Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội ở các vùng nông thôn nước ta -...

Tài liệu Phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội ở các vùng nông thôn nước ta - thực trạng và giải pháp

.PDF
283
6689
14

Mô tả:

VIỆN Xà HỘI HỌC BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI PHÁT TRIỂN Xà HỘI VÀ QUẢN LÝ SỰ PHÁT TRIỂN Xà HỘI Ở CÁC VÙNG NÔNG THÔN NƯỚC TA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CNĐT : NGUYỄN CHÍ DŨNG 8177 HÀ NỘI – 2010 MỤC LỤC A. Tổng quan quá trình nghiên cứu. ………………………………………Tr. 5 B. Phân tích và tổng hợp các kết quả nghiên cứu …………………………..Tr.9 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN Xà HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN Xà HỘI Ở CÁC VÙNG NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY. ……………………………………………………………Tr.9 1. Cơ sở lý luận của Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Việt Nam: ………………………………………………….Tr.9 1.1. Khái niệm về Phát triển và phát triển xã hội:……………………..Tr.9 1.2.Quản lý và quản lý phát triển xã hội: …………………………….Tr.14 1.3. Nông thôn và quản lý PTXH nông thôn: ………………………..Tr16 1.4. Lý luận Mác xít và một số lý thuyết về PTXH Và QLPTXH:…. Tr.21 1.5. T− t−ëng Hå ChÝ Minh, quan ®iÓm cña §¶ng Céng s¶n và Nhà n−íc ViÖt Nam vÒ ph¸t triÓn x· héi vµ qu¶n lý ph¸t triÓn x· héi n«ng th«n. ……Tr.25 2. Cơ sở thực tiễn của Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nông thôn Việt Nam: ………………………………………………………Tr.35 2.1. Phát triển xã hội nông thôn Việt Nam trong Lịch sử …………...Tr.35 2.2. Một số vấn đề thực tiễn trong quản lý phát triển xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay …………………………………………………………...Tr.46 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN Xà HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN Xà HỘI Ở CÁC VÙNG NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY ………………... Tr.54 1. Xây dựng, phát triển và quản lý kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay. …………………………………………………….Tr. 54 2. Thực hiện chương trình dân số phát triển, nâng cao chất lượng dân số, giải quyết việc làm ở các vùng nông thôn nước ta hiện nay. ……………...Tr.79 3. Điều chỉnh phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo – vấn đề quan trọng của quản lý phát triển xã hội nông thôn hiện nay ………………….Tr.110 4. Đảm bảo an sinh xã hội – yếu tố quan trọng để PTXH bền vững ở các vùng nông thôn hiện nay………………………………………………… Tr.126 2 5. Giảm thiểu ô nhiễm môi trường tự nhiên, quản lý tốt môi trường xã hội – xây dựng cộng đồng văn hoá an toàn ………………………Tr.150 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN Xà HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN Xà HỘI BỀN VỮNG Ở CÁC VÙNG NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẾN NĂM 2020. ……………………………………Tr.183 1. CNH - HĐH và những tác động của nó với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Việt Nam. ……………………Tr.183 2. Một số quan điểm cần quán triệt trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Việt Nam. Tr.188 3. Một số giải pháp nhằm phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững ở các vùng nông thôn Việt Nam. Tr.191 4. Một số khuyến nghị nhằm phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững ở các vùng nông thôn Việt Nam đến năm 2020. Tr.206 Tài liệu tham khảo. ………………………………………………Tr.215 3 Các chữ viết tắt - ASXH: An sinh xã hội - BHXH: Bảo hiểm xã hội - Bộ LĐTB&XH: Bộ Lao động thương binh và xã hội - CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa - CNXH: Chủ nghĩa xã hội - CSSKSS: Chăm sóc sức khỏe sinh sản - DS-KHHGĐ: Dân số – kế hoạch hóa gia đình - DSPT: Dân số phát triển - ĐTH: Đô thị hóa - Học viện CT-HC QG HCM: Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - HTX: Hợp tác xã - KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình - KT-XH: Kinh tế – xã hội - P/c TNXH: Phòng chống tệ nạn xã hội - PTTH: Phổ thông trung học - PTXH: Phát triển xã hội - QLPTXH: Quản lý phát triển xã hội - SKSS: Sức khỏe sinh sản - TNMD: Tệ nạn mại dâm - TNMT: Tệ nạn ma túy - UBND: Ủy ban nhân dân - XHCN: Xã hội chủ nghĩa 4 BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀTÀI: “PHÁT TRIỂN Xà HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN Xà HỘI Ở CÁC VÙNG NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP” Mã Số: KX 02.08/06-10 A. Tổng quan quá trình nghiên cứu: Đề tài cấp nhà nước: “ Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn nước ta hiện nay- Thực trạng và giải pháp”. (mã số KX0208/06-10) là một trong những đề tài thuộc chương trình nghiên cứu khoa học xã hội cấp nhà nước – mã số KX02. Đây là chương trình nghiên cứu tổng hợp, có hệ thống về vấn đề phát triển xã hội (PTXH) và quản lý phát triển xã hội (QLPTXH) ở các vùng, các lĩnh vực, các hoạt động khác nhau của xã hội Việt Nam. Đề tài KX02-08/06-10: “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp” là