1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá đạo đức là một hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức hình thành trong đời sống xã hội, được cộng đồng xã hội thừa nhận, lĩnh hội, bảo vệ và lan truyền. Mỗi cộng đồng theo đuổi một hệ giá trị và nguyên tắc, hành vi văn hóa đạo đức làm nền tảng cho sự tồn tại và phát triển. Hệ giá trị này vận hành trong đời sống xã hội nhờ hoạt động đạo đức của xã hội và của mỗi cá nhân, là “giá đỡ” tinh thần cho sự tồn tại bền vững của xã hội và cho cả nhân loại với tư cách là tổng thể. Văn hóa đạo đức khám phá bản chất con người, nuôi dưỡng phẩm hạnh và trong mọi thời đại, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực.
Kinh tế thị trường, sự phát triển của khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa là những xu thế khách quan, tất yếu, có tác động nhiều chiều đến sự phát triển của xã hội, không chỉ trên lĩnh vực sản xuất vật chất, mà cả lĩnh vực sản xuất tinh thần. Trong khi chúng ta chưa phát huy được những khía cạnh tích cực về mặt đạo đức mà kinh tế thị trường, sự phát triển của khoa học và công nghệ, và toàn cầu hóa có thể mang lại, chúng ta lại chậm nhận thức ra mặt trái của những xu hướng đó về phương diện sản xuất tinh thần, đặc biệt về đạo đức và lối sống. Kết quả của sự chậm trễ đó là sự khủng hoảng mô hình, cấu trúc, giá trị và niềm tin. Cùng trong quá trình phát triển đã xuất hiện sự phân cực giàu nghèo, tệ nạn xã hội gia tăng, và ý thức cộng đồng. Thực tế đó, cho thấy việc xây dựng một cộng đồng với các nguyên tắc văn hóa đạo đức có ý nghĩa vô cùng to lớn để nâng cao phẩm chất con người trong đời sống xã hội, góp phần hoàn thiện nhân cách và khẳng định giá trị nhân cách cá nhân, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, mối quan hệ giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, giữa giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Đó là một bước quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện con người, giữ cho quá trình phát triển được bền vững. Do đó, củng cố và phát triển văn hóa đạo đức không chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà còn là trách nhiệm chung của mọi tổ chức, mọi cá nhân trong xã hội.
Học viên ở TSQLQ2 là một bộ phận hợp thành đội ngũ cán bộ tương lai của quân đội, là lực lượng nòng cốt bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững chắc các thế hệ cán bộ trong quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội. Bởi vậy, phát triển văn hóa đạo đức cho mỗi học viên khi họ đang học tập, công tác tại trường là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đây là nội dung cơ bản, xuyên suốt trong quá trình giáo dục - đào tạo của Nhà trường. Tuy nhiên, phát triển văn hóa đạo đức của học viên sĩ quan ở TSQLQ2 nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đề. Đó là việc nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa, và việc nuôi dưỡng, phát triển các phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ quân đội cách mạng trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục đào tạo trong tình hình mới đặt ra cho công tác đào tạo đội ngũ cán bộ phát triển toàn diện cả năng lực chuyên môn và phẩm chất nhân cách của người sĩ quan tương lai trong quân đội. Xuất phát từ thực trạng văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 có nhiều bất cập, vi phạm kỷ luật, trình độ hiểu biết giá trị văn hóa đạo đức truyền thống còn hạn chế, quan hệ hành vi chuẩn mực, khuôn mẫu đạo đức, lối sống kỷ luật trong xây dựng chính quy còn biểu hiện xuống cấp.
Thực tế đó, yêu cầu phải nhận thức sâu sắc về vai trò của văn hóa đạo đức. Đó là những lý do để tác giả lựa chọn: “Phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở Trường sĩ quan Lục quân 2” để làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành triết học.
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1
1.1.
1.2.
Chương 2
2.1.
2.2.
Chương 3
3.1.
3.2.
3.3.
3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ
QUAN LỤC QUÂN 2
Thực chất phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở
Trường sĩ quan Lục quân 2
Một số vấn đề có tính quy luật phát triển văn hóa đạo đức
của học viên ở Trường sĩ quan Lục quân 2
THỰC TRẠNG, NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ
YÊU CẦU PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐẠO ĐỨC CỦA
HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2
HIỆN NAY
Thực trạng phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở
Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
Những nhân tố tác động và yêu cầu phát triển văn hóa đạo
đức của học viên ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG LỤC
QUÂN 2 HIỆN NAY
Nâng cao nhận thức của các chủ thể phát triển văn hóa đạo
đức của học viên ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
Phát huy nỗ lực chủ quan trong phát triển văn hóa đạo đức
của học viên ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
Xây dựng và phát huy vai trò của môi trường văn hóa đạo
đức nhằm phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở
Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC, DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
9
9
24
40
40
52
61
61
69
76
84
86
88
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá đạo đức là một hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức hình thành trong đời
sống xã hội, được cộng đồng xã hội thừa nhận, lĩnh hội, bảo vệ và lan truyền. Mỗi
cộng đồng theo đuổi một hệ giá trị và nguyên tắc, hành vi văn hóa đạo đức làm nền
tảng cho sự tồn tại và phát triển. Hệ giá trị này vận hành trong đời sống xã hội nhờ
hoạt động đạo đức của xã hội và của mỗi cá nhân, là “giá đỡ” tinh thần cho sự tồn tại
bền vững của xã hội và cho cả nhân loại với tư cách là tổng thể. Văn hóa đạo đức
khám phá bản chất con người, nuôi dưỡng phẩm hạnh và trong mọi thời đại, đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực.
Kinh tế thị trường, sự phát triển của khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa là
những xu thế khách quan, tất yếu, có tác động nhiều chiều đến sự phát triển của xã hội,
không chỉ trên lĩnh vực sản xuất vật chất, mà cả lĩnh vực sản xuất tinh thần. Trong khi
chúng ta chưa phát huy được những khía cạnh tích cực về mặt đạo đức mà kinh tế thị
trường, sự phát triển của khoa học và công nghệ, và toàn cầu hóa có thể mang lại,
chúng ta lại chậm nhận thức ra mặt trái của những xu hướng đó về phương diện sản
xuất tinh thần, đặc biệt về đạo đức và lối sống. Kết quả của sự chậm trễ đó là sự khủng
hoảng mô hình, cấu trúc, giá trị và niềm tin. Cùng trong quá trình phát triển đã xuất
hiện sự phân cực giàu nghèo, tệ nạn xã hội gia tăng, và ý thức cộng đồng. Thực tế đó,
cho thấy việc xây dựng một cộng đồng với các nguyên tắc văn hóa đạo đức có ý nghĩa
vô cùng to lớn để nâng cao phẩm chất con người trong đời sống xã hội, góp phần hoàn
thiện nhân cách và khẳng định giá trị nhân cách cá nhân, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa cá nhân với cộng đồng, mối quan hệ giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần,
giữa giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Đó là một bước quan trọng trong việc phát triển
và hoàn thiện con người, giữ cho quá trình phát triển được bền vững. Do đó, củng cố
và phát triển văn hóa đạo đức không chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà còn là trách
nhiệm chung của mọi tổ chức, mọi cá nhân trong xã hội.
