vi và hoàn thành một cách tự giác nghĩa vụ đạo đức. Tương ứng với hình thức
hoạt động khác nhau của đời sống xã hội, hình thành những quy tắc đạo đức
trong lao động, trong nghề nghiệp...
Về cấu trúc của ý thức đạo đức có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan
điểm cho rằng “ý thức đạo đức gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng
giá trị đạo đức, tình cảm đạo đức” [26, tr.445], quan điểm khác lại cho rằng “ý
thức đạo đức (về cấu trúc) gồm tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức, ý chí đạo
đức” [27, tr.12]. Một số quan điểm gần đây khẳng định rằng ý thức đạo đức phản
ánh tồn tại xã hội ở hai cấp độ: cấp độ cảm tính và cấp độ lý tính. Ở cấp độ cảm
tính ý thức đạo đức bao gồm nhu cầu đạo đức, tình cảm đạo đức và ý chí đạo
đức. Ở cấp độ lý tính ý thức đạo đức bao gồm tri thức đạo đức và lý tưởng đạo
đức. Tuy nhiên, sự phân chia cấp độ như vậy chỉ có tính tương đối vì xét riêng tri
thức đạo đức cũng tồn tại ở hai cấp độ tri thức cảm tính và tri thức lý tính, bởi vì
tri thức là sự hiểu biết của con người sự hiểu biết, sự nhận thức của con người về
đối tượng có thể ở trình độ cảm tính hoặc lý tính, trình độ thông thường hay lý
13
luận. Khi nêu cấu trúc ý thức đạo đức, đề tài không phân chia những yếu tố cấu
thành theo cấp độ. Đề tài phân tích cấu trúc của ý thức đạo đức như một chỉnh
thể gồm nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố sau: tri thức đạo đức, tình cảm
đạo đức, lý tưởng đạo đức và ý chí đạo đức.
Tri thức nói một cách dễ hiểu, đơn giản là kiến thức, là hiểu biết của con
người. Chính vì vậy, tri thức đạo đức cũng chính là hiểu biết của con người, là kết
quả của nhận thức đạo đức. Tri thức đạo đức còn là cơ sở cho tình cảm đạo đức.
Tri thức đạo đức là hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức và sự
hiểu biết của con người về hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đó;
nó xác định rành mạch những giới hạn cho hành vi của con người, xác định giá
trị đạo đức của hành vi. Hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức là sự
đòi hỏi của xã hội đối với hành vi của con người, sự đòi hỏi này có thể ở dạng
ngăn cấm, hoặc ở dạng khuyến khích (hay ràng buộc). Chuẩn mực khuyến
khích là những chuẩn mực khuyên con người hãy làm những việc tốt như lịch
sự trong giao tiếp, giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, khó khăn, hi sinh
quên mình vì lợi ích của tập thể, của dân tộc. Chuẩn mực ngăn cấm là những
chuẩn mực khuyên người ta không được làm những điều xấu xa, độc ác, phi
nhân, bất nghĩa, trái với luân thường đạo lý. Trong hai dạng này, chuẩn mực
khuyến khích thể hiện sự đòi hỏi cao, còn chuẩn mực ngăn cấm là sự đòi hỏi
thấp, hay cụ thể là “làm hành động tốt với giá trị tích cực của nó cao hơn là
khước từ không làm hành động xấu” [3, tr.94]. Tri thức đạo đức phản ánh tồn
tại xã hội ở những trình độ khác nhau.
Ở trình độ nhận thức thông thường, tri thức đạo đức mang tính kinh
nghiệm. Tri thức kinh nghiệm là những tri thức về cái thiện, cái ác, về đức hạnh
và thói xấu, về cách thức ứng xử, đáp ứng những yêu cầu của đạo đức. Đối với
những con người bình thường thì đây là những hiểu biết tối thiểu mà ai cũng có
thể nhận thức được, bởi nó đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh về mặt đạo đức
trong quan hệ giữa người với người. Chính vì vậy, tri thức kinh nghiệm là cái
14
không thể thiếu được đối với những con người bình thường cả trong lĩnh vực
hoạt động bình thường hàng ngày của họ.