đề tài tập trung nghiên cứu về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thông Việt Nam hiện nay. Đây là lĩnh vực mà Việt Nam đã quan tâm, nghiên cứu và ứng dụng từ lâu, nhưng kết quả chưa nhiều. Hiện tại, tuy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về những vấn đề khác nhau của nông nghiệp nông thôn và nông dân. Đặc biệt gần đây, nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ 7 khoá X đã khẳng định lại những quan điểm, nguyên tắc cơ bản, chính yếu trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, triển khai mới bước đầu. Phát triển kinh tế nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH – HĐH), giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình này đang là những nhiệm vụ xã hội cấp thiết của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp nông dân và nông thôn nước ta. CNH, HĐH, ĐTH (đô thị hoá) đang làm thay đổi nhiều vùng nông thôn Việt Nam.Song song với những ảnh hưởng tích cực, tiến bộ, không ít vấn đề tiêu cực trong phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội đang đặt ra. Giải quyết những vấn đề này không dễ dàng. Do vậy, nghiên cứu, tìm hiểu để góp phần định hướng giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình phát 5 triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân đang là vấn đề xã hội cấp thiết. Đáp ứng yêu cầu này, đề tài nghiên cứu cấp nhà nước: “phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp” đã được triển khai thực hiện. Mục tiêu của đề tài là: 1. Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Việt Nam hiện nay. 2. Đánh giá chính xác thực trạng, xu hướng phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nông thôn Việt Nam dưới tác động của kinh tế thị trường, công nhiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá. 3. Đề xuất các giải pháp và khuyến nghị nhằm phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nông thôn Việt Nam trong thập kỷ tới. Để đạt được những mục tiêu trên, đề tài hướng đến việc làm rõ những nội dung, nghiên cứu sau đây: Thứ nhất: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Việt Nam. Thứ hai: Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ xã hội, đảm bảo phát triển xã hội bền vững ở các vùng nông thôn Việt Nam. Thứ ba: Điều chỉnh phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Thứ tư: Thực hiện chương trình dân số phát triển (DS-PT) giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng dân số. Thứ năm: Điều chỉnh mâu thuẫn, xung đột xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội (TNXH), xây dựng cộng đồng văn hoá an toàn. Thứ sáu: Đảm bảo an sinh xã hội (ASXH), thực hiện các chính sách xã hội (CSXH), phát triển xã hội bền vững(PTXHBV). Thứ bảy: Giảm thiểu ô nhiễm môi trường tự nhiên, quản lý tốt môi trường xã hội, phát triển xã hội bền vững. Để góp phần bổ sung, sửa đổi, hoàn chỉnh các CSXH giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh, đề tài đã phân tích, tổng hợp và đưa ra một số kết luận, giải pháp và khuyến nghị giúp quản lý phát triển xã hội nông thôn một cách khoa học, hợp lý. 6 Thực hiện tốt những nhiệm vụ mà đề tài đã xác định ở trên, Ban chủ nhiệm đề tài đã đề ra và thực hiện các hoạt động sau: Một là, thu thập, xử lý, phân tích và tổng hợp các tư liệu, sách, công trình nghiên cứu, bài báo, tạp chí và những thông tin, thống kê…đã có về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội nông thôn. Hai là, đặt viết và tổng hợp 34 chuyên đề độc lập về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội nông thôn - lịch sử và hiện tại. 34 chuyên đề này phản ánh những vấn đề lý thuyết, thực tiễn và kinh nghiệm quản lý phát triển xã hội nông thôn ở Việt Nam cũng như ở các nước phương Đông và phương Tây (xem kỷ yếu Hội thảo). Ba là, giao và thực hiện 7 đề tài nhánh ứng với 7 vấn đề cấp thiết của PTXH & QLPTXH ở các vùng nông thôn Việt Nam. Đó là các vấn đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ xã hội, đảm bảo phát triển xã hội bền vững ở các vùng nông thôn Việt Nam; điều chỉnh phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội; thực hiện chương trình dân số phát triển (DS-PT) giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng dân số; điều chỉnh mâu thuẫn, xung đột xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội (TNXH), xây dựng cộng đồng văn hoá an toàn; đảm bảo an sinh xã hội (ASXH), thực hiện các chính sách xã hội (CSXH), giảm thiểu ô nhiễm môi trường tự nhiên, quản lý tốt môi trường xã hội, phát triển xã hội bền vững (PTXHBV). Bốn là, điều tra xã hội học về PTXH & QLPTXH ở 8 tỉnh đại diện cho 8 vùng sinh thái của Việt Nam. Cụ thể đã điều tra ở: - Tỉnh Sơn La - đại diện cho khu vực Tây Bắc. - Tỉnh Thái Nguyên - đại diện cho khu vực Đông Bắc. - Tỉnh Hưng Yên - đại diện cho khu vực Đồng bằng Bắc Bộ. - Tỉnh Hà Tĩnh - đại diện cho khu vực Bắc miền Trung. - Tỉnh