Học viên ở TSQLQ2 là một bộ phận hợp thành đội ngũ cán bộ tương lai của
quân đội, là lực lượng nòng cốt bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững chắc các thế hệ
cán bộ trong quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội. Bởi vậy, phát triển
4
văn hóa đạo đức cho mỗi học viên khi họ đang học tập, công tác tại trường là vấn đề có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng. Đây là nội dung cơ bản, xuyên suốt trong quá trình giáo dục đào tạo của Nhà trường. Tuy nhiên, phát triển văn hóa đạo đức của học viên sĩ quan ở
TSQLQ2 nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đề. Đó là việc nhận thức và giải quyết tốt
mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa, và
việc nuôi dưỡng, phát triển các phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ quân đội cách
mạng trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, yêu cầu nhiệm vụ
giáo dục đào tạo trong tình hình mới đặt ra cho công tác đào tạo đội ngũ cán bộ phát
triển toàn diện cả năng lực chuyên môn và phẩm chất nhân cách của người sĩ quan
tương lai trong quân đội. Xuất phát từ thực trạng văn hóa đạo đức của học viên ở
TSQLQ2 có nhiều bất cập, vi phạm kỷ luật, trình độ hiểu biết giá trị văn hóa đạo đức
truyền thống còn hạn chế, quan hệ hành vi chuẩn mực, khuôn mẫu đạo đức, lối sống
kỷ luật trong xây dựng chính quy còn biểu hiện xuống cấp.
Thực tế đó, yêu cầu phải nhận thức sâu sắc về vai trò của văn hóa đạo đức. Đó là
những lý do để tác giả lựa chọn: “Phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở Trường
sĩ quan Lục quân 2” để làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa đạo đức xã hội
Trong cuốn Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin, GS, TS. A.I.Ascnônđốc chủ
biên [1], tác giả quan niệm về văn hóa đạo đức là “văn hóa đạo đức của hành vi con
người”, tức là nhìn đạo đức ở mặt hoạt động thực tiễn xã hội của con người. Quan
niệm của các tác giả hoàn toàn phù hợp với nhận thức và thực tiễn văn hóa đạo đức
trong đời sống xã hội. Trong cuốn sách chuyên khảo: Tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh [16], Giáo sư Đỗ Huy cho rằng: tư tưởng văn hóa đạo đức là tư tưởng rất nổi
trội trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định, khi nói văn hóa đạo
đức là nói đến trình độ văn hóa đạo đức. Nói đến giá trị, chuẩn mực biểu trưng,
phẩm chất đạo đức. Nói văn hóa đạo đức là nói tới những “biểu trưng gắn với nhà
văn hóa đạo đức lớn mẫu nhân cách đạo đức tiêu biểu của một dân tộc, của một thời
đại. Tuy vậy, giáo sư Đỗ Huy cũng vẫn chưa đề cập đến các thiết chế xã hội - văn
hóa về văn hóa đạo đức.
5
Tác giả Trường Lưu (chủ biên) trong cuốn Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội
[20] đã nhấn mạnh các yếu tố tư tưởng, giá trị, chuẩn mực, phong tục tập quán, niềm
tin, điều thiêng liêng, việc cấm kỵ của mỗi cộng đồng, tạo nên bản sắc văn hóa của
dân tộc. Điều quan trọng ở đây, khi bàn đến văn hóa đạo đức các tác giả đã nhấn
mạnh tính dân tộc và vai trò của văn hóa đạo đức là tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Tác giả Thành Duy trong cuốn Văn hóa đạo đức mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn ở Việt Nam về văn hóa đạo đức [5] đã không đi vào phân tích khái niệm
văn hóa đạo đức mà chỉ đề cập một cách khái quát những khủng khoảng về lý
tưởng, lẽ sống của cá nhân trước những thay đổi hiện nay trên toàn thế giới.
Những quan điểm cơ bản xác định chuẩn mực đạo đức đã từng tồn tại trên thế giới
và đang phổ biến hiện nay, đồng thời trình bày mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về
văn hóa đạo đức trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
Cuốn: Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp [14], của tác giả
Lê Quý Đức – Hoàng Chí Bảo đã làm rõ khái niệm văn hóa đạo đức, cấu trúc, chức năng
và vai trò của nó. Khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thì vai trò của văn hóa đạo đức có vai
trò to lớn đối với đời sống cá nhân góp phần hình thành nhân cách và khẳng định giá trị
nhân cách cá nhân. Những giải pháp khắc phục và chấn hưng nền văn hóa đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Nhóm các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho
quân nhân trong quân đội
Nguyễn Tiến Bình tác giả luận án phó tiến sĩ: Tự giác hóa quá trình hình
thành, phát triển đạo đức Cộng sản trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [2]
đã luận chứng một cách sâu sắc vai trò ngày càng tăng của nhân tố đạo đức trong sức
mạnh chiến đấu của quân đội và các đặc điểm tác động đến sự hình thành, phát triển
đạo đức cộng sản trong quân đội, đề xuất các giải pháp trong tự giác hóa quá trình
hình thành, phát triển đạo đức Cộng sản trong Quân đội ta.
Hai tác giả Hà Huy Thông [36] và Phạm Văn Nhuận [32] đã luận giải một cách
sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đồng thời đề ra phương hướng
6
và một số vấn đề có tính phương pháp luận trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng, giáo dục, rèn luyện các quân nhân, cũng như người cán bộ quân
đội trong giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng.
Tác giả Nguyễn Hùng Oanh, Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên Quân
đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay [33], trong công trình đã làm rõ biểu
hiện đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội; đặc trưng bản chất và một số vấn đề có
tính quy luật trong quá trình phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội. Đồng
thời, tác giả đã phân tích đánh giá thực trạng, nguyên nhân, mâu thuẫn và các yêu cầu
trong phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên Quân đội ta hiện nay, từ đó đề xuất
một số giải pháp cơ bản để phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội.
Nhóm các công trình nghiên cứu về phát triển giá trị văn hóa.
Công trình nghiên cứu về: Phát triển giá trị văn hóa trong nhân cách người sĩ
quan trẻ trong quân đội ta hiện nay [41] đã luận giải việc nhận thức và giải quyết mối
quan hệ giữa kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa nhằm nuôi dưỡng, phát triển các
yếu tố tiên tiến, cái chân chính, cao cả, trong nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” với đấu tranh
khắc phục những yếu tố lạc hậu, cái giả trá, cái thấp hèn phản ánh tàn dư của quá
khứ, mặt trái cơ chế thị trường và sự phá hoại về văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống
của các thế lực thù địch. Đặc biệt, khi các thành tựu kỹ thuật tiên tiến của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã được ứng dụng nhanh chóng trong lĩnh vực
quân sự tạo nên các hệ thống vũ khí kỹ thuật mới về chất so với trước đây. Do vậy, sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội trong giai đoạn mới đòi hỏi quân nhân,
nhất là đội ngũ sĩ quan trẻ phải không ngừng hoàn thiện giá trị nhân cách.