Tri thức lí luận được thể hiện qua các học thuyết, tư tưởng, quan điểm được
luận chứng về mặt lý luận. Nếu tri thức kinh nghiệm là sự phản ánh đời sống đạo
đức một cách đơn giản, thì tri thức lí luận là sự phản ánh đời sống đạo đức một
cách toàn diện và sâu sắc hơn. Nó đáp ứng nhu cầu phát triển và hoàn thiện đạo
đức trên phạm vi rộng lớn là xã hội.
Tri thức đạo đức có vai trò to lớn đối với đời sống đạo đức. Khi có tri thức
đạo đức thì con người dễ dàng thực hiện những hành vi đạo đức. Tất nhiên, nói
như vậy không có nghĩa là cứ có hiểu biết về đạo đức là con người luôn hành
động hợp đạo đức. Trong thực tế, nhiều khi con người thuộc lòng những quy tắc
đạo đức nhưng vẫn vi phạm những nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức. Mặc dù
vậy, tri thức đạo đức vẫn là cơ sở hình thành niềm tin và ý chí đạo đức. Ngoài ra,
tri thức đạo đức vừa là cơ sở hình thành, vừa là yếu tố hợp thành chuẩn mực đạo
đức, đồng thời nó còn là yếu tố làm nên tính tự giác, tự nguyện và tự do của đạo
đức. Do đó, tri thức đạo đức, nhất là tri thức lý luận cũng có vai trò to lớn trong
việc quản lý xã hội.
Tình cảm đạo đức là một trong những yếu tố căn bản, quan trọng của ý thức
đạo đức. Nó có vai trò đặc biệt trong việc thôi thúc chủ thể thực hiện hành vi đạo
đức và sáng tạo nên các giá trị đạo đức mới. Nó vừa là sự phản ánh mang tính cảm
xúc của hiện thực đạo đức, vừa là thái độ cảm xúc của chủ thể đạo đức trước hiện
thực ấy. Cho nên niềm tin đạo đức và các nguyên tắc hoạt động của cá nhân chỉ có
thể hình thành trong điều kiện được thể hiện bằng cảm xúc. Nếu không có cảm
xúc thì các khái niệm đạo đức, các phạm trù luân lí, những tri thức thu được bằng
lý tính về thiện và ác, chỉ được nhận thức ở mức độ ghi nhận thông tin mà không
thể làm cơ sở để chuyển hóa thành động cơ của hành vi cá nhân.
Trên thực tế, mọi hành động đạo đức đều xuất phát từ tình cảm của con
người. Nếu không có tình cảm đạo đức thì con người khó mà có ý thức và thực
15
hiện những hành động đạo đức. Lúc đó, con người sẽ không biết đánh giá hiện
tượng đạo đức và không có nhu cầu thực hiện hành vi đạo đức. Nếu không có
những tình cảm đạo đức thì con người sẽ thờ ơ trước cái thiện, vô cảm trước
điều ác và thậm chí có thể trở thành kẻ gây ra tội ác, vô đạo đức, những kẻ bất
lương. Vì vậy, tình cảm đạo đức vừa là động lực, vừa là năng lực đạo đức của
con người. Tình cảm đạo đức là yếu tố căn bản, “một yếu tố không thể thiếu
trong cấu trúc của ý thức đạo đức nói riêng và trong cấu trúc nhân cách nói
chung” [47, tr.17]. Tình cảm đạo đức là tình cảm của con người nảy sinh trước
một hiện tượng đạo đức. Chẳng hạn, khi đứng trước cái thiện, đứng trước việc
làm tốt thì người ta đồng tình ủng hộ. Ngược lại khi chúng ta chứng kiến cái ác,
chứng kiến những việc làm xấu xa, tội lỗi thì người ta phẫn nộ bất bình với kẻ
gây ra cái ác, đồng thời cảm thông chia sẻ nỗi đau với những nạn nhân. Đó là
những cung bậc cảm xúc của tình cảm đạo đức.
Trong cuộc sống của con người, tình cảm đạo đức vừa là sự nhận thức, vừa
là sự biểu hiện. Một khi con người nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, vai trò của
đạo đức đối với sự phát triển, tiến bộ xã hội thì lúc đó con người sẽ thực hiện
được những hành động đạo đức. Những hành động đạo đức đó hoàn toàn tự
nguyện bởi nó bắt nguồn từ tình cảm sâu xa của con người.