Bình Định - đại diện cho khu vực Ven biển miền Trung. - Tỉnh Kon Tum - đại diện cho khu vực Tây Nguyên. - Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - đại diện cho khu vực Đông Nam Bộ. - Tỉnh An Giang - đại diện cho khu vực Tay Nam Bộ. 7 Ở 8 tỉnh này, nhóm nghiên cứu đã phát và thu về : 694 phiếu dành cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và 798 phiếu dành cho cộng đồng. Phiếu được phát theo cách lấy mẫu hệ thống, khởi đầu ngẫu nhiên có tính tới đặc trưng sinh thái vùng. Ngoài ra, cuộc điều tra còn được tiến hành với 80 Phỏng vấn sâu ( PVS) và 56 thảo luận nhóm tập trung để làm rõ những lĩnh vực phát triển xã hội và quản lý PTXH mà Việt Nam đang quan tâm giải quyết. Bên cạnh đó, các nhóm điều tra còn phát và thu ở mỗi địa bàn nghiên cứu 5 biểu thống kê về tình hình phát triển kinh tế xã hội và về những lĩnh vực PTXH & QLPTXH. Những bảng thống kê này đã được tập hợp, phân tích, tổng hợp để góp phần đưa ra những kết luận chính xác về PTXH & QLPTXH ở các vùng nông thôn Việt Nam. 8 B. Phân tích và tổng hợp các kết quả nghiên cứu CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN Xà HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN Xà HỘI Ở CÁC VÙNG NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY. 1.Cơ sở lý luận của Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Việt Nam 1.1. Khái niệm về Phát triển và phát triển xã hội 1.1.1.Khái niệm về Phát triển “Phát triển” là phạm trù được không ít khoa học nghiên cứu. Dưới góc độ triết học, “Phát triển” là kết quả tất yếu của quá trình vận động, biến đổi không ngừng của các sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan. “Phát triển” xuất hiện khi sự vật và hiện tượng vận động, tương tác với nhau làm nảy sinh những sự vật và hiện tượng mới, đặc biệt khi mà trạng thái cân bằng động giữa các mặt đối lập mất đi, mâu thuẫn được giải quyết. Sự tăng lên về lượng đạt đến độ giới hạn của nó, sự vật, hiện tượng mới xuất hiện với chất cao hơn. Đây chính là quá trình phát triển. Như vậy, “phát triển” là một thuộc tính của vật chất, là kết quả của quá trình vận động, biến đổi không ngừng của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Dưới góc độ các khoa học kinh tế , “phát triển” được xem xét dưới nhiều cấp độ khác nhau. Dưới cấp độ sơ đẳng nhất, “phát triển” được hiểu như sự tăng trưởng đơn thuần về lượng. Ở đây, sự mở rộng của các ngành, các lĩnh vực kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ…được coi như sự phát triển. Tuy nhiên, đấy mới chỉ là sự phát triển về lượng. Trong kinh tế, phát triển còn được xem xét dưới góc độ chất. Trong đó, không chỉ có sự tăng trưởng, mở rộng của các ngành mà còn là sự tăng lên về chất của các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Ở đây, sự thay đổi về kỹ thuật sản xuất từ lạc hậu lên tiên tiến, sự nâng cao về năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc và sự phát triển về kỹ năng, tay nghề, trình độ tổ chức quản lý của người lao động… là những chỉ báo đánh giá sự phát triển về chất trong kinh tế. Các Mác và nhiều nhà kinh điển Mác xít đã từng tổng kết sự phát triển về kinh tế là sự phát triển, tiến bộ trong cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất. Trong đó, sự tăng trưởng của lực lượng sản xuất đến một độ nào đó đòi hỏi một kiểu tổ chức sản xuất mới 9 với một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời. Đấy chính là sự phát triển tiến bộ cả về kinh tế lẫn xã hội. Dưới góc nhìn về xã hội học, phát triển được hiểu như sự vận động, biến đổi theo chiều hướng tiến bộ của một hệ thống xã hội. Trong đó, mỗi nhóm người, mỗi tầng lớp xã hội, mỗi cộng đồng xã hội, mỗi chủ thể xã hội tự hoàn thiện mình để đóng được những vai trò xã hội ứng với những vị thế xã hội mà chúng đang chiếm giữ. Phát triển như thế vừa là sự vận động biến đổi của hệ thống xã hội theo những quy luật khách quan, vừa là sự điều chỉnh vị thế, vai trò của các chủ thể cho phù hợp với xu hướng vận động, biến đổi cho tiến bộ xã hội. Phát triển theo hướng này chính là quá trình thích ứng để hoàn thiện của từng cá nhân, từng nhóm, từng chủ thể theo những chuẩn mực xã hội đang biến đổi. Ở cấp độ vĩ mô, phát triển xã hội chính là phát triển cộng đồng. Trong đó phát triển làm cho cộng đồng thống nhất hơn, ổn định hơn, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc nâng cao chất lượng sống của mỗi con người và của toàn bộ hệ thống xã hội. Như vậy, dù hiểu theo nghĩa nào, “phát triển” chính là sự vận động, biến đổi theo chiều hướng đi lên của một sự vật và hiện tượng. Đấy là một quá trình phát triển diễn ra từ từ, từng bước thường được gọi là sự tiến hoá. Còn phát triển như một sự đột biến, nhảy vọt, chuyển đổi hẳn về chất là “cách mạng”. 