Công trình: Về nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh trong
các đơn vị quân đội, của Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp [15] và Nuôi dưỡng giá trị văn
hóa trong nhân cách người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam của PSG. TS Đinh
Xuân Dũng [4]... đã tiếp cận toàn bộ môi trường quân sự, hoạt động quân sự dưới góc
độ văn hóa, qua đó khẳng định: Nhân cách người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam
là sự tương tác biện chứng giữa quân nhân với toàn bộ môi trường trong đó họ sống và
hoạt động, dưới góc độ văn hóa, là sự kết tinh cao nhất những giá trị văn hóa trong
truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. PGS.TS Văn Đức Thanh [34] đã tiếp
7
cận môi trường văn hóa với tính cách là tổng thể sống động của những giá trị vật chất
và tinh thần hợp thành môi trường sống, nuôi dưỡng, phát triển, hoàn thiện những
năng lực bản chất Người theo tiêu chí chân, thiện, mỹ.
Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống những
vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa đạo đức. Mặc dù, các công trình đã đề cập đến yếu
tố bảo đảm trao truyền và vận thông nguyên tắc đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi đạo
đức từ cộng đồng đến cá nhân, từ thời đại này sang thời đại khác của đời sống đạo đức.
Đó là những thiết chế xã hội - văn hóa về đạo đức như gia đình, nhà trường, nhà nước,
đoàn thể chính trị - xã hội... Do đó, các nghiên cứu cũng chưa làm rõ vai trò to lớn của
các thiết chế này trong việc phát triển văn hóa đạo đức của học viên. Luận văn phát triển
văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 đưa ra một góc nhìn mới về vai trò của cơ sở
giáo dục đào tạo trong việc hoàn thiện nhân cách của học viên, từ đó kiến nghị giải pháp
để phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2, góp phần bổ sung nghiên cứu
liên quan đến văn hóa đạo đức và giải quyết những vấn đề đang đặt ra đối với phát triển
văn hóa đạo đức nói chung và phát triển văn hóa đạo đức trong Quân đội ta nói riêng. Vì
thế: “Phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay”
đây là sự lựa chọn hướng nghiên cứu hoàn toàn mới mẻ, đồng thời có sự kế thừa, phát
triển nhằm giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Nghiên cứu luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển văn hóa đạo
đức của học viên TSQLQ2, đề xuất những giải pháp cơ bản phát triển văn hóa đạo đức của
học viên ở TSQLQ2 hiện nay.
Nhiệm vụ:
Làm rõ thực chất thực và những vấn đề có tính quy luật về phát triển văn
hóa đạo đức của học viên TSQLQ2.
Đánh giá thực trạng phát triển văn hóa đạo đức; chỉ ra những nhân tố tác
động và yêu cầu phát triển văn hoá đạo đức của học viên TSQLQ2 hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển văn hóa đạo đức của học viên
8
ở TSQLQ2 hiện nay.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề quy luật phát triển văn
hóa đạo đức của học viên TSQLQ2.
Khách thể nghiên cứu của luận văn là văn hóa đạo đức học viên đào tạo sỹ
quan cấp phân đội bậc đại học.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: học viên TSQLQ2, thời gian khảo sát từ
năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về văn hóa và xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vấn đề con người và chiến lược phát triển con người,
xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội của, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng.
Cơ sở thực tiễn của luận văn nghiên cứu thực trạng phát triển văn hóa đạo đức
của học viên TSQLQ2; tổng kết đánh giá của các cơ quan chức năng, điều tra xã hội
học của tác giả về thực trạng phát triển văn hóa đạo đức của học viên TSQLQ2.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng các phương pháp nhận
thức khoa học cụ thể như: hệ thống - cấu trúc, lịch sử và lôgic, phân tích, tổng hợp,
điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa và phương
pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho thực tiễn đổi mới nâng cao
chất lượng dạy học của nhà trường; đồng thời, phát triển nhân cách học viên sĩ quan
tương lai, trong gìn giữ và phát triển giá trị văn hóa đạo đức “Bộ đội Cụ Hồ”.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong các trường đại học quân sự
và ở TSQLQ2 hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
9
khảo và phụ lục.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐẠO ĐỨC
CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2
1.1. Thực chất phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở Trường sĩ quan
Lục quân 2
1.1.1. Quan niệm về văn hóa và văn hóa đạo đức
Văn hoá là một thuật ngữ đa nghĩa, có nội hàm rất rộng. Có rất nhiều cách
tiếp cận văn hoá, có thể tiếp cận văn hóa trên rất nhiều các phương diện khác nhau và
bản chất của văn hóa bao giờ cũng được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng với bản
chất con người - xã hội.
Theo nghĩa chung nhất: Văn hóa là sự phát triển những lực lượng bản chất
người theo tiêu chí chân, thiện, mỹ, và được con người hiện thực hóa thông qua
hoạt động sống của mình trong tiến trình lịch sử.
Tuy nhiên, các hằng số của văn hóa từ trước tới nay vẫn là sự thống nhất các
yếu tố thể hiện lực lượng bản chất người. Đó là: i) Sự hoàn thiện con người – xã hội
bằng con đường sáng tạo tối ưu; ii) Cái thẩm mỹ; iii) Cái đạo đức: nâng cao nhân
cách con người. Ba lĩnh vực cơ bản của văn hóa là khoa học, đạo đức, nghệ thuật, ở đó
có sự thống nhất hữu cơ các giá trị nhân bản, nhân đạo và nhân văn. Đây là cơ sở khoa
học để tiếp cận văn hoá đạo đức, một lĩnh vực đặc thù của văn hoá.
Cuộc sống của con người, xã hội diễn ra hết sức phức tạp, được đan xen bởi
những hành vi, lợi ích của con người, xã hội. Tuy nhiên, dưới góc độ văn hoá đạo đức,
các hoạt động đó của con người dù diễn ra phức tạp, phong phú đến đâu, chung quy lại
đều là những hoạt động mang dấu ấn văn hoá của một cộng đồng, dân tộc, khắc họa nên
hình ảnh, cốt cách, quan hệ ứng xử, các chuẩn giá trị làm nên giá trị đích thực của văn
hoá, qua đó khẳng định sự tồn tại của chính cộng đồng, dân tộc đó trong lịch sử. Nhìn
vào quan hệ đạo đức, người ta biết xã hội ấy có dân chủ không, các quan hệ giữa con
người và con người như thế nào. Bởi quan hệ đạo đức là các quan hệ sâu lắng và là quan
niệm thực tiễn, nó biểu thị rõ các chuẩn mực trong các hành vi của xã hội nên nó dễ nhìn
10
thấy, tất cả những cái đó được gọi là văn hoá đạo đức: Từ đó, có thể hiểu văn hoá đạo
đức với những dấu hiệu cơ bản sau:
Một là, văn hoá đạo đức là một mặt, một thành tố của văn hoá, giữa chúng tuy có
sự khác nhau về ngoại diên (rộng, hẹp), nhưng lại đồng nhất về nội dung. Nói đến đạo
đức là nói đến văn hoá, đến trình độ người của con người, xã hội, và khi nói đến văn
hoá không được tách ra khỏi lĩnh vực đạo đức của một xã hội nhất định. Cũng như văn
hoá, văn hoá đạo đức được hình thành, phát triển thông qua hoạt động của con người,
xã hội trong lịch sử. Xã hội càng phát triển, văn hoá đạo đức ngày càng hoàn thiện.
