MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Thị trường TPCP là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính. Nó
có chức năng thu hút, di chuyển các nguồn vốn từ nơi có khả năng sinh lợi
thấp đến nơi có khả năng sinh lợi cao hơn, và từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu
vốn; đáp ứng các yêu cầu về vốn để phát triển kinh tế - xã hội và là công cụ
hữu hiệu của Chính phủ trong quá trình điều hành vĩ mô nền kinh tế.
Trải qua hàng chục năm hình thành và phát triển, thị trường TPCP ở
Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong việc huy động
vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển; góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn
định nền tài chính quốc gia;, kiềm chếểm soát được lạm phát,; thúc đẩy quá
trình phát triển của thị trường tài chính. Sự có mặt của TTCK và thị trường
TPCP, đã góp phần khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường tài
chính, tạo cơ hội cho việc luân chuyển vốn đầu tư, đáp ứng yêu cầu về vốn
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ở Việt Nam, Qqua 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 - 2010, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng,
đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân 7,2%/năm, đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người
đạt 1.200 USD; để thực hiện thành công mục tiêu nâng thu nhập quốc dân năm
2010 tăng gấp đôi năm 2000; duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 7%- 8%;
phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại hoá và đẩy nhanh tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế,
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 - 8%/năm, GDP bình quân đầu người đạt
khoảng 3.000 - 3.200 USD, đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải đầu tư một
lượng vốn khá lớn để phát triển kinh tế - xã hội. Huy động vốn thông qua thị
trường TPCP thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan, là kênh huy
động vốn quan trọng cho NSNN và cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, trong quá
trình hoạt động thị trường TPCP ở Việt Nam còn bộc lộ không ít nhược điểm,
chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng của nền kinh tế; thị trường sơ cấp và
1
thị trường thứ cấp còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Để khai thác có hiệu
quả các nguồn vốn thông qua thị trường TPCP, đáp ứng nhu cầu về vốn cho
NSNN và cho đầu tư phát triển, đòi hỏi thị trường TPCP phải ngày càng được
củng cố, phát triển và hoàn thiện hơn nữa.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn Đđề tài:“Phát triển Thị trường
trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Tổng quan về Đề tài nghiên cứu:
Những công trình nghiên cứu về trái phiếu và thị trường trái phiếu nói
chung, TPCP và thị trường TPCP nói riêng không nhiều và phạm vi, mức độ
nghiên cứu cũng rất khác nhau. Một số công trình tiêu biểu, đó là: Luận án
Tiến sĩ của TS. Trần Xuân Hà (2004), “Sử dụng công cụ TPCP để huy động
vốn cho cho đầu tư phát triển ở Việt Nam”; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ của PGS.,TS. Lê Văn Hưng - KBNN (2005), “Các giải pháp nhằm tăng
cường huy động vốn cho đầu tư phát triển của Nhà nướcNhà nước, giai đoạn
2005 -2010”; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành - Ban Huy động vốn,
KBNN (2006), “Huy động nguồn vốn trong nước để bù đắp bội chi NSNN và
góp phần kiềm chế lạm phát ở Việt Nam"; Đề tài cấp ngành - Ban Huy động
vốn, KBNN, (2007), “Xây dựng trang thông tin về thị trường trái phiếu Chính
phủ"; Đề án của Vụ Tài chính Ngân hàng - Bộ Tài chính (2008), “Xây dựng
thị trường giao dịch trái phiếu Chính phủ chuyên biệt”.
Các công trình trên đây, ở các góc độ và mức độ khác nhau đã tiếp cận,
nghiên cứu về TPCP, thị trường TPCP và đề xuất các giải pháp phát triển thị
trường TPCP; tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu cả về lý luận,
thực tiễn và đưa ra hệ thống giải pháp cụ thể đối với việc phát triển thị trường
TPCP ở Việt Nam, đây cũng chính là vấn đề mà Luận án tập trung nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của Luận án
- Hệ thống, khái quát và luận giải để làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ
bản về trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu Chính phủ; làm sáng tỏ sự
tồn tại tất yếu khách quan, vai trò của thị trường TPCP trong nền kinh tế. Trên
cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển thị trường TPCP của một
2
số nước và vùng lãnh thổ phát triển trên thế giới, qua đó rút ra những bài học
kinh nghiệm trong quá trình phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP.
- Đánh giá thực trạng hoạt động thị trường TPCP của Việt Nam; qua đó
làm rõ những mặt đã làm được, những mặt còn hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế để làm căn cứ, cơ sở cho việc đưa ra các nhóm
giải pháp phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam.
- Đề xuất các quan điểm, mục tiêu phát triển thị trường TPCP ở Việt
Nam, trên cơ sở đó đưa ra các nhóm giải pháp, lộ trình phát triển và hoàn thiện
thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới góp phần vào quá trình phát
triển của thị trường tài chính, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ mở cửa và hội nhập.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về thị trường TPCP ở Việt
Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản về TPCP và thị trường TPCP; hoạt động của thị trường TPCP giai đoạn từ
năm 1990 - 2009 bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp; các giải
pháp phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam.
Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động của thị trường TPCP giai đoạn
từ năm 1990 - 2009 bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp; các
giải pháp phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án đã áp dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp thống kê,
tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu trong quá trình nghiên cứu. Các phương
pháp này dựa trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các kết quả nghiên cứu rút ra từ các
công trình nghiên cứu khoa học của các học giả trong và ngoài nước.