Lý tưởng đạo đức là yếu tố cấu thành có tính chất đặc biệt của ý thức đạo
đức bởi vì trong yếu tố này có cả tình cảm đạo đức, nhận thức về chuẩn mực đạo
đức, niềm tin đạo đức khi lựa chọn những chuẩn mực đạo đức nhất định để xây
dựng cho mình lý tưởng đạo đức riêng. Trong đó, yếu tố tình cảm đạo đức và tri
thức đạo đức là điều kiện cần còn niềm tin đạo đức là điều kiện đủ để hình thành
lý tưởng đạo đức. Niềm tin đạo đức là sự tin tưởng một cách sâu sắc, vững chắc
của con người vào tính chính nghĩa, tính chân lý và sự thừa nhận tính tất yếu
phải tôn trọng chuẩn mực ấy. Lý tưởng là sự phản ánh hiện thực, khái quát hiện
thực nhưng cao hơn hiện thực, là sự thăng hoa của hiện thực. Lý tưởng vừa có
tính lãng mạn vừa có tính hiện thực. Lãng mạn bởi nó là mục tiêu cao nhất, đẹp
16
nhất, mà con người ước mơ, phấn đấu vươn tới, đó là hình ảnh tương lai trong
cuộc sống hôm nay. Hiện thực bởi con người đi tới mục tiêu cao cả của mình
phải từ những bước đi cụ thể ban đầu. Lý tưởng phải được biểu hiện bằng những
nội dung cụ thể, qua cái cụ thể đó mà con người đi tới mục tiêu cao cả của
mình. Không hiểu rõ bản chất của lý tưởng con người dễ rơi vào hai khuynh
hướng sai lầm: hoặc chỉ thấy lý tưởng suông, xa vời, thoát ly hiện thực cuộc
sống hoặc chỉ thấy cái trước mắt, lợi ích trước mắt mà không thấy cái lâu dài, lợi
ích lâu dài từ đó sa vào mục đích sống tầm thường. Như vậy, có thể khái quát, lý
tưởng đạo đức là niềm tin, là quan niệm của con người về sự hoàn thiện đạo đức,
thường biểu hiện dưới dạng hệ chuẩn mực đạo đức của xã hội, của dân tộc, của
giai cấp, của cá nhân hay dưới hình tượng một mẫu người có những phẩm chất
đạo đức hoàn thiện nhất cho con người noi theo, hay nói cách khác là nhân cách
lý tưởng, là khuôn mẫu, tiêu chuẩn làm người mà người kỳ vọng đạt tới. Lý
tưởng đạo đức không phải nhân cách trừu tượng tùy ý nghĩ ra mà nó liên hệ mật
thiết với điều kiện lịch sử xã hội nhất định, là sự thể hiện tinh thần thời đại và ý
chí của một giai cấp nhất định. Lý tưởng đạo đức định hướng, điều chỉnh những
nhu cầu khác nhau của mỗi con người và quyết định phương hướng, mục đích
hoạt động của con người.
Để thực hiện được hành vi đạo đức, theo đuổi lý tưởng đạo đức không chỉ
cần tình cảm đạo đức, tri thức đạo đức mà còn cần phải có ý chí đạo đức. Theo
Hêghen đạo đức gồm ba yếu tố: tri thức, ý chí, nghị lực. Điều đó cho thấy ông
rất chú trọng yếu tố ý chí trong cấu trúc của đạo đức, đạo đức không đơn thuần
chỉ có yếu tố trí tuệ, tình cảm mà cần cả sức mạnh của ý chí để thúc đẩy con
người hành động.