Hai là, văn hoá đạo đức là do con người sáng tạo ra, đến lượt nó, văn hoá đạo
đức góp phần nuôi dưỡng, định hướng sự phát triển của con người, xã hội theo tiêu chí
chân, thiện, mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của sự sinh tồn.
Ba là, nói đến văn hóa đạo đức là nói đến hành vi con người trong quan hệ với
người khác và xã hội. Là một dạng thức tồn tại đặc thù của văn hoá, văn hóa đạo đức
không tồn tại ngoài những hình thức cụ thể của hành vi con người. Văn hóa hành vi
không đơn thuần chỉ là những hiểu biết về các nguyên tắc đạo đức của xã hội, mà là
tổng hợp những quan điểm, biểu tượng, tình cảm và tập quán đạo đức được con
người lĩnh hội và thực hiện trong hoạt động của mình. Vì thế, có thể hiểu, hành vi văn
hóa đạo đức là tổng hợp những quan điểm, biểu tượng, tình cảm và tập quán đạo đức
của con người lĩnh hội và thực hiện trong hoạt động của mình. Đồng thời, hành vi văn
hóa đạo đức phải được nhìn nhận ở hiệu quả thực tiễn xã hội của nó, nghĩa là đừng căn
cứ vào lời nói, mà phải căn cứ vào việc làm mới đánh giá đúng được tình cảm, động cơ
và mục đích đạo đức của con người. Tuy nhiên cần, có thể phân biệt khái niệm đạo
đức và văn hóa đạo đức: i) Đạo đức là một hiện tượng xã hội, chú ý đến ý thức đạo
đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức. Đạo đức là phương thức xác lập mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Vì Ănghen nói rằng
nếu hiểu một cách đúng đắn thì vấn đề cơ bản của đạo đức là vấn đề lợi ích. Tuy nhiên,
việc giải quyết vấn đề lợi ích lại là vấn đề văn hóa đạo đức. Văn hóa đạo đức là nhìn
đạo đức từ chiều cạnh văn hóa để phân biệt với các lĩnh vực khác nhau của văn hóa
như văn hóa khoa học, văn hóa pháp luật, văn hóa tâm linh...văn hóa đạo đức chú ý đến
11
thiết chế xã hội - văn hóa, các hình thức biểu trưng của nó và các nhân cách đạo đức
tiêu biểu. ii) Đạo đức chỉ là hành vi ửng xử theo quy tắc chuẩn mực nhất định, là một
lĩnh vực đặc thù của ý thức xã hội. Văn hóa đạo đức chú ý tới trình độ, phong hóa các
quan niệm, chuẩn mực, phạm trù, sắc thái đạo đức của mỗi cộng đồng, mỗi thời đại.
Văn hóa đạo đức chính là tầng sâu, chiều cao của đạo đức xã hội nó được kết tinh, định
hình, lưu giữ theo thời gian của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, nó được chiết xuất, thăng
hoa nhờ trí tuệ, được thúc đẩy và kiềm tỏa vượt lên tầm cao của ứng xử của con người
theo tiêu chí chân, thiện, mĩ.
Như vậy, văn hóa đạo đức là một thành tố của văn hóa tinh thần xã hội thể hiện
trình độ đạo đức của một cộng đồng, kết tinh các giá trị, chuẩn mực, khuôn mẫu, biểu
tượng đạo đức được hình thành trên một nền đạo đức xã hội, phù hợp với xu hướng phát
triển và tiến bộ xã hội, dựa vào các thiết chế xã hội - văn hóa và được thể hiện ở hành vi
đạo đức cá nhân, nhóm và cộng đồng đặc biệt những nhân cách tiêu biểu.
Văn hóa đạo đức là một lĩnh vực văn hóa tinh thần xã hội, một thành tố của
văn hóa, kết tinh các giá trị chuẩn mực đạo đức. Bàn về văn hoá đạo đức, tuy vẫn
còn những ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung các tác giả đều đi đến thống nhất
rằng thuật ngữ văn hóa đạo đức để chỉ một bộ phận của văn hóa tinh thần xã hội. Bộ
phận ấy không chỉ là văn hóa đạo đức của hành vi con người, mà còn bao gồm
những nguyên lý đạo đức (đạo lý), quy tắc chuẩn mực điều tiết hành vi con người
và cả giá trị chuẩn mực đạo đức được kết tinh, lưu giữ, kế thừa và vận thông trong
đời sống xã hội. Như vậy, văn hóa đạo đức là một thành tố của văn hóa tinh thần xã
hội, thể hiện trình độ đạo đức của một cộng đồng bao gồm tổng thể các giá trị,
chuẩn mực, khuôn mẫu biểu tượng đạo đức của cộng đồng được hiện thực hoá trong
đời sống cộng đồng nhờ vào thiết chế xã hội - văn hóa, và được thể hiện ra ở hành
vi đạo đức cá nhân, nhóm và cộng đồng.
Văn hóa đạo đức thể hiện trình độ đạo đức của xã hội hình thành trong nền
đạo đức cộng đồng. Văn hóa đạo đức chỉ là một bộ phận của văn hóa chứ không
phải là toàn bộ nền văn hóa. Tuy nhiên, đó là bộ phận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Bởi lẽ, khi xem xét trình độ văn hóa của một xã hội, người ta phải nói đến con
người trong xã hội và nói đến con người thì không thể không nói đến đạo đức. Tư
12
tưởng xã hội và đạo đức xã hội đều có vai trò quyết định đối với hành vi của con
người trong xã hội. Chính thông qua việc giải quyết quan hệ lợi ích, các xã hội, các
thời đại có những hệ giá trị chuẩn mực riêng nhằm điều chỉnh hành vi con người, xã
hội. Tuy nhiên, bất kỳ chế độ xã hội nào cũng phải giải quyết mối quan hệ nhân
tính, quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Cùng với sự
phát triển của xã hội, các bảng thang giá trị cũng có những sự thay đổi, phản ánh
nhu cầu phát triển tất yếu của xã hội con người. Nói cách khác, trình độ văn hoá đạo
đức là thước đo mức độ văn minh của con người trong quan hệ với tự nhiên, xã hội
và với bản thân mình trong tiến trình lịch sử nó được hình thành, phát triển trên một
nền đạo đức phù hợp với xu hướng phát triển và tiến bộ xã hội.