1.1.2. Quan niệm về “xã hội” “Xã hội” là khái niệm chỉ một thực tại khách quan liên quan đến con người và mối quan hệ giữa con người với con người. Hiện tại “xã hội” đang được hiểu theo hai nghĩa “rộng”, “hẹp” khác nhau. Theo nghĩa rộng, “xã hội” là tất cả những gì thuộc con người và mối quan hệ của con người nhằm phân biệt nó với cái “tự nhiên”, “xã hội” theo nghĩa này bao gồm toàn bộ những cá nhân con người liên kết nhau thành một hệ thống xác định. Trong đó, con người liên hệ nhau thông qua cả mạng lưới các quan hệ kinh tế (quan hệ trong sản xuất), quan hệ chính trị (quan hệ quyền lực); quan hệ văn hoá (quan hệ dựa trên nền tảng hệ giá trị và chuẩn mực của một nền văn hoá được định hình trong lịch sử) và quan hệ tư tưởng, tinh thần (tư tưởng giai cấp, tư tưởng dân tộc và tư tưởng tôn giáo). “Xã hội” theo nghĩa rông này là tổng thể những người, những nhóm người, những tầng lớp người và những cộng đồng người gắn bó nhau cả về kinh tế, chính trị, văn hoá và tư tưởng. “Xã hội” theo nghĩa 10 rộng không được dùng trong các khái niệm như: Chính sách xã hội, đạo đức xã hội, phát triển xã hội … “Xã hội” dùng trong các khái niệm trên là “cái” “Xã hội” theo nghĩa hẹp. Ở đây, “xã hội” được hiểu như con người cụ thể với những mối quan hệ của họ tồn tại như mục đích, mục tiêu, cái cần phải đạt tới của các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng. Ở một góc độ nào đó, “xã hội” theo nghĩa hẹp chính là con người với tất cả ý nghĩa nhân văn, nhân đạo của nó. Nghĩa là, con người tồn tại như tâm điểm, như mục đích tối cao của tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng hướng vào, làm cho cuộc sống của mỗi người, mỗi nhóm người và cả cộng đồng người ngày một nhân văn hơn, tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn. Xét dưới góc độ triết học, “xã hội” theo nghĩa hẹp chính là cái chung nằm trong những cái riêng. Nghĩa là khía cạnh con người, quan hệ con người với con người - chủ nghĩa nhân văn, nhân bản, nhân đạo ở trong mỗi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá và tư tưởng. Ở đây, xã hội theo nghĩa hẹp là con người tồn tại như tâm điểm, mục tiêu mà các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng của cả hệ thống xã hội phải hướng vào. Với ý nghĩa này, vấn đề xã hội là những vấn đề nảy sinh giữa con người với con người trong quá trình phát triển sản xuất, sắp xếp hệ thống quyền lực, xác định vị thế, vai trò của từng chủ thể xã hội, của mỗi con người trong quá trình tổ chức, điều hành hệ thống xã hội. Vấn đề xã hội là những vấn đề liên quan chặt chẽ đến chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn, nhân bản của con người. Giải quyết vấn đề xã hội sẽ làm cho hệ thống xã hội ổn định, phát triển, tiến bộ. Xã hội phồn vinh, hạnh phúc. Mỗi chủ thể - người có điều kiện và khả năng phát huy hết tài năng và thế mạnh của mình. 1.1.3. Phát triển xã hội Nếu “xã hội” đang được hiểu theo hai nghĩa rộng, hẹp như trên thì “Phát triển xã hội” cũng cần được hiểu theo hai nghĩa này.Trước hết, theo nghĩa rộng, “phát triển xã hội” là sự tăng trưởng, mở rộng về cả bề rộng lẫn chiều sâu của hệ thống xã hội. Trong đó, sự tăng trưởng về kinh tế bao gồm sự mở rộng các lĩnh vực, các ngành sản xuất, cả công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ… Chỉ số hiệu quả cuối cùng chính là tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Về chính trị, hệ thông quyền lực xã hội được thiết lập, củng cố và vận hành 11 theo đúng những quy luật vốn có của nó. Trong đó, hệ thống luật pháp được hoàn thiện; hệ thống quyền lực xã hội được tổ chức và vận hành đúng theo những chuẩn mực mà luật pháp quy định. Vì thế, vai trò của các nhóm, các tầng lớp xã hội được xác lập theo đúng thực lực mà chúng hiện có và theo đúng sự chi phối của những quy luật khách quan mà xã hội đang vận động, biến đổi, tuân theo. Về mặt xã hội, nhân tố con người được phát huy. Những giá trị nhân đạo, nhân văn được bảo vệ. Nhiều vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phân tích và giải quyết. Phát triển xã hội là làm cho xã hội vừa mở rộng về quy mô, vừa tăng cường chất lượng của toàn hệ thống, của cộng đồng, Theo nghĩa hẹp, phát triển xã hội là phát triển con người, là nâng cao chất lượng sống của mỗi người và của từng nhóm xã hội. Như vậy, muốn phát triển xã hội phải đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề con người, những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh, trong giải quyết các vấn đề chính trị, văn hoá, tư tưởng. Nghĩa là giải quyết vấn đề con người, vấn đề nhân văn, nhân đạo trong quá trình phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, sắp xếp hệ thống quyền lực xã hội, thực hiện các hoạt động nhằm xây dựng và phát triển về văn hoá, ổn định về tư tưởng, định hướng tiến bộ, văn minh cho mỗi con người và cho cả xã hội. Phát triển xã hội, theo nghĩa này là phát triển toàn diện con người, tạo môi trường thuận lợi cho mối quan hệ của con người với con người được công bằng, bình đẳng… phát triển xã hội