Ý chí là “chí hướng tự giác của con người nhằm thực hiện những hành vi
nào đó” [52, tr.709]. Ý chí thể hiện ở tính mục đích, tính độc lập, tính quyết
đoán, tính kiên trì, tính tự chủ để khắc phục những trở ngại bên trong hay ngoài
để đạt tới mục đích. Ý chí là điều kiện thúc đẩy con người hành động để đạt mục
17
đích nhưng nó chưa xác định tính chất của hành động này. Ý chí có tính chất tích
cực, định hướng, thúc đẩy con người hành động theo tình cảm đạo đức, những
chuẩn mực đạo đức xã hội là ý chí đạo đức. Từ đó có thể hiểu, ý chí đạo đức là
năng lực xác định mục đích hướng thiện cao cả cho hành động và hướng hành
động của mình khắc phục những khó khăn nhằm đạt được mục đích đó. Nó thể
hiện niềm tin và sự quyết tâm giúp con người vượt qua giới hạn động vật, bản
năng sinh lý tầm thường của bản thân mình, vượt qua mọi thử thách của hoàn
cảnh để giữ gìn nhân phẩm và danh dự.
Như vậy, ý thức đạo đức về mặt cấu trúc, gồm tri thức đạo đức, tình cảm đạo
đức, lý tưởng đạo đức và ý chí đạo đức. Trong đó, tri thức đạo đức giúp con người
lựa chọn cái gì nên làm, cái gì không nên làm; tình cảm đạo đức thể hiện cảm xúc
của con người trước hiện tượng đạo đức, lý tưởng đạo đức quyết định phương
hướng, mục đích hoạt động của con người và ý chí đạo đức là sức mạnh tinh thần
giúp con người vượt qua khó khăn, trở ngại để thực hiện hành vi đạo đức.
* Ý thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu
cần
Học viện Hậu cần là trung tâm đào tạo cán bộ, sĩ quan hậu cần cho toàn
quân với các chuyên ngành: chỉ huy tham mưu hậu cần, quân nhu, vận tải, xăng
dầu, doanh trại và tài chính, gồm nhiều đối tượng học viên, cụ thể như: đào tạo
sau đại học; đào tạo cán bộ hậu cần cấp trung, sư đoàn; đào tạo cử nhân hậu cần
cấp phân đội; đào tạo trung cấp hậu cần...; ngoài ra, những năm gần đây Học
viện còn được phép đào tạo trình độ đại học và cao đẳng cho đối tượng dân sự...
Tuy nhiều đối tượng, song luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu đối tượng học viên cử
nhân hậu cần cấp phân đội.
Một số đặc điểm cơ bản về ý thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần
cấp phân đội ở Học viện Hậu cần
Học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần là một bộ phận
học viên được đào tạo để trở thành sĩ quan quân đội. Xét từng yếu tố trong cấu
18
trúc của ý thức đạo đức, ý thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân
đội ở Học viên Hậu cần có những biểu hiện mang tính đặc thù sau:
Tri thức đạo đức, hay sự hiểu biết của học viên cử nhân hậu cần cấp phân
đội ở Học viện Hậu cần về hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức khá
đầy đủ và dần được hoàn thiện. Bởi vì, ở lứa tuổi này quá trình cảm giác, tri
giác, ghi nhớ đã hoàn thiện và có bước phát triển về chất nên đội ngũ học viên
này phản ánh tương đối đúng đắn, chính xác các sự vật, hiện tượng của thế giới
khách quan. Bên cạnh đó, do có năng lực suy nghĩ khá độc lập và sự phong phú
về tri thức, học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần đã xác
định được những giới hạn cho hành vi của mình, xác định được giá trị đạo đức
của hành vi. Tuy nhiên, do tính bồng bột, sôi nổi và thiếu kinh nghiệm nên tri
thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần dễ
bị tác động bởi ngoại cảnh, dễ xuất hiện khuynh hướng phiên diện chủ quan, cố
chấp, thoát ly hiện thực, hoài nghi tất cả.