6. Những đóng góp của Luận án
- Hệ thống hoá, tổng quan những lý luận về trái phiếu Chính phủ và thị
trường TPCP. Làm rõ vai trò của thị trường TPCP trong nền kinh tế và những
yêu cầu hình thành, phát triển thị trường TPCP.
3
- Rút ra những bài học hữu ích từ việc nghiên cứu kinh nghiệm xây
dựng và phát triển thị trường TPCP của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới.
- Phân tích, đánh giá và là rõ thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam
bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp; đánh giá những kết quả đạt
được, hạn chế và nguyên nhân của thị trường TPCP ở Việt Nam thời gian qua.
- Đưa ra quan điểm, mục tiêu phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam
giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; đề xuất quan điểm hệ thống
giải pháp, lộ trình nhằm phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam
thời gian tới.
67. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, danh mục ký hiệu các
chữ viết tắt và, danh mục các bảng và đồ thị, Luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu Chính phủ.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của thị trường trái phiếu Chính phủ
ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp phát triển và hoàn thiện thị trường trái phiếu
Chính phủ ở Việt Nam.
4
Chương 1
TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ VÀ
THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦMột số
vẫn đề cơ bản về trái phiếu Chính phủ
1.1.1. Khái niệm trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu là một chứng chỉ vay nợ của Chính phủ hoặc doanh nghiệp,
thể hiện nghĩa vụ của người phát hành phải trả nợ cho người nắm giữ trái
phiếu một số tiền nhất định, vào những khoảng thời gian nhất định và phải trả
lại khoản tiền gốc khi khoản tiền vay đến hạn. Trái phiếu là loại chứng khoán
nợ, tổ chức phát hành với tư cách là người đi vay, người mua trái phiếu là
người cho vay, hay còn gọi là nhà đầu tư. Đối với chủ thể phát hành người
thiếu vốn, trái phiếu là phương tiện, công cụ vayhuy động vốn qua thị trường.
Đối với ngườinhà đầu tư, trái phiếu cũng là một phương tiện đầu tư để thu lời.
Trái phiếu thể hiện sự ràng buộc pháp lý giữa ngườitổ chức đi vay và người
cho vay. NgườiTổ chức đi vay có trách nhiệm phải trả cho chủ nợ một khoản
tiền gốc và lãi nhất định, đây là một hình thức tín dụng có nét đặc thù riêng, nó
ra đời muộn hơn các hình thức tín dụng khác và phát triển mạnh trong nền
kinh tế hàng hoá, đặc biệt là ở những quốc gia có thị trường chứng khoán phát
triển.
Trái phiếu có nhiều loại khác nhau, có loại do Chính phủ phát hành, có
loại do chính quyền địa phương phát hành, có loại do các công ty phát hành,
có loại do ngân hàng hoặc do các định chế tài chính khác phát hành. Từ những
5
đặc điểm chung nêu trên có thể đưa ra khái niệm về Trái phiếu Chính phủ như
sau: Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ, do Chính phủ phát
hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ
đối với người sở hữu trái phiếu.
1.1.2. Phân loại trái phiếu Chính phủ
1.1.2.1. Phân loại theo kỳ hạn và mục đích phát hành
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN, Chính phủ các nước thường
phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và các
tổ chức kinh tế xã hội. Chính phủ một quốc gia luôn được xem là nhàchủ thể
phát hành có uy tín nhất trên thị trường. TPCP là tên gọi chung của các loại
trái phiếu do các cơ quan, tổ chức được Chính phủ chỉ định cho phép phát
hành và được Chính phủ đảm bảo thanh toán.
Mục đích của việc phát hành trái phiếu Chính phủ là nhằm huy động
vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN, đầu tư xây dựng các công trình, dự án trọng
điểm hoặc để xây dựng, thực hiện các chương trình mục tiêu của Chính phủ.
Nguồn thanh toán trái TPCP chủ yếu lấy từ NSNN hoặc nguồn vốn thu hồi
trực tiếp từ các công trình được đầu tư từ nguồn vốn phát hành TPCP mang lại.
Do vậy, TPCP có tính an toàn cao, tính rủi ro thấp bởi vì nó được đảm bảo trả
nợ bằng nguồn vốn của NSNN.
Đối với các loại trái phiếu do KBNN phát hành, nguồn vốn thanh toán
được lấy từ nguồn vốn NSNN; còn đối với các loại trái phiếu do các cơ quan
khác được Chính phủ cho phép phát hành nguồn vốn thanh toán được lấy trực
tiếp từ nguồn thu của các chương trình, dự án đó mang lại, trong trường hợp
nếu các cơ quan được Chính phủ cho phép phát hành không có đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ thì Chính phủ sẽ đứng ra trả nợ.
Tuỳ theo đặc điểm của hệ thống chính trị, mức độ phát triển của thị
trường tài chính, mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia trong từng thời kỳ mà TPCP có các tên gọi khác nhau, được phát hành,
thanh toán, quản lý bởi các tổ chức khác nhau tuỳ theo quy định của mỗi nước.
Trái phiếu Chính phủ có nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ vào kỳ hạn và mục
đích phát hành thông thường thì TPCP được chia thành: Tín phiếu kho bạcTín
6
phiếu Kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình TW; trái phiếu đầu tư;
trái phiếu ngoại tệ; công trái xây dựng tổ quốc (Quốc trái)...
+ Tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc: Là loại TPCP có kỳ hạn dưới
1 năm, mục đích của việc phát hành tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc là
nhằm phát triển thị trường tiền tệ và huy động vốn để bù đắp thiếu hụt tạm
thời của NSNN trong năm tài chính. Tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc
được phát hành theo phương thức đấu thầu qua Sở giao dịch NHNN hoặc một
tổ chức khác tùy theo quy định của mỗi quốc gia, dưới hình thức chiết khấu
mệnh giá, khối lượng và lãi suất tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc được
hình thành qua kết quả đấu thầu. Bộ Tài chính có thể uỷ thác cho NHNN,
NHTM Nhà nướcNhà nước phát hành,phát hành, thanh toán tín phiếu kho
bạcTín phiếu Kho bạc. Toàn bộ khoản vay từ việc phát hành tín phiếu kho
bạcTín phiếu Kho bạc được tập trung vào ngân sách Trung ươngNhà nước để
sử dụng theo quy định; ngân sách Trung ương Nhà nước đảm bảo nguồn thanh
toán gốc, lãi tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc và chi phí tổ chức phát hành,
thanh toán cho các tổ chức nhận uỷ thác phát hành. Tín phiếu kho bạcTín
phiếu Kho bạc được giao dịch trên thị trường Mở hoặc được chiết khấu tại Sở
giao dịch của NHNN.
+ Trái phiếu kho bạc: Là loại TPCP có kỳ hạn từ 01 năm trở lên,
phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt của NSNN hàng năm. Nguồn vốn
thanh toán gốc và lãi Trái phiếu kho bạc được lấy từ nguồn vốn NSNN;, vì
thếvậy, loại trái phiếu này có độ rủi ro không đáng kể. Trái phiếu kho bạc
được bán lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua TTGDCK, (nay là Sở
GDCK), bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành. Lãi suất trái phiếu kho bạc do
Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường
tài chính tại thời điểm phát hành. Trường hợp đấu thầu lãi suất thì lãi suất
hình thành qua kết quả đấu thầu.
+ Trái phiếu công trình TW: Là loại TPCP có kỳ hạn từ 01 năm trở
lên, phát hành nhằm huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
để đầu tư, cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách Trung ương đã
ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Trái
7
phiếu công trình Trung ương được phát hành theo phương thức bán lẻ qua hệ
thống KBNN, đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành. Lãi suất tTrái phiếu công
trình Trung ương do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình
thực tế của thị trường tài chính tại thời điểm phát hành, nếu đấu thầu lãi suất
thì lãi suất được hình thành theo kết quả đấu thầu. Các khoản thu từ phát hành
tTrái phiếu công trình tTrung ương được tập trung vào ngân sách TW để chi
cho các công trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. NSTW đảm bảo
việc thanh toán gốc, lãi và phí đối với trái phiếu công trình Trung ương.
+ Trái phiếu đầu tư: Là loại TPCP có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do các
tổ chức tài chính Nhà nướcNhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụng được
Thủ tướng Chính phủ chỉ định phát hành nhằm huy động vốn để đầu tư theo
chính sách của Chính phủ. Nếu phát hành theo phương thức bán lẻ thì lãi suất
trái phiếu do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế
của thị trường tài chính và nhu cầu vốn của các tổ chức phát hành; nếu phát
hành theo phương thức đấu thầu thì lãi suất hình thành theo kết quả đấu thầu
trong giới hạn trần lãi suất đã được Bộ Tài chính quy định. Tiền thu từ phát
hành trái phiếu đầu tư phải được theo dõi riêng và chỉ sử dụng cho mục tiêu
kinh tế đã được Chính phủ phê duyệt. Tổ chức phát hành có trách nhiệm thanh
toán gốc, lãi các trái phiếu đầu tư đã phát hành đến hạn thanh toán và các chi
phí liên quan đến việc phát hành; NSNN đảm nhận thanh toán một phần hay
toàn bộ lãi trái phiếu hoặc cấp bù chênh lệch lãi suất cho tổ chức phát hành
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
+ Trái phiếu ngoại tệ: Là TPCP có kỳ hạn từ một01 năm trở lên do Bộ
Tài chính phát hành, huy động vốn để đầu tư cho các mục tiêu theo chỉ định
của Thủ tướng Chính phủ. Đồng tiền phát hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi
và được Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định cho từng đợt phát hành. Trái phiếu
ngoại tệ được bán lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua NHNN hoặc đấu
thầu qua Sở Giao dịch Chứng khoán. NSNN đảm bảo thanh toán gốc, lãi trái
phiếu ngoại tệ khi đến hạn.
+ Công trái xây dựng tổ quốc: Công trái xây dựng tổ quốc phát hành
nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân, các tầng lớp dân cư trong xã hội để
8
đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết
yếu kháác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất
nước. Việc mua công trái thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Nhà nướcNhà
nước đảm bảo giá trị công trái và bảo hộ quyền sở hữu, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của người sở hữu công trái.
1.1.2.2. Phân loại theo lợi tức trái phiếu
- Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác
định theo một tỷ lệ phần trăm (%) cố định theo mệnh giá.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi (thả nổi): Lợi tức của trái phiếu được trả
trong các kỳ có sự khác nhau được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo
một lãi suất tham chiếu.