Văn hoá đạo đức vừa mang tính phổ quát, vừa mang tính bản sắc, vừa
thống nhất, vừa đa dạng. Đây là một biểu hiện rõ nét của văn hoá đạo đức trong đời
sống xã hội. Là một hiện tượng đặc thù của đời sống tinh thần xã hội, các giá trị,
chuẩn mực, quy tắc ứng xử... nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ
với con người, tự nhiên và xã hội, các hệ chuẩn đó của văn hoá đạo đức là có tính phổ
quát chung: cộng đồng, dân tộc và nhân loại. Nhưng mặt khác, mỗi vùng miền, dân
tộc, giai cấp, các tổ chức xã hội... khác nhau lại có những nét sinh hoạt văn hoá khác
nhau, có những quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về văn hoá. Chính điều
này làm cho văn hoá đạo đức mang tính bản sắc, khẳng định cốt cách của mỗi cộng
đồng, dân tộc. Hơn nữa, với mỗi tổ chức xã hội khác nhau, đòi hỏi có những tiêu chí
khác nhau về giá trị, do đó cùng với những giá trị bản sắc, các giá trị văn hoá đạo đức
còn mang tính đặc thù, phản ánh hoạt động đặc thù của các tổ chức xã hội nhất định.
Chẳng hạn, những tiêu chuẩn văn hoá đạo đức công sở có những điểm khác nhất định
so với xã hội, các cơ quan dân sự khác quân đội, nhà trường khác đơn vị...
Văn hoá đạo đức có vai trò to lớn trong đời sống của cộng đồng, xã hội, là “giá
đỡ” tinh thần cho sự tồn tại bền vững của xã hội. Mỗi một cộng đồng cần có một
bảng thang giá trị làm nền tảng cho nó tồn tại và phát triển. Nếu một cộng đồng nào
đó không có nền tảng đạo đức làm giá đỡ thì tất yếu sẽ bị rối loạn và tiêu vong. Văn
hóa đạo đức có vai trò to lớn đối với đời sống cá nhân góp phần hoàn thiện nhân
13
cách và khẳng định giá trị nhân cách cá nhân. Văn hóa đạo đức điều chỉnh hành vi
của con người và cộng đồng, xác lập, lan truyền các giá trị, chuẩn mực để xây dựng
nhân cách con người phù hợp với bối cảnh. Trong lịch sử dân tộc ta, vai trò của giá
trị đạo đức cũng thể hiện hết sức rõ ràng. Thời nào mà các giá trị văn hoá đạo đức
được đề cao, tôn trọng, thì thời đại ấy được hưng thịnh và ngược lại. Theo Lê Quý
Đôn, nếu trẻ không kính già, trò không trọng thầy, binh kiêu, tướng thoái, tham
nhũng tràn lan, sỹ phu ngoảnh mặt thì xã hội tất sụp đổ. Văn hóa đạo đức góp phần
hoàn thiện nhân cách và khẳng định giá trị nhân cách cá nhân. Trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc chúng ta thường nói đến phẩm chất, khí tiết của người chiến sĩ cách
mạng trước gian lao, trước lưỡi lê máy chém của kẻ thù. Khí tiết ấy được hun đúc bởi
văn hóa đạo đức; lòng yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu bất khuất, những giá trị đạo
đức cao đẹp của dân tộc.
1.1.2. Quan niệm trong phát triển văn hóa đạo đức của học viên Trường Sĩ
quan Lục quân 2
Trường sĩ quan Lục quân 2 ra đời và lớn lên giữa lòng chiến trường miền Nam
(27/8/1961) khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đang ở giai
đoạn gian khổ, quyết liệt nhất. Trải qua hơn nửa thế kỷ chiến đấu, xây dựng và trưởng
thành. Nhà trường đã có những sự phát triển vượt bậc, từ một trường đào tạo, bổ túc
cán bộ quân sự, chính trị sơ cấp bổ sung cho các đơn vị trên chiến trường miền Nam,
đến nay TSQLQ2 - Trường đại học Nguyễn Huệ, là một trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ
huy binh chủng hợp thành cấp phân đội có trình độ đại học của quân đội khu vực phía
Nam, với nhiều chuyên ngành, cấp học khác nhau.
Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, nhà trường đã viết nên truyền
thống:“Trung dũng, sáng tạo, đoàn kết, kỷ luật, dạy tốt, học giỏi” - một giá trị văn
hoá đặc sắc trong truyền thống của nhà trường. Chính truyền thống đã góp phần cổ
vũ, động viên, nuôi dưỡng lớp lớp cán bộ, giảng viên, học viên, hạ sĩ quan chiến sĩ
công nhân và nhân viên của Nhà trường qua các thời kỳ trong chiến đấu, học tập và
công tác vững bước đi lên. Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng quân đội “cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” đã và đang đặt ra những yêu cầu mới nhằm
14
xây dựng con người, trước hết là đội ngũ sĩ quan. Xây dựng quân đội “cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, suy đến cùng là xây dựng con người. Vì
thế, phát triển văn hoá đạo đức của học viên - những sĩ quan tương lai, người kế tục
sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vừa là một tất yếu, vừa là một yêu cầu cấp
bách trong toàn bộ sự nghiệp “trồng người” của Đảng trong quân đội.
Học viên TSQLQ2 là những thanh niên, quân nhân đã tốt nghiệp trung học phổ
thông, có quê quán và đơn vị từ tỉnh Quảng Trị trở vào, có đủ điều kiện về sức khỏe,
lịch sử chính trị rõ ràng theo quy định tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ
Quốc phòng, đã trúng tuyển qua kỳ thi tuyển sinh quân sự hoặc được cử tuyển vào
Nhà trường để đào tạo trở thành sĩ quan chỉ huy - tham mưu lục quân cấp phân đội,
có bản lĩnh vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ năng lực toàn diện về
chỉ huy, lãnh đạo, quản lý và huấn luyện bộ đội, có thể lực tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Học viên tốt nghiệp được cấp bằng cử nhân quân sự với các chuyên ngành: chỉ huy tham mưu binh chủng hợp thành, trinh sát bộ binh, trinh sát đặc nhiệm, đảm nhiệm chức
vụ ban đầu là trung đội trưởng và các chức vụ tương đương, quá trình công tác phát triển
đến tiểu đoàn trưởng và các chức vụ tương đương, có tiềm năng phát triển lâu dài. Phần
lớn học viên TSQLQ2 là người ở các tỉnh phía Nam (các khóa học gần đây thường
chiếm tỷ lệ trên 90%, số lượng không nhỏ là con em đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ thường chiếm từ 8 đến 10%), tỷ lệ trúng tuyển đông nhất
thuộc địa bàn Quân khu 7 [phụ lục7]. Do vậy, học viên của TSQLQ2 chịu ảnh hưởng rất
lớn của phong tục, tập quán, lối sống, thói quen của các vùng miền, dân tộc, mà chủ yếu
địa văn hóa phương Nam. Nói đến văn hóa đạo đức của học viên TSQLQ2 là nói tới
phẩm chất, giá trị, tri thức, tình cảm đạo đức đã, đang được hình thành phát triển, hoàn
thiện dưới tác động của các chủ thể trong quá trình đào tạo của Nhà trường và nỗ lực chủ
quan của bản thân mỗi học viên.