Tình cảm đạo đức của đội ngũ học viên này rất phong phú, sâu sắc và có cơ
sở lý tính khá vững vàng. Tình cảm đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp
phân đội ở Học viện Hậu cần gắn liền với sự hiểu biết những nguyên tắc và
chuẩn mực đạo đức. Ở lứa tuổi này tình cảm nghĩa vụ và tình cảm trách nhiệm
của đội ngũ học viên này trước xã hội và những người xung quanh, khả năng
đồng cảm, nhu cầu về tình bạn, tình yêu, tình đồng chí đồng đội và tình cảm
chính trị - đạo đức phát triển một cách rõ rệt. Tình cảm đó rất cao thượng, nhiệt
thành, có mục đích rõ ràng và chịu sự chi phối của tình cảm xã hội; tình yêu Tổ
quốc, yêu Quân đội, yêu ngành hậu cần chiếm ưu thế, bao trùm lên tình cảm cá
nhân. Tuy nhiên, tình cảm đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở
Học viện Hậu cần cũng rất dễ bị kích động và không ổn định. Tính hai mặt thể
hiện rõ ràng, có khi biểu hiện nhiệt tình phấn đấu vì lý tưởng, có lúc lại từ chỗ
cuồng nhiệt biến thành nản chí. Đội ngũ học viên này cũng đã có sự thành thục
về giới tính, tình cảm, dục vọng. Do đó, một phần hết sức quan trọng trong tình
19
cảm đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần là
tình cảm đạo đức trong quan hệ giới tính. Mặc dù, đây chỉ là một phần trong tình
cảm đạo đức nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức của học viên cử nhân hậu
cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần. Tình yêu cao thượng, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tình yêu và sự nghiệp, tình yêu với những tình cảm khác đối với
cha mẹ, đồng chí đồng đội, với nghề nghiêp... có tác dụng tích cực thúc đẩy hình
thành phẩm chất cá nhân tốt đẹp. Ngược lại, tình yêu dung tục, mù quáng dễ đưa
họ đến sa sút niềm tin, lý tưởng đạo đức.
Xu hướng lưa chọn cho mình một mô hình nhân cách, một mấu người lý
tưởng để noi theo đối với học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện
Hậu cần cũng có đặc điểm riêng. Họ thường học tập những đức tính điển hình,
những nét tính cách độc đáo của ngành hậu cần quân đội, tức là cái nội dung
mẫu người lý tưởng. Trong quá trình theo đuổi lý tưởng đạo đức của mình, học
viên hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần thường chăm lo đến việc tu
dưỡng bản thân đạt được những phẩm chất của mẫu người lý tưởng. Đó vừa là
ưu thế, vừa là hạn chế của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện
Hậu cần. Họ chưa xây dựng cho mình một hệ thống những nguyên tắc, chuẩn
mực đạo đức xác định mà thường phải dựa vào những khuôn mẫu có sẵn,
những mẫu người lý tưởng. Đây là giai đoạn thuận lợi để giáo dục lý tưởng đạo
đức, định hình nhân cách tốt đẹp cho đội ngũ học viên này. Tuy nhiên, vấn đề là
lựa chọn lý tưởng như thế nào? Do trình độ hiểu biết và kinh nghiệm sống chưa
sâu sắc nên trong việc lựa chọn lý tưởng đạo đức của học viên cử nhân hậu cần
cấp phân đội ở Học viện Hậu cần dễ bị ảnh hưởng bởi trào lưu xã hội và rất dễ
sa vào xu hướng chuộng hình thức mà sao lãng nội dung. Mặt khác, do sự từng
trải xã hội còn ít, học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần
thường có xu hướng lý tưởng hóa.
Ý chí đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội có trình độ phát
triển khá cao. Tính độc lập, tự chủ của họ biểu hiện rõ rệt trong quá trình học tập
20
và công tác. Học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội thường tỏ ra là người biết tự
chủ, có tinh thần vượt khó. Tính tổ chức và tính kỷ luật cũng tăng tiến rõ rệt. Sự
phát triển ý chí đã giúp học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu
cần biết tự đánh giá mình, họ có tinh thần tự trọng cao, có thái độ tự phê bình
đúng đắn. Đồng thời ở lứa tuổi này đội ngũ học viên này giàu lòng quả cảm đầy
nghị lực, gan dạ, dũng cảm. Đó là điều kiện để thực hiện hành vi đạo đức tốt
đẹp. Song, học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần cũng
thường có thái độ nôn nóng, hấp tấp, thiếu suy tính cặn kẽ, tất nhiên không tránh
khỏi những hành động mạo hiểm, liều lĩnh. Do đó, mặc dù ý chí, nghị lực của
đội ngũ học viên này rất mạnh mẽ, nhưng họ vẫn rất cần sự định hướng, chỉ dẫn
đúng đắn và cổ vũ kịp thời để hành động có hiệu quả hơn.