thường được đo bằng những chỉ báo trên những lĩnh vực sau đây: Thứ nhất: Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nhằm đảm bảo điều kiện lao động sản xuất và điều kiện sống cho cộng đồng dân cư. Ở đây, hệ thống cấp điện, cấp nước, cung cấp thông tin, cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ giáo dục, dịch vụ thương mại, dịch vụ đi lại và dịch vụ nghỉ ngơi vui chơi, giải trí… là quan trọng nhất. Đây là những dịch vụ vừa phục vụ cho sự phát triển kinh tế, vừa nâng cao chất lượng sống cho mọi người dân và cho cả cộng đồng. Trong thời đại kinh tế tri thức,dịch vụ thông tin và giáo dục phải được coi trọng hang đầu. PTXH phải đặc biệt chú ý phát triển những hệ thống dịch vụ này. 12 Thứ hai: Phát triển xã hội là phải quan tâm giải quyết vấn đề dân số, vấn đề lao động và việc làm. Đây là một trong những lĩnh vực quan trọng của đời sống mỗi người, mỗi gia đình và cả xã hội. Để đảm bảo sự phát triển xã hội bền vững phải đặc biệt quan tâm vấn đề này. Bởi lẽ quy mô dân số, cơ cấu dân số và phân bổ dân số sẽ ảnh hưởng quyết định vấn đề lao động, việc làm. Xã hội sẽ phát triển, ổn định thế nào phụ thuộc không ít vào những yếu tố này. Thứ ba: Phát triển xã hội liên quan đến thực hiện sự công bằng và bình đẳng xã hội. Vấn đề này chịu tác động không nhỏ của tình trạng phân tầng xã hội và phân hoá giàu nghèo. Do vậy, phân tầng và phân hoá giàu nghèo càng cao, bất bình đẳng xã hội càng nhiều, phân cực xã hội càng gay gắt và nguy cơ bùng nổ xã hội càng lớn. Sự phát triển xã hội càng thiếu bền vững. Thứ tư: Phát triển xã hội còn là việc đảm bảo an sinh xã hội() cho mỗi người và cho cả cộng đồng. Ở đây, việc quan tâm giải quyết những vấn đề về y tế, giáo dục, về trợ giúp những nhóm người yếu thế, bị thiên tai, địch hoạ, già cả, cô đơn, tàn tật, nghèo đói, dịch bệnh, mồ côi… là hết sức cần thiết. Ngoài ra phải hết sức chú ý quan điểm về giới, thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện để xã hội phát triển ổn định, bền vững với tất cả tính nhân đạo, nhân văn của nó. Thứ năm: Con người sống ngoài yếu tố cá nhân còn phải liên kết cộng đồng. Phát triển xã hội là làm cho cộng đồng giảm mâu thuẫn, xung đột. Những yếu tố làm bất ổn định trong cộng đồng như sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc, văn hoá vùng…cần được quan tâm giải quyết. Phát triển xã hội là làm cho cộng đồng sống có văn hoá và an toàn. Trong đó sự đa dạng về văn hoá cần được tôn trọng. Những yếu tố tiến bộ, đặc sắc về văn hoá cần được giữ gìn và phát huy. Những tệ nạn xã hội được đẩy lùi. Tai nạn, thương tích phải được giảm bớt. Thứ sáu: phát triển xã hội, nhất là phát triển bền vững cần quan tâm giải quyết vấn đề môi trường. Phát triển hiện nay cần đảm bảo tương lai cho con cháu ngày mai. Ở đây phải làm sao phát triển không làm mất cân bằng hệ sinh thái, phải chống ô nhiễm môi trường nước, môi trường đất và môi trường không khí; phải làm sao thảm thực vật và các loài động vật được bảo tồn. Biến đổi khí hậu do hoạt động của con người cần được ngăn chặn và giảm thiểu tác động. 13 Đây là sáu nội dung quan trọng mà phát triển xã hội, nhất là phát triển bền vững phải quan tâm giải quyết. 1.2.Quản lý và quản lý phát triển xã hội: 1.2.1.Khái niệm quản lý: Như mọi người đều biết “Quản lý” là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý vào đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đẫ được xác định trước. Như vậy, trong quản lý bao giờ cũng có hai yếu tố – chủ thể và khách thể trong mối quan hệ, tác động lẫn nhau. Các thành tố của chủ thể và khách thể thế nào? đặc trưng của chúng ra sao? Chúng tồn tại trong môi trường tự nhiên và xã hội nào? Quan hệ của chúng dựa trên cơ sở nào? Cách thức liên hệ của chúng thế nào? Theo những nguyên tắc nào và nhất là bị chi phối bởi những quy luật và tính quy luật nào?... Tât cả sẽ quy định kiểu loại, mô hình, cách thức quản lý trong từng hệ thống tổ chức. Thông thường, người ta phân chia quản lý thành hai loại: Quản lý các vật thể, vật chất tự nhiên, nhân tạo và quản lý xã hội. Nhưng dù cho quản lý ở loại hình nào thì đây cũng chính là quá trình tác động bằng những cách thức khác nhau của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý nhằm đạt tới những mục tiêu đã được xác định trước. Vì vậy, quản lý chính là quá trình xác định của chủ thể quản lý về các mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp tác động, mô hình tổ chức, thực hiện và kiểm tra giám sát. Ở đây, người ta có thể căn cứ vào chủ thể quản lý, khách thể quản lý, phương thức tác động hoặc mô hình tổ chức, thực hiện sự quản lý mà phân chia các loại hình quản lý như: quản lý xã hội, quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý nhân sự, quản lý vật tư, kỹ thuật, quản lý nhà ở... 1.2.2.Quản lý PTXH Trong quản lý xã hội, cả chủ thể quản lý và khách thể quản lý đều là con người. Đây không chỉ là những thực thể sống đơn thuần mà là những sinh vật có ý thức, có tình cảm, có lý trí và có quan hệ xã hội được cụ thể hoá thành những giá trị và chuẩn mực mà mọi người sống trong một xã hội xác định phải tuân theo. Quản lý xã hội, vì vậy, là quá trình điều chỉnh những mối quan hệ phức tạp, đa chiều, nhiều biến động và đôi khi bị che lấp bởi những hiện tượng và sự kiện xã hội khác. Quản lý xã hội, suy cho cùng là việc các chủ thể quản lý - một người, một nhóm người, một tầng lớp xã hội...