- Trái phiếu có lãi suất bằng không (zero - coupon Bonds): Là loại trái
phiếu mà người mua không nhận được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn
mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó
đáo hạn.
1.1.2.3. Phân loại theo hình thức trái phiếu
- Trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên của người mua
trên chứng chỉ trái phiếu hoặc trong sổ sách của tổ chức phát hành. Người
nắm giữ trái phiếu là người được hưởng quyền lợi của chủ sở hữu trái phiếu
theo quy định.
- Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên ngườinhà đầu tư trên
chứng chỉ trái phiếu hoặc trong sổ của tổ chức phát hành.
Ngoài cách phân loại chủ yếu nêu trên, người ta còn có nhiều cách phân
loại khác nhau như: Căn cứ vào mức độ rủi ro tín dụng, vào tính chất của trái
phiếu và vào phạm vi phát hành (trái phiếu trong nước và trái phiếu quốc tế),...
1.1.3. Đặc điểm của trái phiếu Chính phủ
1.1.3.1. Tính sinh lời thấp
Trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ, khi đầu tư vào
trái phiếu tức là nhà đầu tư sẽ thu được một khoản lợi tức mong đợi trong
tương lai; với uy tín của chủ thể phát hành là Chính phủ và nguồn vốn thanh
toán TPCP khi đến hạn được đảm bảo bằng nguồn vốn của NSNN; vì vậy, về
9
nguyên tắc, lãi suất TPCP phải thấp hơn lãi suất thị trường vay nợ cùng kỳ
hạn, do đó tính sinh lời của TPCP sẽ không cao so với các công cụ nợ khác
trên thị trường, đối với TPCP có các khoản lợi tức sau:
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất trái phiếu thường được ghi trên chứng
chỉ trái phiếu hoặc tổ chức phát hành công bố, lãi suất danh nghĩa có tính ổn
định cao vì tỷ lệ lãi suất trái phiếu và mệnh giá là cố định trong một kỳ hạn.
Lãi suất trái phiếu mới chỉ phản ánh được chủ thể phát hành phải trả lãi trái
phiếu đó là bao nhiêu; điều đáng quan tâm ở đây là lãi suất hoàn vốn, lãi suất
hoàn vốn hay nói một cách chính xác hơn là lãi suất hoàn vốn nội bộ (Internal
rate of return - IRR) là một lãi suất mà với mức lãi suất đó sẽ làm cho giá trị
hiện tại của các khoản tiền thu được trong tương lai do đầu tư đưa lại bằng với
giá trị hiện tại của khoản vốn đầu tư; lãi suất hoàn vốn là một thước đo mức
sinh lời của trái phiếu cũng như đối với bất kỳ khoản đầu tư nào. Giá trị hiện
tại và lãi suất hoàn vốn của một trái phiếu coupon có quan hệ nghịch đảo, giá
càng cao thì lãi suất hoàn vốn càng thấp và ngược lại. Khi giá trái phiếu
coupon được đặt bằng mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn bằng lãi suất của cuống
phiếu. Lãi suất hoàn vốn lớn hơn lãi suất coupon khi giá trái phiếu thấp hơn
mệnh giá.
Giá trị hiện tại của trái phiếu coupon được tính theo công thức sau:
C
C
C
C
F
Pb
.....
n
1 i 1 i 2 1 i 3
1 i 1 i n
(1.1)
Trong đó:
C : Là tiền coupon hàng năm (tiền lãi trái phiếu hàng năm)
F : Là mệnh giá trái phiếu (giá trị hoàn vốn của trái phiếu)
N : Là số năm tới ngày đáo hạn
Pb: Là giá của trái phiếu coupon
i : Là tỷ lệ chiết khấu (lãi suất) được xác định theo lãi suất thị
trường hoặc lãi suất trù tính của người đầu tư
Với trái phiếu chiết khấu, giá trị hiện tại được tính như sau
Pd
F
1 i n
(1.2)
10
Trong đó:
F
: Là mệnh giá trái phiếu.
n
: Là số năm tới ngày đáo hạn.
PdPDs : Là giá của trái phiếu chiết khấu.
i
:
Là tỷ lệ chiết khấu (lãi suất) được xác định theo lãi suất thị
trường hoặc lãi suất trù tính của người đầu tư.
- Lãi suất hoàn vốn hiện hành: Được hình thành khi mua, bán trái phiếu
trên thị trường và nó là số đo gần đúng với lãi suất hoàn vốn; khi giá mua
(hoặc bán) trái phiếu bằng mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn hiện hành chính bằng
lãi suất hoàn vốn, nghĩa là giá trái phiếu càng gần với mệnh giá thì lãi suất
hoàn vốn hiện hành càng gần với lãi suất hoàn vốn. Như vậy, lãi suất hiện
hành biến động cùng chiều với lãi suất hoàn vốn.