Những đặc điểm mang tính đặc thù trên tác động đa dạng, nhiều chiều đến quá
trình phát triển ý thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học
viện Hậu cần. Nhận rõ những đặc điểm cơ bản của đội ngũ học viên có ý nghĩa
quan trọng, là cơ sở để xác định nội dung và lựa chọn hình thức, phương pháp bồi
dưỡng, phát triển ý thức đạo đức của người học cho phù hợp, đạt hiệu quả.
Ý thức đạo đức của học viên hậu cần cấp phân đội phát triển không tách rời
sự phát triển của thực tiễn cách mạng, phản ánh tồn tại xã hội và hoạt động hậu
cần dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của người làm công tác hậu cần
trong tương lai.
Ý thức đạo đức của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu
cần biểu hiện ở lập trường giai cấp công nhân kiên định, bản lĩnh vững vàng,
lòng tin, sự trung thành với sự nghiệp cách mạng, tinh thần triệt để và tiến công
cách mạng. Luôn đề cao trách nhiệm trong nhiệm vụ học tập và rèn luyện ở Học
viện. Nhận thức được giá trị đạo đức cao đẹp của nghĩa vụ, tình thương và sự
quý trọng bộ đội, của cần kiệm liêm chính, dũng cảm chiến đấu chống mọi kẻ
địch, chống mọi điều ác. Sự cần thiết trong kết hợp hài hoà giữa trách nhiệm
nghĩa vụ với lợi ích, lối sống lành mạnh, giản dị với thái độ làm việc sáng tạo
21
khoa học và động cơ học tập phát triển tài năng, nâng cao năng lực hoàn thành
nhiệm vụ, giàu lòng nhân ái, đoàn kết quan tâm đến người khác.
Người học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần luôn cần
cù, chịu khó, khắc phục khó khăn gian khổ, chuyên cần trong mọi lúc mọi nơi,
siêng năng trong học tập, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tận dụng triệt để thời gian
để học tập và nghiên cứu khoa học, tích cực tìm tòi, cải tạo, sáng kiến các cách
làm có hiệu quả, vận dụng sáng tạo các tri thức vào quá trình học tập. Mỗi học
viên cần nhận thấy, việc học tập hôm nay là để phục vụ cho công việc ở thao
trường, ở chiến trường ngày mai. Vì vậy, người học viên phải có tinh thần chiến
đấu hy sinh, khắc phục khó khăn như người chiến sĩ trực tiếp cầm súng ngoài
mặt trận. Bởi lẽ: “Công việc cung cấp cũng quan trọng như công việc trực tiếp
đánh giặc trước mặt trận” [40, tr.295].
Mỗi học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội, không chỉ có lý tưởng cách
mạng, những khẩu hiệu chung chung, hay chỉ dừng lại ở nhận thức giản đơn, mà
nó cần được thể hiện bằng những hành động cụ thể, bằng công việc hàng ngày.
Họ biết quí trọng, giữ gìn tài sản, vật chất trang bị, kỹ thuật, lương thực, thực
phẩm, tiền bạc mà Nhà nước, Quân đội đầu tư cho đơn vị. Biết coi trọng thời
gian trong quá trình học tập, gắn với việc tự học tập, tự rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức bản thân, khắc phục những khó khăn gian khổ, tích cực tăng gia sản xuất cải
thiện đời sống, đấu tranh với các hiện tượng chây lười, ngại khó khăn gian khổ.
Sự ý thức về lương tâm, danh dự của học viên cử nhân hậu cần cấp phân
đội sau này trở thành những cán bộ hậu cần còn thể hiện ở sự "săn sóc" phục
vụ bộ đội để họ "đủ ăn, đủ mặc, đủ súng, đủ thuốc" [41, tr.514], phải "yêu xe
như con quý xăng như máu” [39, tr.193]. Là những người sau này trở thành
cán bộ hậu cần của Quân đội thì "bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu
mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội
chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt" [38, tr.207].
- Xem thêm -