Từ đó có thể quan niệm: Văn hóa đạo đức của học viên ở Trường sĩ quan Lục
quân 2 là sự kết tinh những giá trị, phẩm chất, chuẩn mực đạo đức phản ánh trình
độ phát triển nhân cách người học viên với tư cách là một chủ thể đạo đức có văn
hóa, được hình thành, phát triển trong quá trình học tập, rèn trong môi trường
quân sự
15
Văn hóa đạo đức của học viên TSQLQ2 ngoài những điểm tương đồng với văn
hóa đạo đức nói chung, còn có sự khác biệt do mục tiêu, yêu cầu đào tạo học viên trở
thành sĩ quan, cán bộ của Đảng, Nhà nước hoạt động trong lực lượng vũ trang, khi tốt
nghiệp ra trường họ trưởng thành mọi mặt cả năng lực chỉ huy, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và phẩm chất nhân cách của người cán bộ. Văn hóa đạo đức của học viên ở
TSQLQ2 được hình thành, phát triển, kế thừa những giá trị tinh hoa đạo đức của dân
tộc, quân đội, Nhà trường, đặc biệt những giá trị truyền thống đặc sắc kết tinh trong
nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Cấu trúc văn hóa đạo đức của học viên Trường sĩ quan Lục quân 2
Văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 có cấu trúc nội tại, bao gồm nhiều
yếu tố và các yếu tố ấy có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, được xem như những vi
hệ liên kết với nhau, tạo nên văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2, gồm các giá
trị, tri thức, chuẩn mực, khuôn mẫu đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.
Hệ thống các giá trị, tri thức, chuẩn mực, khuôn mẫu đạo đức, đây là những
thành tố cơ bản, cốt lõi của văn hoá đạo đức của học viên ở Trường Sĩ quan Lục quân
2. Với tư cách là yếu tố cấu thành hệ thống phẩm chất giá trị của nhân cách, là
nguyên lý, đạo lý, những quy tắc ứng xử, truyền thống của dân tộc, quân đội, cùng
với điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của đơn vị, mười lời thề danh dự của quân
nhân, 12 điều kỷ luật... những quy tắc ứng xử, được xã hội thừa nhận và đem vận
thông trong đời sống hoạt động quân sự, nhằm điều chỉnh đánh giá vận dụng ửng xử
trong các tình huống, hoàn cảnh cụ thể cho phù hợp với các giá trị đạo đức của người
học viên sĩ quan tương lai. Chẳng hạn, những giá trị đạo đức như yêu nước thương nòi,
anh dũng, bất khuất, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Cùng với những chuẩn mực chung, hệ giá trị, tri thức, chuẩn mực văn hóa đạo
đức của học viên TSQLQ2 còn là sự kết tinh của các hệ giá trị được hình thành,
phát triển trong suốt hơn nửa thế kỷ chiến đấu, xây dựng và trưởng thành đã viết
nên truyền thống “đoàn kết, trung dũng, sáng tạo, dạy tốt, học giỏi” của Nhà trường.
Ở phương diện khác, hệ thống các giá trị, tri thức chuẩn mực, khuôn mẫu đạo đức
của học viên TSQLQ2 còn là sự hội tụ, kết tinh có chọn lọc của địa văn hóa của
16
mảnh đất, con người phương Nam: trung dũng, bất khuất trong chiến đấu; cần cù,
sáng tạo trong lao động sản xuất; thật thà, ngay thẳng trong giao tiếp... Tất cả những
cái đó được hòa quyện, thống nhất trong nhân cách mỗi học viên. Giá trị đạo đức, tri
thức, chuẩn mực khuôn mẫu đạo đức giúp cho mỗi học viên tiếp thu các giá trị đạo đức
để chuyển thể từ hành vi cụ thể của mỗi học viên từ cảm tính đến sự tự giác, tự
nguyện sâu sắc trong chấp hành kỷ luật, xây dựng nếp sống chính quy, đồng thời là
cơ sở, điều kiện để các chủ thể học viên tự làm giàu, phong phú hơn đời sống tinh
thần của mình. Mặt khác, điều quan trọng nhất là qua đó thúc đẩy sự hiểu biết, tôn
trọng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong tập thể học viên, tạo điều kiện thuận lợi để
mỗi học viên tiếp thu, lĩnh hội các giá trị, tri thức, khuôn mẫu đạo đức, biến thành
“nội sinh” giúp đỡ họ củng cố niềm tin, lý tưởng, biết vượt qua và chiến thắng mọi
thử thách, khó khăn, trở ngại để hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập.
Hệ thống các hành vi đạo đức của học viên. Nói tới văn hóa đạo đức của học
viên TSQLQ2 là nói tới hành vi của người quân nhân cách mạng. Bởi vì, văn hóa
đạo đức không thể tồn tại ngoài những hình thức cụ thể của hành vi, không chỉ dừng
lại ở ý thức đạo đức. Hành vi đạo đức của học viên TSQLQ2 mang tính thực tiễn xã
hội, có ý nghĩa tích cực đối với đời sống quân sự của mỗi học viên. Nói cách khác,
các giá trị đạo đức của học viên chỉ được bộc lộ ra thông qua hành vi của cá nhân,
tập thể, và thông qua hành vi của cá nhân, xã hội mà các giá trị đạo đức được thực
hiện. Do đó, hành vi đạo đức của học viên TSQLQ2 luôn mang tính tự giác, tự
nguyện được dẫn dắt bởi những giá trị, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp. Đồng thời hành
vi đó không chỉ không chỉ mang tính nhân văn về mục tiêu mà còn mang tính nhân
văn về cả phương diện hành động, và đươc biểu hiện ra trong quá trình học tập,
công tác của mỗi học viên. Đó là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi học viên trước
Đảng, Tổ quốc và nhân dân; ý thức tự giác trong học tập, rèn luyện; ý thức, trách
nhiệm của bản thân mình trước tập thể và người khác, sẵn sàng đấu tranh, phê phán
các biểu hiện sai trái, những hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, kiên quyết bảo vệ
cái đúng, cái tốt, cái đẹp, không vụ lợi, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt các nhiệm
vụ được giao.