Đối với trái phiếu có cuống thanh toán lãi, lãi suất hoàn vốn hiện hành
được xác định như sau:
Ic
C
Pb
(1.3)
Trong đó:
Ic : Là lãi suất hoàn vốn hiện hành
Pb : Là giá trái phiếu coupon (giá trái phiếu hiện hành)
C : Là tiền lãi coupon hàng năm (tiền lãi trái phiếu hàng năm)
Đối với trái phiếu chiết khấu, lãi suất hoàn vốn được tính như sau:
I
F
Pd
360
F
Sè ngµy tíi khi d ¸o h¹n
(1.4)
Trong đó:
I : Là lãi suất hoàn vốn
F : Là mệnh giá của trái phiếu chiết khấu
PdPDs: Là giá mua trái phiếu chiết khấu
- Lợi tức đáo hạn hay còn gọi là lợi tức đầu tư trái phiếu là mức sinh lời
của trái phiếu dựa trên lãi suất; thời gian đáo hạn và giá mua trái phiếu trên thị
trường. Lợi tức của một trái phiếu không nhất thiết phải bằng lãi suất trái phiếu
đó. Lợi tức hoàn vốn của trái phiếu được xác định như sau:
11
Re
C Pt 1 Pt
Pt
(1.5)
Trong đó:
Re
Pt
Pt+1
C
: Là lợi tức trái phiếu từ t đến t+1
: Là giá trái phiếu ở thời điểm t
: Là giá trái phiếu ở thời điểm t+1
: Là tiền lãi coupon
Nếu lãi suất thị trường tăng sẽ làm sụt giảm giá trái phiếu, dẫn đến tình
trạng thua lỗ về vốn đối với những trái phiếu mà thời gian đến ngày đáo hạn
dài hơn thời gian lưu giữ trái phiếu. Lãi suất thị trường tăng quá cao có thể dẫn
đến tình trạng lỗ vốn quá lớn, khi mức lỗ về vốn cao hơn mức lãi suất hiện
hành ban đầu thì lãi suất kỳ hạn của trái phiếu trở thành lãi suất âm. Lãi suất
thị trường giảm sẽ làm cho giá trái phiếu tăng lên và sẽ có mức lời về vốn đối
với những trái phiếu mà thời gian đến ngày đáo hạn dài hơn thời gian lưu giữ
trái phiếu.
1.1.3.2. Tính rủi ro thấp
Trái phiếu nào cũng có tính rủi ro, mức độ cao hay thấp thì hoàn toàn
phụ thuộc vào tính chất, đặc thù của từng loại trái phiếu. Thường thìKhi nhà
đầu tư đầu tư vào trái phiếu đều kỳ vọng vào tiền lãi mà không tham gia trực
tiếp vào quá trình quản lý của tổ chức phát hành trái phiếu; tuy nhiên, trước lúc
đầu tư vào trái phiếu họ cũng phải so sánh, cân nhắc giữa tiền lời thu được từ
lãi trái phiếu so với lợi nhuận thu được từ việc đầu tư vào các lĩnh vực khác.
Khi nền kinh tế có những biến động tiêu cực như: tTỷ lệ lạm phát, lãi suất thị
trường cao, kinh tế khủng khoảng,... thì những yếu tố này cũng có những ảnh
hưởng không nhỏ đến rủi ro trong việc đầu tư vào trái phiếu. Khi trái phiếu
được lưu hành, giá của trái phiếu được hình thành trên thị trường do cung và
cầu quyết định. Rủi ro đối với đầu tư vào trái phiếu thể hiện trên hai khía cạnh
đó là: Khi lãi suất thị trường tăng làm cho giá trái phiếu giảm điều này ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi tức đầu tư vào trái phiếu. Trong trường hợp trái phiếu
có tính thanh khoản thấp thì việc chuyển đổi trái phiếu ra tiền mặt sẽ gặp nhiều
khó khăn.
12
Các loại trái phiếu khác nhau có mức độ rủi ro khác nhau; cụ thể, TPCP
có mức độ rủi ro thấp nhất vì nguồn vốn thanh toán TPCP khi đến hạn được
đảm bảo bằng nguồn NSNN; trái phiếu chính quyền địa phương thì được đảm
bảo bằng ngân sách của địa phương; trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh trong
trường hợp nhà phát hành không có khả năng trả nợ thì Chính phủ sẽ hỗ trợ;
trong khi đó trái phiếu công ty thì có mức độ rủi ro cao hơn vì nguồn vốn đảm
bảo thanh toán các khoản nợ phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính của chủ
thể phát hành.
1.1.3.3. Tính thanh khoản cao
Đó chính là khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt, mỗi một loại
trái phiếu khác nhau có khả năng thanh khoản khác nhau; TPCP thông thường
có tính thanh khoản cao hơn so với các loại trái phiếu khác. Tín phiếu kho
bạcTín phiếu Kho bạc là loại TPCP có tính thanh khoản cao nhất bởi vì kỳ hạn
của nó ngắn (dưới 1 năm), nó là một trong những công cụ quan trọng của thị
trường tiền tệ; tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc cũng là một yếu tố cấu
thành khối lượng tiền trong lưu thông, nó được mua bán trên thị trường tiền tệ;
trái phiếu kho bạc thường có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, do vậy tín thanh khoản
của TPKB thấp hơn tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc; TPKB đáp ứng đủ
điều kiện thì được giao dịch trên thị trường thứ cấp, trong quá trình này
NHTW cũng tham gia với vai trò là chiết khấu ngắn hạn các công cụ nợ dài
hạn, vì thế mà TPKB cũng là một công cụ nợ có tính thanh khoản khá cao.
Trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do cơ quan Chính phủ
phát hành có tính thanh khoản thấp hơn tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc và
trái phiếu kho bạc. Thông qua việc nắm bắt được đặc điểm chung của trái
phiếu và các đặc điểm riêng của từng loại trái phiếu, giúp cho các nhà đầu tư
trong việc ra quyết định khi tham gia đầu tư vào thị trường nợ đầy hấp dẫn
này.