- thông qua những 14 phương thức hoạt động khác nhau mà tác động vào quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hoá, tư tưởng, tinh thần, tình cảm của những người khác, những chủ thể khác nhằm hướng hoạt động của họ đến những mục tiêu đã được xác định trước.Để làm được điều này, cần phải làm rõ từng thành tố của quá trình quản lý. Những thành tố này bao gồm: - Các chủ thể quản lý, khách thể quản lý, trong đó phải đặc biệt chú ý tới mô hình tổ chức và đặc điểm các mối quan hệ của các chủ thể và khách thể quản lý. - Các vai trò và kỹ năng quản lý. - Các mắt khâu của quá trình quản lý, trong đó đặc biệt là thông tin và cách thức truyền thông trong hệ thống quản lý. - Hệ thống điều hành, kiểm tra, giám sát với tất cả những đặc trưng của hệ thống này. Xã hội con người lại vận động và biến hoá không ngừng. Do vậy, quản lý xã hội là quá trình quản lý sự vận động và phát triển của xã hội. ở đây, để xã hội vận động và phát triển theo đúng những quy luật và yêu cầu của nó, phải chú ý tới những nhu cầu của mỗi chủ thể. Trong đó, chủ thể lớn là những nhóm, những tập đoàn xã hội, những cộng đồng xã hội( Nhóm thứ cấp) và cả chủ thể nhỏ là mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi nhóm xã hội nhỏ (nhóm sơ cấp). Quản lý sự phát triển của xã hội là quản lý những yếu tố, những mối liên hệ, những điều kiện vật chất và tinh thần làm cho xã hội phát triển theo hướng ngày càng ổn định, tiến bộ và văn minh hơn. Để làm được điều này, kinh nghiệm lịch sử cho thấy, cần phải tăng cường quản lý những lĩnh vực sau đây: Thứ nhất: Quản lý việc xây dựng và phát triển trên cơ sơ hạ tầng kinh tếxã hội gồm hệ thống những cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc nâng cao đời sống, chất lượng sống của con ngươơì như: hệ thống giao thông, hệ thống điện, hệ thống cấp nước, hệ thống trường học, hệ thống y tế, hệ thống thông tin, truyền thông và hệ thống các dịch vụ xã hội khác... Thứ hai: Kiểm soát các quá trình dân số, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, nâng cao chất lượng dân số, giải quyết việc làm, chống thất nghiệp, đảm bảo việc làm phù hợp với khả năng của mỗi người, mỗi nhóm xã hội. Thứ ba: Điều chỉnh sự phân tầng xã hội, phân hoá giầu nghèo, thực hiện công bằng xã hội. 15 Thứ tư: Tăng cường dịch vụ giáo dục, y tế, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống có hiệu quả các loại bệnh tật. Thực hiện tốt các chính sách đảm bảo xã hội, ưu đãi xã hội, quan tâm tới nhóm người bị thiệt thòi, yếu thế; thực hiện tốt an sinh xã hội Thứ năm: Phòng chống các tệ nạn xã hội, tội phạm, xây dựng cộng đồng văn hoá an toàn. Thứ sáu: Bảo vệ tốt môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, tạo điều kiện để phát triển xã hội bền vững. 1.3. Nông thôn và quản lý PTXH nông thôn: 1.3.1.Nông thôn: Nông thôn là khái niệm chỉ hệ thống cộng đồng xã hội lãnh thổ được hình thành trong quá trình phân công lao động xã hội mà ở đó mật độ dân cư tương đối thấp; lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, mối quan hệ cộng đồng chặt chẽ; do vậy, lối sống, phương thức sống của cộng đồng dân cư nông thôn khác biệt cộng đồng dân cư thành thị. Đặc trưng cơ bản của cộng đồng dân cư nông thôn khác thành thị ở những điểm sau: Thứ nhất: Dân cư là nông dân với hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) chiếm tỷ trọng lớn. Thứ hai: Mật độ dân cư thấp, sống gắn bó chặt chẽ với môi trường tự nhiên Thứ ba: Tính cố kết cộng đồng cao. Ngoài sự gắn bó thông qua quan hệ làng xã, cư dân nông thôn còn gắn bó nhau thông qua quan hệ thân tộc (dòng họ). Thứ tư: So với cộng đồng dân cư thành thị, cộng đồng dân cư nông thôn tiếp cận với thông tin ít hơn, chậm hơn; tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y tế, vắn hoá, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí thấp hơn, phong tục tập quán lạc hâu hơn. Thứ năm: Ở nông thôn, quan hệ ứng xử xã hội của các thành viên trong cộng đồng nặng về tục lệ truyền thống hơn là pháp lý được quy định bởi nhà nước (phép vua thua lệ làng). Thứ sáu: So với thành thị, cộng đồng dân cư nông thôn thường mang tính thuần nhất hơn; hướng dịch chuyển xã hội cũng khác hơn. Những người có học vấn cao, chuyên môn giỏi thường di động dọc và ra các thành phố. Số còn lại di động ngang giữa các vùng và giữa các ngành, nghề. 16 Thứ bảy: về văn hoá, ở nông thôn văn hoá của cộng đồng dân