17
Hệ thống các quan hệ văn hoá đạo đức của học viên, phản ánh mối quan hệ
giữa người với người, cá nhân và tập thể trong cuộc sống hàng ngày về phương diện
văn hóa đạo đức. Các quan hệ văn hóa đạo đức thể hiện sự ràng buộc, tương tác lẫn
nhau giữa con người với con người, cá nhân và xã hội về phương diện đạo đức, là
cơ sở định hướng sự phát triển các quan hệ xã hội của con người. Xét về phương
diện văn hóa đạo đức, các quan hệ đạo đức của học viên ở TSQLQ2 phản ánh bản
chất của các hệ giá trị, tri thức, chuẩn mực văn hóa đạo đức của Nhà trường. Trong
đó, quan hệ nổi bật nhất là quan hệ đồng chí, đồng đội; cấp trên cấp dưới; tình cảm
thầy trò; gia đình; quê hương; bạn bè, quan hệ quân – dân. Các quan hệ đó, một mặt
phản ánh tính nghiêm cách của con người và tổ chức quân sự, mặt khác phản ánh
bản chất nhân văn của quân đội cách mạng. Cùng với sự phát triển của xã hội, các
quan hệ văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 đang ngày càng được phát triển,
bổ sung thêm những quan hệ mới nhằm làm phong phú hơn đời sống quân sự, góp
phần giảm thiểu những áp lực của đời sống quân sự. Chẳng hạn các quan hệ vùng,
miền, quan hệ cha con, chồng vợ... Tuy nhiên điều đó không làm ảnh hưởng đến các
quan hệ văn hóa đạo đức truyền thống của đời sống quân sự: thống nhất mà không
xơ cứng, đa dạng nhưng không làm mất đi bản sắc riêng của nó.
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, phát triển là quá trình tự thân của sự
vật, hiện tượng, tuân theo quy luật khách quan. Quá trình đó diễn ra từ thấp đến
cao, từ lượng đến chất, thông qua giải quyết các mâu thuẫn và theo các chu kỳ phủ
định liên tục, có sự chọn lọc, kế thừa những cái còn hợp lý từ cái cũ. Quá trình
phát triển trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao giờ cũng gắn liền với nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó vừa tuân theo quy luật khách quan
- vận động nội tại, vừa phụ thuộc vào hoạt động có ý thức của con người, con
người có thể nhận thức và vận dụng quy luật vào hoạt động thực tiễn, để thúc đẩy,
hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Từ những luận chứng trên có thể quan niệm: Phát triển văn hóa đạo đức của
học viên ở TSQLQ2 là quá trình tương tác biện chứng giữa chủ thể và khách thể theo
quy luật khách quan, từ đó từng bước hình thành ở học viên các giá trị, chuẩn mực,
18
biểu tượng đạo đức tiêu biểu, phù hợp với yêu cầu phát triển văn hóa đạo đức dân
tộc, quân đội và Nhà trường phản ánh giá trị xã hội của mỗi học viên biểu hiện ra
hành vi đạo đức của cá nhân và tập thể trong hoạt động thực tiễn quân sự.
Mục đích phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 nhằm nâng cao
chất lượng con người học viên, đáp ứng mục tiêu yêu cầu đào tạo đồng thời, là sự
hoàn thiện các giá trị văn hóa đạo đức chung và là quá trình tạo ra sự chuyển biến về
chất của tất cả các yếu tố, các thuộc tính có tính quy định về chất của người học viên,
nâng lên một trình độ mới theo tiêu chí nhân cách con người mới XHCN và những
tiêu chuẩn của người cán bộ quân đội trong thời kỳ mới.
Phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 là quá trình tương tác biện
chứng giữa các chủ thể và khách thể văn hóa đạo đức của Nhà trường
Sự phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 chịu sự chi phối của
hai nhân tố cơ bản, xuyên suốt quá trình phát triển là chủ thể tác động (gồm lãnh
đạo; chỉ huy, quản lý; truyền thụ) và chủ thể bị tác động (học viên). Tuy nhiên, sự
phân định đó chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi trong thực tế các chủ thể ấy luôn tác
động qua lại lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau và tác động đến khách thể và ngược lại.
Mặt khác, mỗi yếu tố, mỗi mặt có vai trò, vị trí riêng nhưng suy đến cùng, học viên là
chủ thể chủ yếu và trực tiếp quyết định quá trình phát triển đó.
Lãnh đạo bao gồm như hệ thống tổ chức đảng ở TSQLQ2, từ Thường vụ Đảng
ủy Nhà trường đến chi ủy, chi bộ các cơ quan đơn vị, các khoa giáo viên trong toàn
trường, có vai trò quyết định đến việc đề ra chủ trương, biện pháp, mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa đạo đức một cách đồng bộ thường xuyên. Thông qua
đó có tác động tích cực, mạnh mẽ đến nhận thức, trách nhiệm và hoạt động của các chủ
thể khác trong quá trình phát triển văn hóa đạo đức của học viên Nhà trường.
Hệ thống tổ chức chỉ huy, quản lý các cấp ở TSQLQ2 từ Ban Giám hiệu đến
Thủ trưởng các cơ quan chức năng liên quan và chỉ huy các khoa, các bộ môn, các
đơn vị quản lý học viên, có vai trò xác lập kế hoạch, tổ chức, quản lý điều hành toàn
bộ quá trình phát triển, tạo ra sự thống nhất nhịp nhàng giữa các chủ thể, giữa các
khâu, các bước trong toàn bộ quá trình đó nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy
quá trình đó đạt hiệu quả cao. Giảng viên, cán bộ quản lý học viên được huy động
19
tham gia vào quá trình phát triển văn hóa đạo đức của học viên, bằng uy tín, tình cảm,
niềm tin yêu học viên, có vai trò quan trọng trang bị kiến thức, rèn luyện chuẩn mực đạo
đức và hành vi đạo đức cần thiết cho học viên không ngừng nâng cao.
Chủ thể chịu sự tác động trong phát triển văn hóa đạo đức chính là bản thân
mỗi học viên ở Nhà trường. Mác đã từng chỉ ra: “Lịch sử xã hội của con người bao
giờ cũng là lịch sử phát triển cá nhân của họ, dù họ có nhận thức được điều đó hay
không cũng vậy”[24, tr. 657]. Tính cá biệt được quy định bởi phương diện phát triển
văn hóa đạo đức của học viên bao giờ cũng diễn ra trong những quan hệ cụ thể của
mỗi cá nhân. Trong các quan hệ xã hội và bị quy định bởi tính chất của các mối
quan hệ ấy; các quan hệ quân nhân trong tập thể quân nhân và vai trò của mỗi cá
nhân trong tập thể quân nhân là nhân tố chi phối trực tiếp nội dung và bộ mặt văn
hóa đạo đức của họ.
Với tính tích cực, chủ động tự giác của mình, học viên tự tiếp nhận có hiệu quả hệ
thống tri thức, những giá trị văn hóa đạo đức để chuyển hóa thành giá trị nhân cách của
mình. Tuy nhiên, chủ thể còn phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý cá nhân, cái riêng không lặp
lại ở mỗi con người. Những đặc điểm tâm lý cá nhân học viên đã hình thành ở họ “tính
cảm giác chủ quan”, và sự “phong phú của tính cảm giác chủ quan” ở mỗi học viên tạo ra
tính cá biệt, tính đơn nhất trong nhân cách của họ. Như vậy, phát triển văn hóa đạo đức
của học viên ở TSQLQ2 là quá trình hoạt động, tích cực, sáng tạo của các chủ thể,
mỗi chủ thể, mỗi hoạt động có vai trò, vị trí khác nhau nhưng đan xen, hòa quyện,
thúc đẩy nhau, không được xem nhẹ bất cứ một chủ thể, một hoạt động nào.