1.1.4. Các yếu tố cơ bản của trái phiếu Chính phủ
1.1.4.1. Mệnh giá trái phiếu
13
Mệnh giá trái phiếu hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là
giá trị được ghi trên trái phiếu; giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá
trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà tổ chức phát hành phải
trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền tổ chức phát hành phải hoàn trả khi trái
phiếu đến hạn.
1.1.4.2. Kỳ hạn trái phiếu
Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày tTổ chức phát hành
hoàn trả tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán
lần cuối được gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu. Có nhiều cách phân loại kỳ
hạn trái phiếu khác nhau, trên thực tế người ta thường phân ra các loại kỳ hạn
sau: Trái phiếu ngắn hạn (có kỳ hạn dưới một01 năm - tín phiếu); trái phiếu
trung hạn (có kỳ hạn từ 1 đến 5 năm); trái phiếu dài hạn (có kỳ hạn từ 5 năm
trở lên).
1.1.4.3. Lãi suất trái phiếu
Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc tổ chức phát
hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa; lãi suất này được xác định theo
tỷ lệ phần trăm (%) so với mệnh giá của trái phiếu và cũng là một căn cứ để
xác định lợi tức của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu là một trong những yếu tố
cơ bản nhất của trái phiếu, đó là tiêu điểm quan tâm của nhà đầu tư; do vậy, nó
có ảnh hưởng nhiều đến giá của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu phụ thuộc nhiều
vào các yếu tố như thời hạn của trái phiếu;, chỉ số lạm phát và những biến
động khác của thị trường.
1.1.4.4. Giá phát hành
Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường, giá
phát hành được xác định theo tỷ lệ (%) của mệnh giá. Tuỳ theo tình hình của
thị trường và của tổ chức phát hành để xác định giá phát hành một cách hợp
lý. Có thể phân biệt ra 3 trường hợp sau:
+ Giá phát hành bằng mệnh giá.
+ Giá phát hành thấp hơn mệnh giá.
14
+ Giá phát hành cao hơn mệnh giá.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về thị trường trái phiếu Chính phủMỘT SỐ
VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
1.2.1. Khái niệm thị trường trái phiếu Chính phủ
Thị trường TPCP là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra
các hoạt động phát hành, niêm yết, giao dịch, mua, bán các loại TPCP. Trái
phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ phát hành, TPCP là
một trong những công cụ nợ của Chính phủ chính vì vậy mà thị trường TPCP
được coi là thị trường nợ. Trên thực tế, với sự đa dạng của TPCP về kỳ hạn, lãi
suất; do vậy, TPCP không những tham gia vào thị trường tiền tệ mà còn tham
gia vào thị trường vốn. Tín phiếu kho bạcTín phiếu Kho bạc sau khi phát hành
được mua, bán trên thị trườnguờng tiền tệ hoặc chiết khấu, tái chiết khấu cầm
cố tại ngân hàng theo quy định của Nhà nướcNhà nước, tín phiếu kho bạcTín
phiếu Kho bạc là một công cụ quan trọng để
NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Thông qua việc mua, bán tín phiếu
kho bạcTín phiếu Kho bạc, NHTW thực hiện điều hoà lượng tiền cung ứng và
thực thi các chính sách tiền tệ của mình. Vì vậy, ngay cả trong trường hợp
NSNN không bị thâm hụt, thì Bộ Tài chính vẫn phát hành tín phiếu kho
bạcTín phiếu Kho bạc với mục đích góp phần thực hiện các chính sách tiền tệ
của Nhà nướcNhà nước.
TPCP có kỳ hạn (trung hạn và dài hạn) nếu đáp ứng đủ các điều kiện kỹ
thuật theo quy định của Sở GDCK thì được niêm yết, giao dịch trên TTCK.
Với sự có mặt của TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu
chính quyền địa phương đã góp phần làm đa dạng hàng hoá trên thị trường tài
chính. Bên cạnh đó, việc mở rộng và tự do hoá thị trường vốn trong nước là cơ
hội tốt để cho các nhà đầu tư thực hiện các giao dịch trái phiếu trên thị trường.
Thông qua các hoạt động giao dịch này góp phần khai thông các nguồn vốn
trong nền kinh tế, nâng cao vị trí của thị trường TPCP trong thị trường tài
chính.
1.2.2. Các chủ thể tham gia thị trường trái phiếu Chính phủ
1.2.2.1. Chủ thể phát hành
15
Chủ thể phát hành trái phiếu là một tổ chức cần vốn và thực hiện huy
động vốn bằng cách phát hành trái phiếu ra thị trường thông qua việc bán trái
phiếu cho các nhà đầu tư. Đối với TPCP, Chính phủ và các chính quyền địa
phương là chủ thể phát hành trái phiếu với khối lượng lớn nhất ra thị trường.
Điều này là dễ hiểu, vì không phải lúc nào Chính phủ cũng có đủ nguồn
NSNN dự trữ để bù đắp thiếu hụt NSNN và đảm bảo cho những khoản chi lớn
cho đầu tư phát triển. Hầu hết Chính phủ các nước trên thế giới đều sử dụng
hình thức huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thông qua việc phát
hành TPCP. Chính phủ tham gia vào thị trường trái phiếu với tư cách là chủ
thể phát hành, là người cung cấp hàng hóa cho thị trường tài chính. Thông qua
thị trường tài chính, Chính phủ sẽ thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân cư; thu hút các nhà đầu tư tham gia vào thị trường này và cuối cùng Chính
phủ sẽ tập trung được một lượng tiền cần thiết để đầu tư cho các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội. Tổ chức phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ là
một tổ chức được Chính phủ chỉ định, cho phép, uỷ quyền thực hiện việc phát
hành (bán), thanh toán trái phiếu cho các nhà đầu tư; tuỳ thuộc vào mức độ
phát triển của thị trường, cơ cấu thị trường, thể chế chính trị của mỗi quốc gia
mà tổ chức phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ có thể là (Kho bạc Nhà
nướcNhà nước, Quỹ Tiết kiệm bưu điện, Ngân hàng Phát triển,...).
1.2.2.2. Các tổ chức tài chính trung gian
Khác với các thị trường khác, thị trường TPCP muốn hoạt động được
ngoài việc tham gia của chủ thể phát hành và nhà đầu tư ra thì luôn tồn tại chủ
thể thứ ba đó là các tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian là người đứng ra
kết nối các hoạt động mua, bán, trao đổi giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư;
giữa các nhà đầu tư với nhau. Các tổ chức trung gian trên thị trường TPCP
bao gồm:
- Thứ nhất, tổ chức bảo lãnh, đại lý phát hành
Tổ chức bảo lãnh hoặc đại lý đối với trường hợp phát hành trái phiếu
theo phương thức bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành là các công ty
Chứng khoán; Quỹ đầu tư; Công ty tài chính; các NHTM. Để thực hiện được
16
việc bảo lãnh phát hành tức là tổ chức này giúp cho tổ chức phát hành thực
hiện các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường; phân phối trái
phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái
phiếu còn chưa phân phối hết. Trong khi đó, Tổ chức đại lý phát hành được
chính tổ chức phát hành trái phiếu ủy thác cho thực hiện việc bán trái phiếu
cho các nhà đầu tư.
Bảo lãnh phát hành gồm hai khâu cơ bản: Tư vấn tài chính và phân phối
chứng khoán. Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng một khoản phí nhất
định căn cứ trên số tiền thu được từ đợt phát hành;. Pphí bảo lãnh phát hành
được quy định theo một tỷ lệ nhất định. Việc bảo lãnh phát hành thường được
thực hiện theo một trong các phương thức sau:
Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: Là phương thức bảo lãnh, mà theo đó
tổ chức bảo lãnh cam kết ngoài việc thực hiện các thủ tục trước khi phát hành
trái phiếu ra thị trường, phân phối lại trái phiếu cho các nhà đầu tư và nhận
mua lại trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết.
Bảo lãnh theo phương thức cố gắng cao nhất: Là phương thức bảo
lãnh, mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát
hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán
mà chỉ cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng
phần không phân phối hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành.
Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: Là phương thức bảo
lãnh mà theo đó tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu
không bán hết số chứng khoán thì hủy bỏ toàn bộ đợt phát hành.
Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: Là phương thức bảo lãnh
trung gian giữa phương thức bảo lãnh cố gắng cao nhất và phương thức bảo
lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành chỉ thị
cho tổ chức bảo lãnh phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát
hành. Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì
toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ.
Hoạt động bảo lãnh phát hành về cơ bản gồm có các hoạt động sau: (i)
.NNghiên cứu và tư vấn cho các tổ chức phát hành chứng khoán cách thức
17
phát hành, cơ cấu phát hành và định giá chứng khoán. (ii). Chuẩn bị và hoàn
tất các thủ tục pháp lý cần thiết cho đợt phát hành. (iii). Thoả thuận, hợp tác
với các nhà bảo lãnh phát hành khác và các công ty chứng khoán, thực hiện
công tác tiếp thị, phân phối chào bán chứng khoán. (iv). Quản lý, phân phối và
thanh toán chứng khoán. (v). Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và
các dịch vụ sau khi phát hành.
- Thứ hai, tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Là tổ chức chuyên về đánh giá mức độ tín nhiệm của các tTổ chức phát
hành và xếp hạng chúng theo năng lực thanh toán tiền lãi và vốn vay theo kỳ
hạn đã cam kết của tổ chức phát hành trái phiếu. Tại nhiều nước đã hình thành
những tổ chức chuyên môn phân tích và đánh giá hệ số tín nhiệm đối với nhà
phát hành. Hai công ty lâu đời và nổi tiếng trong lĩnh vực này là hai công ty
của Mỹ: Công ty Moody và công ty Standard và Poors (S & P), các công ty
này đưa ra ký hiệu trong việc xếp hạng trái phiếu theo mức độ rủi ro và cách
xếp hạng này được sử dụng phổ biến ở các nước. Mức độ tín nhiệm của các
công ty thường được xếp theo các chữ cái A, B, a, b,…dưới đây là cách xếp
hạng của hai công ty nói trên: AAA thể hiện chất lượng cao nhất đó là việc
chắc chắn hoàn trả được tiền lãi và tiền gốc cho các nhà đầu tư chứng khoán;
với mức AA thì năng lực thanh toán tiền gốc và lãi có phần kém hơn so với
AAA; tiếp theo là các hạng A, BBB, BB,B, CCC, CC,C… và thấp nhất là D
(thể hiện có nguy cơ vỡ nợ). Ngoài ra người ta còn sử dụng thêm các dấu (+)
và (-) để thể hiện mức độ đánh giá chính xác hơn.