cư mang đậm nét dân gian. Đây là cái nôi nuôi dưỡng và lưu truyền những tập tục, tín ngưỡng, văn hoá truyền thống. Nông thôn Việt Nam, ngoài những đặc trưng trên còn những điều khác biệt: Một là, dân cư nông thôn Việt Nam chủ yếu là nông dân trồng lua nước. Bình quân ruộng đất thấp. Sản xuất trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Giai cấp nông dân và dân cư nông thôn luôn phải đấu tranh khắc phục những hậu quả thiên tai như gió bão, lụt lội, hạn hán, sâu bệnh, mất mùa…hoàn cảnh này, hun đúc những người nông dân Việt Nam đức tính cần cù, chịu khó, bền bỉ, dẻo dai. Hai là, Việt Nam là một nước phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài, tàn khốc. Chính xã hội nông thôn với cộng đồng làng xã đã tạo thành những pháo đài kháng chiến bất khả xâm phạm, bảo tồn cả những giá trị văn hoá truyền thống của xã hội Việt Nam. Anh hùng, dũng cảm đấy là truyền thống quý báu của cả dân tộc Việt Nam, trước hết là của cộng đồng dân cư nông thôn Việt Nam. Ba là, cộng đồng dân tộc Việt Nam bao gồm cả cộng đồng dân cư nông thôn là cộng đồng đa sắc tộc và đa tôn giáo. Song đây là cộng đồng dân cư có truyền thống đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam một phần lớn phụ thuộc sức sống trường tồn của các làng, xã Việt Nam đã tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử. Ở đây, tình yêu thương, đùm bọc, gắn bó: “tắt lửa tối đèn có nhau”đã trở thành truyền thống quý báu của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhất là cộng đồng dân cư ở trong các làng, xã Việt Nam. Bốn là, xã hội truyên thống ở nông thôn Việt Nam là xã hội của những người tiểu nông, sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, tư liệu sản xuất thủ công, lạc hậu, năng suất thấp. Do vậy, tư tưởng ít nhiều bảo thủ, tầm nhìn hạn chế; Lối sống của người tiểu nông với không ít phong tục tập quán lạc hậu, bảo thủ còn tồn tại và tác động không nhỏ tới sự phát triển cộng đồng. Từ sau cách mạng tháng tám, nhất là từ sau khi chuyển sang kinh tế thị trường, mở cửa, đổi mới. Nông thôn Việt Nam đã biến đổi. Tuy nhiên, do thời gian chưa nhiều, ảnh hưởng của những nhân tố mới chưa thể tạo ra nhiều thay 17 đổi có tính quyết định nên trình độ phát triển của xã hội nông thôn Việt Nam chưa cao; mức sống của cộng đồng còn thấp; tàn dư những tập tục lạc hậu còn nặng; tình trạng này cần đặc biệt chú ý ở những vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Năm là, xã hội nông thôn Việt Nam đang được phân chia thành những khu vực có đặc điểm phát triển kinh tế xã hội khá khác nhau: (Bắc, Trung, Nam; Miền núi, Trung du, đồng bằng, ven biển; đồng bằng Bắc bộ, đồng bằng Nam bộ…). Ở mỗi vùng này, trình độ phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội đang khá khác nhau, do vậy, quản lý sự phát triển xã hội phải chú ý những đặc điểm này. Như vậy là, cũng như nông thôn của nhiều nước khác, nông thôn Việt Nam có những đặc trưng chung về phát triển. Trong đó, trình độ phát triển kinh tế xã hội chưa cao, nghề nghiệp của cư dân chủ yếu là trông trọt, chăn nuôi. Kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, lối sống người sản xuất nhỏ còn chiếm ưu thế. Tuy nhiên, ở nông thôn Việt Nam, tính cố kết cộng đồng cao. Thiết chế làng xã tồn tại cùng thiết chế gia đình, dòng tộc tạo sự gắn kết khá chặt chẽ giữa các thành viên của cộng đồng tạo nên sắc thái đặc thù của xã hội nông thôn. Đây là điểm cần đặc biệt chú ý trong nghiên cứu về phát triển xã hội và quản lý PTXH ở nông thôn Việt Nam. 1.3.2. Quản lý phát triển xã hội ở Nông thôn Việt Nam: Đặc trưng của một loại hình quản lý nào đó, nhất là quản lý xã hội phụ thuộc vào đặc điểm, hoàn cảnh, cách thức tư duy, quan điểm chính trị, hệ giá trị chuẩn mực của cả chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Xét đặc trưng của quản lý sự phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay cần phải tính đầy đủ đến những yếu tố này. - Trước hết, cần phải thấy rằng, việc quản lý sự phát triển xã hội ở nông thôn Việt Nam diễn ra trên nền tảng một nền sản xuất đang trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công, sản phẩm hàng hoá ít, năng xuất lao động thấp, sang nền sản xuất lớn, kỹ thuật hiện đại, sản phẩm hàng hoá ngày một tăng. Dù cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH) đang được đẩy mạnh, đầu tư từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư từ nước ngoài ngày một tăng cường, song quá trình này mới bắt đầu. Điều kiện vật chất để đầu tư cho sự phát triển xã hội đang còn ít. Phân tầng xã hội và phân hoá giầu nghèo lại có xu 18 hướng tăng cao. Bất bình đẳng và bất công xã hội còn lớn. Quản lý sự phát triển xã hội trong điều kiện này phải giải quyết mâu thuẫn giữa mong muốn và nhu cầu nâng cao chất lượng sống của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là dân cư các vùng nông thôn với những khả năng còn rất hạn chế