Nội dung phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 là quá trình vừa
tiếp nhận, phát triển ở họ những giá trị văn hóa đạo đức truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, giá
trị văn hóa đạo đức của dân tộc, của quân đội, Nhà trường, địa văn hóa đạo đức phương
Nam nơi nhà trường đóng quân. Phát triển những chuẩn mực khuôn mẫu đạo đức, tinh hoa
văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, hành vi và quan hệ đạo đức của học viên, biểu hiện ở lối
sống, ứng xử, thói quen chấp hành kỷ luật trong quá trình đào tạo và tự đào tạo. Đặc biệt,
tri thức khoa học, khả năng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn quân sự với mục tiêu
cụ thể của chuyên ngành đặt ra.
20
Thứ nhất, phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 là quá trình kế
thừa những giá trị văn hóa đạo đức truyền thống dân tộc, quân đội, đồng thời tiếp
thu giá trị văn hóa đạo đức xã hội và của Nhà trường.
Đây là giai đoạn học viên vừa tiếp nhận sự giáo dục, rèn luyện của quá trình
đào tạo vừa không ngừng tự giáo dục, tự rèn luyện để nâng cao trình độ mọi mặt
đáp ứng yêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đó là một
dòng chảy liên tục, một chuỗi những biến đổi không ngừng. Sự phát triển này vừa
mang tính kế thừa, tuần tự qua những giai đoạn, nấc thang khác nhau của quá trình
nhận thức, vừa có tính “vượt gộp”, qua đó hoàn thiện các hệ giá trị văn hóa đạo đức
truyền thống của dân tộc, của Đảng, của quân đội và Nhà trường. Đây là nội dung
cốt lõi nhất, cô đúc nhất của văn hóa đạo đức tinh hoa của dân tộc và quân đội cần
phải tiếp thu, kế thừa phát triển cho mỗi nhân cách học viên.
Phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 diễn ra trong môi trường
quân sự. Đây vừa là nơi rèn luyện, vừa là nơi thử thách năng lực mọi mặt của học
viên, nơi xây đắp nên tình đồng chí, đồng đội cao cả, xây đắp lý tưởng, niềm tin, sức
mạnh của mỗi học viên. Chính trong môi trường đó, thôi thúc học viên tự giác vươn
tới cái tốt, cái đúng và cái đẹp, loại bỏ cái xấu, cái sai, cái thấp hèn trong mỗi con
người. Vì thế, phát triển văn hóa đạo đức chính là trực tiếp nuôi dưỡng, phát triển
nhân cách học viên, tạo điều kiện cho mỗi học viên phát huy tối đa khả năng, năng
lực đáp ứng mục tiêu yêu cầu đào tạo. Phát triển văn hóa đạo đức của học viên là làm
cho mỗi học viên tiếp thu giá trị đạo đức, chuẩn mực, khuôn mẫu để giá trị đó ăn sâu,
bám chắc vào mỗi học viên, trở thành phẩm chất bên trong, bền vững khi được truyền
dẫn bằng con đường văn hóa, bằng sức mạnh văn hóa. Chính những yêu cầu đó được
chuyển hóa thành niềm tin, tình yêu, lẽ sống trong mỗi học viên.
Quá trình phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2, nét đặc thù cần
chú ý đến giá trị văn hóa bản địa nơi Nhà trường đóng quân. Giá trị văn hóa bản địa
là thành quả lao động sáng tạo mấy trăm năm mở cõi của nhân dân Miền Nam, là
chiếc nôi nuôi dưỡng biết bao thế hệ người trong lao động sản xuất, trong chiến
đấu với kẻ thù và cải tạo tự nhiên, hình thành nên truyền thống, phong tục, tập
21
quán, tính cách của con người, xứ sở phương Nam. Địa văn hóa đã hun đúc nên
truyền thống kiên cường, bất khuất của miền Nam “Thành đồng Tổ quốc”, đồng
thời hun đúc nên nét đẹp trong tính cách của con người phương Nam. Đó là sự
dung dị, chân chất, tôn trọng nghĩa tình, hào hoa, cởi mở trong giao tiếp, hoạt bát
trong tính cách, thẳng thắn trong ứng xử nhưng rất mực thủy chung. Vì thế, phát
triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 là sự thống nhất hòa quyện giữa
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, của Đảng, quân đội, Nhà trường với giá trị
văn hóa đạo đức của con người, xứ sở phương Nam, làm phong phú hơn đời sống
tinh thần của học viên, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập, rèn luyện của
học viên được phát triển tốt hơn về mặt nhân cách.
Thứ hai, phát triển văn hóa đạo đức của học viên ở TSQLQ2 là một quá trình
hoàn thiện các giá trị, tri thức, chuẩn mực đạo đức gắn liền với mục tiêu, yêu cầu đào
tạo, là sự đấu tranh giữa cái mới và cái cũ được thực hiện trong quan hệ đan xen, xoắn
xuýt với nhau không tách rời.
Mục tiêu yêu cầu đào tạo của học viên ở TSQLQ2 nội dung cốt lõi là phát triển tri
thức khoa học quân sự giúp họ có khả năng sáng tạo trong hoạt động quân sự với mục
tiêu giỏi chỉ huy trung đội, khá chỉ huy đại đội, biết chỉ huy tiểu đoàn, vận dụng linh
hoạt trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Có trí tuệ, chuyên môn nghiệp
vụ quân sự và khả năng sử hệ thống tri thức đó với mục đích nhân văn trong thực hiện
nhiệm vụ theo chức trách ở tầm phông văn hóa đạo đức cao. Đây là cuộc đấu tranh hết
sức khó khăn, phức tạp bởi cái cũ thường mất đi không dễ dàng, nhanh chóng, mà nó luôn
ám ảnh, cản trở sự ra đời của cái mới. Cái mới ra đời nhưng còn non yếu, để phát triển nó
phải thông qua vai trò tích cực của chủ thể. Mặt khác, cũng phải thấy rằng, không có cái
mới nào ra đời từ hư vô, nó chỉ có được trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển
những mặt, những yếu tố tích cực của cái cũ.
Hoàn thiện giá trị đạo đức của học viên cấp phân đội ở TSQLQ2 cần phải nắm
vững tri thức, có niền tin, lý tưởng, kiên định mục tiêu chiến đấu của Quân đội. Thấm
nhuần bảng giá trị đạo đức chung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: trung với
nước, hiếu với dân, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư... có bản lĩnh chính trị vững
vàng trong mọi tình huống, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ, phấn đấu trở
- Xem thêm -