Hệ số tín nhiệm sẽ cung cấp những thông tin cần thiết cho nhà đầu tư về
tình trạng của tổ chức phát hành để lựa chọn khi đầu tư vào trái phiếu một cách
thích hợp. Hệ số tín nhiệm góp phần làm giảm bớt chi phí sử dụng vốn cho
ngườitổ chức phát hành, khi một tổ chức phát hành có định mức tín nhiệm cao
thì việc phát hành trái phiếu sẽ thuận lợi, dễ dàng, giảm được chi phí huy động
vốn và họ có thể phát hành trái phiếu ở mức lãi suất thấp hơn lãi suất các loại
hình tín dụng khác nhưng vẫn thu hút được các nhà đầu tư. Định mức tín
nhiệm nâng cao trách nhiệm của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư vì việc
đánh giá định mức tín nhiệm liên quan đến chữ “Ttín” của tổ chức phát hành,
18
điều đó thúc đẩy ngườitổ chức phát hành thực hiện tốt hơn cam kết đối với
nhà đầu tư trong việc đảm bảo thanh toán tiền lãi và tiền vốn vay.
- Thứ ba, đại lý phân phối chứng khoán
Để phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư được thuận tiện, tổ chức
phát hành thường thuê một hoặc một nhóm công ty đứng ra làm đại lý phân
phối chứng khoán. Công ty này thường có mạng lưới, chi nhánh rộng, tạo điều
kiện để người có nhu cầu đầu tư dễ dàng có được các thông tin cần thiết trước
khi đưa ra các quyết định đầu tư của mình. Kết thúc đợt phát hành, tổ chức
phát hành sẽ thanh toán chi phí cho tổ chức đứng ra nhận làm đại lý phân phối
trái phiếu dựa trên khối lượng và giá trị đợt phát hành.
- Thứ tư, tổ chức môi giới chứng khoán
Là tổ chức có chức năng tư vấn, giúp đỡ các nhà đầu tư trong việc ra
quyết định đầu tư và thực hiện các quyết định đầu tư đó. Tổ chức môi giới
chứng khoán cũng có thể đưa ra các lời khuyên về hoạt động nghiệp vụ đối với
các công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính.
- Thứ năm, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty
chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán,
mục đích là bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn
ngànhlĩnh vực chứng khoán nói chung. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán thường là một tổ chức tự điều hành.
1.2.2.3. Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch có tổ chức để giao dịch
các chứng khoán được niêm yết. SGDCK thực hiện vận hành thị trường thông
qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động
trên thị trường sở giao dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy
định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán ở Sở, phù hợp với các
quy định luật pháp về chứng khoán và giao dịch chứng khoán.
1.2.2.4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ
19
Là tổ chức nhận lưu giữ, bảo quản các chứng khoán của khách hàng và
tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán, thực
hiện các quyền đối với chứng khoán cho người sở hữu.
1.2.2.5. Các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư chính là những người tham gia mua, bán, giao dịch các
loại chứng khoán nợ do Chính phủ phát hành. Nếu phân loại theo quy mô, tổ
chức của các chủ thể đầu tư thì phân chia thành các nhà đầu tư cá nhân và các
nhà đầu tư có tổ chức. Thông thường, các nhà đầu tư cá nhân là các hộ gia
đình, những người dân có khoản tiền nhàn rỗi, thay vì gửi tiết kiệm vào ngân
hàng họ quyết định đầu tư dưới hình thức mua TPCP. Còn các nhà đầu tư có
tổ chức là các công ty kinh doanh chứng khoán, tổ chức tài chính,... họ là
những tổ chức chuyên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực mua, bán chứng
khoán và sử dụng các nguồn vốn kinh doanh của mình để đầu tư vào TPCP, vì
đây là lĩnh vực đầu tư khá an toàn, lãi suất TPCP thường ổn định, ít có những
biến động lớn, hệ số tín nhiệm của chủ thể phát hành rất cao, nguồn thanh
toán TPCP đến hạn được bảo đảm từ nguồn vốn của NSNN.
1.2.3. Phân loại thị trường trái phiếu Chính phủ
1.2.3.1. Thị trường sơ cấp
Thị trường TPCP là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra
các hoạt động phát hành, niêm yết, giao dịch, mua, bán các tài sản tài chính.
Thị trường TPCP là một bộ phận không thể tách rời thị trường chứng khoán;
thông qua thị trường TPCP, Chính phủ sẽ thu hút và khơi thông được các
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để tập trung đầu tư cho các mục tiêu dài hạn
đã được hoạch định. Theo cơ chế hoạt động, thị trường TPCP cũng bao gồm
có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường để
thực hiện việc phát hành mới các loại TPCP, khác với thị trường thứ cấp là nơi
mua, bán các loại TP đã phát hành trước đó. Như vậy, thị trường sơ cấp là nơi
cung cấp vốn, thông qua hoạt động của thị trường này những luồngnguồn tiền
nhàn rỗi trong dân chúng và các tổ chức kinh tế - xã hội có thể được chuyển
thành vốn đầu tư dài hạn cho tổ chức phát hành TPCP; thị trường này có đặc
20
- Xem thêm -