trong huy động các nguồn lực. Chính sự bất cập giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội là đặc trưng quan trọng đầu tiên của việc quản lý sự phát triển xã hội bền vững ở nông thôn nước ta hiện nay. Điều này khiến cho việc quản lý sự phất triển xã hội, thực hiện chính sách xã hội phải xuất phát từ chính trình trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mỗi hoạt động của nhà quản lý, nếu không xuất phát từ sự phát triển của nền sản xuất đều đưa đến những thái quá làm thiệt hại cho chính sự ổn định và phát triển xã hội. - Nước ta đang trong quá trình mở cửa, đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, Cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp đang được xoá bỏ song những di chứng và ảnh hưởng của nó đang còn khá nặng nề trong cách nghĩ, cách làm, cách tổ chức và chỉ đạo của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Biểu hiện cụ thể là: Còn hiện tượng cửa quyền, quan liêu, sách nhiễu và đặc biệt là tệ nạn tham nhũng đang còn rất trầm trọng trong nhiều mắt khâu của quá trình quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Cơ chế quản lý cũ – hành chính, quan liêu, bao cấp chưa mất hẳn. Cơ chế quản lý mới dựa trên những quy luật và nguyên tắc của thị trường chưa được xác lập hoàn toàn. Một số khâu trong quản lý nhà nước vẫn còn hiện tượng xin – cho. Cơ chế quản lý hành chính, bao cấp chưa bị xoá bỏ triệt để, cơ chế quản lý mới, thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác lập đầy đủ . Đây là đặc điểm quan trọng chi phối quá trình quản lý kinh tế và quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay. Chính điều này làm cho việc quản lý, nhất là quản lý xã hội ở các vùng nông thôn còn một số mắt khâu thiếu cơ sở pháp lý, thiếu tính rõ ràng, minh bạch. - Chủ trương kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương đúng, phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội Việt nam. Chủ trương này giúp Việt nam vừa tận dụng được những ưu thế của kinh tế thị trường trong việc phát triển sản xuất, kích thích tính tích cực của người lao động, tăng năng xuất lao động xã hội, vừa tìm kiếm những giải pháp thích hợp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đến cộng đồng xã hội, đảm bảo sự phát triển xã hội bền vững. Quản lý sự phát triển của xã hội nông thôn 19 trong điều kiện đặc thù này, yêu cầu vừa phải tăng cường sự quản lý tập trung của nhà nước song lại phải chú ý phát huy cao độ vai trò làm chủ của nông dân và các tầng lớp dân cư nông thôn. Ở đây, sự kết hợp giữa những hình thức tổ chức, quản lý kinh tế và quản lý xã hội quá độ của những xã hội trước còn chưa lỗi thời với những hình thức tổ chức kinh tế, xã hội tiên tiến mà quá trình CNH – HĐH và xây dựng nền kinh tế tri thức đã tạo ra. Đây chính là một yếu tố quan trọng quy định tính đặc thù của quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Việt nam hiện nay. Trong đó quản lý sự phát triển xã hội mang cả phương thức quản lý truyền thống lẫn phương thức quản lý hiện đại về cả cách thức tổ chức, chỉ đạo và những phương thức tác động. - Cho đến nay, Việt Nam vẫn là một nước hệ thống chính trị được xây dựng trên cơ sở quan điểm nhất nguyên. Đảng cộng sản là đảng duy nhất nắm chính quyền. Đảng là hạt nhân của toàn bộ hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống này bằng chủ trương, đường lối và hệ từ tưởng của mình. Nhà nước đề ra luật pháp, chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đồng thời duy trì trật tự xã hội thông qua chức năng quản lý nhà nước các quá trình xã hội. Còn nhân dân, về nguyên tắc, tham gia quản lý nhà nước thông qua việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan dân cử, cũng như các cơ quan chấp hành (UBND). Ngoài ra, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội như Mặt Trận Tổ Quốc, Hội Cựu Chiến Binh, Hội Phụ Nữ, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh... Mô hình tổ chức quyền lực và cơ chế hoạt động của các chủ thể trong hệ thống chính trị một mặt, làm cho việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội được tập trung, các nguồn lực được tập hợp và phân bổ có kế hoạch thống nhất. Tuy nhiên, mô hình tổ chức này thường tạo ra sự quan liêu và hành chính hóa trên nhiều lĩnh vực. Quyền làm chủ của nhân dân, nhiều khi, không được phát huy đầy đủ. Sự năng động xã hội hướng đến những thay đổi trong tổ chức, chỉ đạo, lãnh đạo và quản lý thường chậm chạm. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển xã hội và tạo nên những đặc trưng cần chú ý trong quản lý các quá trình kinh tế, xã hội và chính trị trong cả nước cũng như ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay. - Việt Nam là một nước Phương Đông, dù cho đổi mới, mở cửa, hội nhập có tạo ra nhiều thay đổi, song mô hình và phương thức quản lý vẫn mang đậm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan