Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển thị trường ngoại hối việt nam (thí điểm tại ngân hàng ngoại thương) –...

Tài liệu Phát triển thị trường ngoại hối việt nam (thí điểm tại ngân hàng ngoại thương) – những vấn đề đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế

.PDF
85
64
60

Mô tả:

LUẬN VĂN: Phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam (Thí điểm tại ngân hàng Ngoại Thương) – những vấn đề đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế Phần mở đầu Trong những thập kỷ qua, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển của chiến lược toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Mọi hoạt động thương mại, sản xuất và đầu tư ngày càng mang tính quốc tế. Nếu trước đây, hoạt động thương mại chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia hay khu vực và chỉ liên quan đến một đồng tiền thanh toán thì nay thương mại quốc tế đã mở rộng đến tất cả các nước trên thế giới, do đó có rất nhiều đồng tiền khác nhau tham gia vào quá trình thanh toán. Chính sự toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã thúc đẩy các hoạt động thương mại, làm tăng lượng giao dịch trong hoạt động tài chính của các quốc gia, vì thế đã làm xuất hiện thị trường ngoại hối và thúc đẩy thị trường này phát triển ngày càng mạnh mẽ, hình thành nên những trung tâm tài chính quốc tế lớn hỗ trợ hiệu quả cho chu chuyển tiền tệ, phục vụ nhu cầu thanh toán quốc tế. Việt Nam đang tích cực tham gia vào tiến trình hội nhập, vào xu thế chung về tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế. Với chủ trương phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, công cuộc đổi mới của chúng ta đã và đang được tiến hành đồng thời với sự phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu hướng quốc tế hoá. Trong tiến trình hội nhập kinh tế có tính toàn cầu đó, hoạt động của thị trường ngoại hối ngày càng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài. Vì vậy, việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam theo hướng toàn diện, hiện đại, phù hợp với trình độ và tiêu chuẩn quốc tế là rất cần thiết, nhằm bôi trơn và thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế, cung cấp các công cụ phòng chống rủi ro, là điều kiện để hình thành tỷ giá theo quan hệ cung cầu và là nơi để Ngân hàng Trung ương can thiệp lên tỷ giá theo hướng có lợi cho nền kinh tế. ở nước ta, thị trường ngoại hối là một lĩnh vực rất mới và còn đang ở trong thời kỳ sơ khai, cơ chế quản lý nền kinh tế nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng đang trong quá trình từng bước được hoàn thiện. Một thị trường ngoại hối phát triển hoàn thiện với các hoạt động kinh doanh lành mạnh sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu, tìm ra giải pháp hiệu quả nhất cho sự phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Do đó em xin chọn đề tài: “ Phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam (Thí điểm tại ngân hàng Ngoại Thương) – những vấn đề đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế “ làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề chung về thị trường ngoại hối. Chương II: Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam và vai trò của Ngân hàng Ngoại Thương trong việc phát triển thị trường ngoại hối. Chương III: Một số giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Chương I những vấn đề chung về Thị Trường Ngoại Hối 1. Khái quát chung về Thị Trường Ngoại Hối. 1.1 Khái niệm thị trường ngoại hối. Quá trình ra đời và phát triển của TTNH giống như các thị trường khác, gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngoại thương và là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế hội nhập mang tính toàn cầu hoá. Thông qua TTNH các nhu cầu về ngoại tệ không những luôn luôn được đáp ứng một cách tốt nhất mà nó còn là nơi có thể ký kết các hợp đồng phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với các nhà xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế. Ví dụ: Một nhà nhập khẩu X cần thanh toán cho nhà nhập khẩu Y một khoản tiền là đồng Đô la Mỹ, cho nhà nhập khẩu Z một khoản tiền là đồng Yên Nhật. Muốn có được các khoản tiền ấy để thanh toán thì nhà xuất khẩu X phải mua các loại ngoại tệ ấy trên TTNH. Như vậy, TTNH là nơi mà ở đó xảy ra việc mua và bán, trao đổi ngoại hối, trong đó chủ yếu là trao đổi, mua bán ngoại tệ và các phương tiện TTQT (Giáo trình TTQT trong ngoại thương - NXB Giáo dục năm 2002, trang 3,4). Đối tượng kinh doanh trên TTNH là một loại hàng hoá đặc biệt. Theo Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối, thì ngoại hối được hiểu là:  Tiền nước ngoài như: tiền giấy, tiền kim loại.  Công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài như: séc, thẻ thanh toán, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi bưu điện và các công cụ thanh toán khác.  Các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngoài như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác.  Quyền rút vốn đặc biệt, đồng tiền chung châu Âu, các đồng tiền chung khác dùng trong TTQT và khu vực.  Vàng tiêu chuẩn quốc tế.  Đồng tiền đang lưu hành của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng làm công cụ trong TTQT. Như vậy, ngoại hối không chỉ là ngoại tệ mà còn có thể là các loại giấy tờ hay các công cụ thanh toán hoặc thậm chí cả vàng, quyền rút vốn đặc biệt vì chúng có giá trị và có thể dùng để TTQT. Ngay cả đồng Việt Nam khi chuyển qua biên giới hay được dùng làm phương tiện thanh toán trong quan hệ mua bán với nước ngoài cũng được coi là ngoại hối. Tóm lại, ngoại hối là tất cả các phương tiện có giá dùng để thanh toán giữa các quốc gia. 1.2 Các đặc điểm của TTNH. TTNH là một thị trường hàng hoá đặc biệt - đồng tiền và các phương tiện có giá để thanh toán của các nước vì vậy nó có những đặc điểm sau:  Là thị trường vô hình vì các giao dịch mua bán chủ yếu được diễn ra trong một phạm vi không gian rộng lớn, được thực hiện bằng điện thoại, telex, fax, và hệ thống máy tính nối mạng toàn cầu.  Là thị trường toàn cầu vì nó hoạt động liên tục 24/24h trong ngày giữa các khu vực, các châu lục khác nhau bằng các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại nên mọi giao dịch có thể thực hiện ngay tức thời. Bất cứ lúc nào những người giao dịch cũng có thể bán, thanh toán, vay mượn các loại ngoại tệ, ngoại hối với nhau giữa các vùng trong nước và các khu vực trên thế giới.  Trung tâm của TTNH là thị trường liên ngân hàng (InterBank) với các thành viên chủ yếu là các NHTM, các nhà môi giới ngoại hối và các NHNN. Doanh số giao dịch trên TTLNH chiếm tới 90% tổng doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.  Việc niêm yết giá cả trên thị trường được quốc tế hoá. Hiện nay nhờ có tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ thông tin nên các TTNH có thể liên lạc với nhau. Những thông tin về thị trường nói chung, đặc biệt là giá cả được truyền liên tục giữa các quốc gia đã giúp cho việc điều chỉnh giá cả được diễn ra thường xuyên, tạo nên mặt bằng giá cả giữa các thị trường.  Là thị trường rất nhạy cảm, chịu sự tác động của các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý...nhất là các chính sách tiền tệ của các nước phát triển. Ngược lại, TTNH cũng có tác động trở lại tới nhiều mặt hoạt động kinh tế - xã hội của một nước, nhất là chính sách điều hành tỷ giá.  Theo Bank For International Settlement doanh số mua bán ròng toàn cầu của TTNH thế giới ước tính khoảng 1.900 tỷ USD/ngày. Thị trường hoạt động tích cực nhất là London sau đó là Newyork, Tokyo, Singapore và Frankfurt. Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong các giao dịch là USD (khoảng 90% giao dịch của thị trường ngoại hối có mặt USD), tiếp theo là EUR và JPY. 1.3 Vai trò của TTNH trong điều kiện hội nhập kinh tế. Ngày nay, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá về kinh tế, các hoạt động TTQT trong lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng phát triển. Để đáp ứng cho các hoạt động này mỗi quốc gia tất yếu phải sử dụng đến nhiều loại tiền tệ khác nhau, do vậy, TTNH ngày càng được đa dạng, mở rộng hơn và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế mở cửa và hội nhập, cụ thể là:  Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch, mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm phát triển ngoại thương và các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, TTQT của mỗi quốc gia đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị xã hội giữa các nước, các dân tộc trong khu vực và trên thế giới.  Là phương tiện giúp các nhà đầu tư chuyển vốn tới đầu tư trực tiếp ở những thị trường đem lại lợi nhuận cao hoặc rút vốn đầu tư từ những thị trường lợi nhuận thấp.  Cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các ngân hàng, các nhà xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư và đi vay quốc tế. Vai trò này của TTNH là do bản thân các công cụ giao dịch của thị trường như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai...đã tạo ra.  Là một trong những phương tiện thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN nghĩa là NHNN can thiệp vào TTNH nhằm duy trì trật tự của thị trường hoặc điều chỉnh hướng biến động của thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. 1.4 Các chủ thể tham gia vào TTNH. 1.4.1 NHNN (Central Bank). NHNN là cơ quan Chính phủ có trách nhiệm tổ chức điều hành, kiểm soát và ổn định các hoạt động của TTNH, thường xuyên phải can thiệp vào thị trường nhằm duy trì trật tự của thị trường bằng cách mua vào và bán ra nội tệ để ổn định mọi hoạt động của thị trường và TGHĐ. Công cụ mà NHNN can thiệp lên TTNH là chính sách lãi suất. Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ lên giá của đồng bản tệ vì nó hấp dẫn các luồng vốn tư bản nước ngoài chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng lên, tỷ giá có xu hướng giảm và ngược lại. Việc điều hành TGHĐ nhằm tạo ra sự ổn định cho thị TTNH, sức mua đồng tiền, kiềm chế và đẩy lùi làm phát. Vai trò của NHNN trên TTNH là rất quan trọng. Trên thực tế hầu hết các quốc gia (kể cả các nước công nghiệp phát triển đã thực hiện thả nổi tỷ giá từ năm 1973) các NHNN vẫn can thiệp vào TTNH bằng cách mua vào hay bán ra nội tệ nhằm tác động vào tỷ giá theo hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt, trong chế độ tỷ giá cố định, can thiệp của NHNN lên TTNH là bắt buộc nhằm duy trì tỷ giá giao động trong một biên độ nhất định, nhờ đó tỷ giá được duy trì cố định theo đúng mục tiêu của NHNN. NHNN có thể can thiệp lên TTNH nhằm duy trì trật tự của thị trường hoặc can thiệp nhằm điều chỉnh hướng biến động của thị trường theo cách nhìn có lợi của mình. Đôi khi NHNN chỉ can thiệp để thăm dò phản ứng của thị trường. Khối lượng can thiệp, thời điểm can thiệp, phương pháp can thiệp và trạng thái của thị trường là những yếu tố xác định tính hiệu quả trong hoạt động can thiệp của NHNN. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng bất kỳ sự can thiệp nào của NHNN đối với TTNH đều tác động lớn đến nền kinh tế trong nước và hoạt động kinh tế đối ngoại. Do đó, NHNN phải hết sức thận trọng và xem xét kỹ để các hoạt động can thiệp của mình thật sự hợp lý và mang lại hiệu quả cao. 1.4.2 Các NHTM (Commercial Bank). Các NHTM là những thành viên chính của TTNH, đóng vai trò to lớn trong việc tạo lập thị trường. Các ngân hàng này hoạt động trên TTNH với hai danh nghĩa: đóng vai trò trung gian chính cho các khách hàng tham gia thị trường và là ngân hàng hoạt động bằng chính danh nghĩa của mình. Giao dịnh KDNT cho chính mình tức là mua bán ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ giá có những biến đổi thuận lợi. Khi giao dịch với danh nghĩa bản thân mình, ngân hàng sẽ phải tự gánh chịu rủi ro nếu như tỷ giá biến động không có lợi. Còn khi cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là dịch vụ mua bán hộ ngoại tệ để thu phí thì NHTM tham gia vào TTNH với tư cách là người trung gian, vì thế ngân hàng không phải gánh chịu về rủi ro về tỷ giá và hoạt động này cũng không làm thay đổi cơ cấu bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Nếu trong quá trình làm trung gian này mà xuất hiện trạng thái hối đoái không có lợi cho quá trình giao dịch của mình thì các ngân hàng sẽ tiến hành một hoặc một số giao dịch tiếp theo cho chính mình để cân bằng trạng thái. Ví dụ, trong số các khách hàng có nhiều nhà nhập khẩu giao dịch một đồng tiền nhiều hơn số lượng các nhà xuất khẩu thì các ngân hàng phải tìm cách cân bằng lại trạng thái đối với đồng tiền này bằng cách bán phần vượt quá không cần thiết đối với đồng tiền đang dư thừa và mua các đồng tiền khác mà các khách hàng có nhu cầu cao. Lợi nhuận ngân hàng thu được là từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán, từ các khoản thu phí hoa hồng hoặc chênh lệch giữa thời gian nhận tiền và thời gian giao vốn cho người mua đồng tiền đó. Ngân hàng cũng có thể thu lợi nhuận từ dịch vụ chuyển tiền. Ngoài việc thu phí, ngân hàng có thể sử dụng tài khoản vài ngày trước khi chuyển vào tài khoản người thụ hưởng. Những ngân hàng thường xuyên có những giao dịch được thực hiện ở ngoài nước thường mở tài khoản ở nước ngoài tại một ngân hàng nào đó mà họ chọn làm ngân hàng đại lý để thực hiện các giao dịch sẽ phát sinh. Các ngân hàng giao dịch ngoại hối theo hai cách: trực tiếp với khách hàng hoặc giữa các ngân hàng với nhau hoặc gián tiếp thông qua các nhà môi giới. 1.4.3 Các nhà môi giới ngoại hối (Foreign Exchange Brokers). Các NHTM thường kinh doanh ngoại hối thông qua hoạt động của các nhà môi giới ngoại hối. Những nhà môi giới ngoại hối là những người tham gia trên TTNH với tư cách là trung gian trong các giao dịch mua bán hoặc mua bán thay cho người khác nhằm thu hoa hồng trong từng giao dịch. Những nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh đặt mua, đặt bán ngoại tệ của các ngân hàng khác nhau, trên cơ sở đó họ cung cấp tỷ giá chào mua và tỷ giá chào bán cho các ngân hàng có nhu cầu một cách nhanh nhất với giá tốt nhất để thu phí môi giới. Phương pháp giao dịch thông qua môi giới là một phương pháp đang được chú trọng ở những nước có TTNH phát triển. Hình thức mua bán ngoại hối thông qua môi giới phát triển khá mạnh vì phương thức này có nhiều ưu điểm hơn giao dịch trực tiếp. Các nhà môi giới là những người có kiến thức, được đào tạo chuyên sâu về kinh doanh ngoại hối, thông tin chính xác và những phương tiện hiện đại để có thể thực hiện các giao dịch ngoại hối một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Những nhà môi giới chính thức thường có mạng lưới cung cấp dịch vụ toàn cầu liên tục 24/24h mỗi ngày. Tại các trung tâm tài chính quốc tế đều có một số các nhà môi giới chuyên nghiệp để giúp các ngân hàng trong việc mua bán ngoại hối. Nhược điểm của giao dịch thông qua môi giới là các bên phải trả cho nhà môi giới một khoản phí, thêm vào đó không phải ai cũng có thể trở thành nhà môi giới ngoại hối. Các nhà môi giới khi tham gia TTNH phải có giấy phép hành nghề. Họ không phải những nhà tạo lập thị trường do vậy họ không được phép mua bán ngoại hối cho mình mà chỉ cung cấp dịch vụ cho khách hàng để hưởng hoa hồng. 1.4.4 Các khách hàng mua bán lẻ trên thị trường (Retail Clients). Những người mua bán lẻ bao gồm các công ty trong nước, các công ty đa quốc gia, các nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm phục vụ cho hoạt động của chính mình. Nhu cầu giao dịch ngoại tệ của nhóm khách hàng này rất lớn với nhiều hình thức giao dịch khác nhau, bởi lẽ nhóm này thường xuyên tham gia vào TTNH với mục đích thoả mãn nhu cầu thực sự cho hoạt động kinh doanh của mình mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm chênh lệch giá khi tỷ giá thay đổi. Ví dụ: nhà xuất khẩu cần bán ngoại tệ khi nhận được vận đơn hàng xuất ghi bằng ngoại tệ, còn nhà nhập khẩu mua ngoại tệ để thanh toán vận đơn hàng nhập ghi bằng ngoại tệ, khách du lịch cần bán ngoại tệ để lấy nội tệ chi tiêu tại nước đó. Ngoài ra, họ còn tham gia TTNH với mục đích tự bảo hiểm cho các hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường hoặc bảo hiểm cho những rủi ro về tỷ giá đối với các khoản doanh thu của họ. Mặc dù không phải là thành viên chính trên TTNH nhưng nhóm khách hàng mua bán lẻ cũng đóng vai trò to lớn trong hoạt động của thị trường này. Hoạt động giao dịch ngoại hối tích cực của nhóm này đã góp phần làm cho TTNH ngày càng hoạt động sôi nổi và hiệu quả hơn. Nhóm khách hàng mua bán lẻ này thường tham gia vào TTNH bằng cách liên hệ với các ngân hàng và các nhà môi giới có uy tín chứ không giao dịch trực tiếp với nhau vì bản thân họ không được phép giao dịch trực tiếp tại thị trường hoặc không đủ trình độ chuyên môn cũng như nhân sự để có thể tự giao dịch với nhau. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTNH. 2.1 ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế đối ngoại. Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các mối quan hệ vật chất và tài chính, các mối quan hệ kinh tế và khoa học công nghệ hình thành giữa các nước với nhau, giữa các nước với các tổ chức kinh tế quốc tế dựa trên sự phân công lao động quốc tế. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển sẽ dẫn đến hình thành thị trường thế giới thống nhất và nền kinh tế thế giới mang tính toàn cầu mà ngoại thương đóng vai trò nổi bật và là cơ sở, tiền đề cho các quan hệ kinh tế quốc tế khác. Quan hệ quốc tế đòi hỏi phải có một cơ chế tài chính, tín dụng riêng, do vậy lĩnh vực TTQT là một lĩnh vực cực kỳ quan trọng cho hoạt động ngoại thương của tất cả các nước và đòi hỏi phải có một sự quan tâm đặc biệt. Trong việc TTQT ngày nay một số các đồng tiền của một số nước tư bản có tiềm lực xuất khẩu lớn, có sức mạnh tài chính đáng kể, có uy tín chính trị, được sử dụng làm phương tiện TTQT, những đồng tiền này được chuyển đổi một cách dễ dàng thông qua TTNH. Tuy nhiên đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới ngày càng chiếm vai trò chủ đạo do sau chiến tranh thế giới thứ hai nước Mỹ đã trở thành nước dẫn đầu nền kinh tế của các nước tư bản và cả thế giới với lượng xuất khẩu ngày càng tăng dẫn đến cán cân thanh toán của Mỹ thặng dư, lượng vàng dự trữ của Mỹ lớn hơn lượng vàng dự trữ của thế giới. Các nước trên thế giới ngày nay chủ yếu sử dụng một khối lượng lớn đồng đô la Mỹ làm đồng tiền dự trữ cho nước mình và trong TTQT. Do vậy mà nạn đô la hoá trở nên phổ biến trên TTNH thế giới. Hoạt động ngoại thương Việt Nam chỉ thực sự phát triển trong mấy năm gần đây, tuy nhiên lượng hàng hoá xuất khẩu còn rất hạn chế do hàng hoá của nước ta kém sức cạnh tranh hơn so với một số nước trong khu vực, chính điều này đã dẫn đến vị thế của đồng Việt Nam còn rất yếu kém trên lĩnh vực TTQT và khả năng chuyển đổi thấp. Do đó dẫn đến hoạt động ngoại thương bị hạn chế, việc TTQT chủ yếu sử dụng đồng đô la Mỹ làm phương tiện trung gian tính toán và thanh toán tiền hàng nhập khẩu. TTNH là nơi tập trung giải quyết cung cầu về ngoại tệ và căn cứ vào tỷ giá trên TTNH để các nhà kinh doanh xuất khẩu có thể quyết định việc xuất khẩu hay nhập khẩu sao cho có lợi nhất. TTNH đã liên kết quá trình xuất khẩu và nhập khẩu thành chu trình khép kín, các hoạt động xuất khẩu hàng hoá đan xen nhau, tạo điều kiện cho nhau và thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau. Các hoạt động xuất nhập khẩu của một nước kết hợp với nhau trong một chu trình khép kín có dạng như sau: “Nội tệ - Hàng xuất khẩu - Ngoại tệ - Hàng nhập khẩu - Nội tệ”. Đó là mối quan hệ giữa hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá nhập khẩu và mối quan hệ giữa giá nội tệ và giá ngoại tệ. Các quan hệ hàng hoá và tiền tệ nói trên không thể tách rời và chỉ có thể thực hiện được thông qua trao đổi quốc tế. Cơ chế tác động của TTNH vào xuất nhập khẩu thông qua công cụ tỷ giá diễn ra như sau: - Khi tỷ giá của ngoại tệ so với đồng Việt Nam tăng thì sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được tăng lên là do giá trị ngoại tệ thu được sau khi bán hàng xuất khẩu đổi ra tiền Việt Nam được nhiều hơn lúc tỷ giá ngoại tệ chưa tăng. Ngược lại, nhập khẩu bị hạn chế vì phải chi phí nhiều đồng Việt Nam hơn để đổi lấy một lượng ngoại tệ mua hàng nhập khẩu để bán với mức giá không đổi hoặc thay đổi ít ở trong nước. - Nếu đồng Việt Nam tăng giá tức là tỷ giá của ngoại tệ so với đồng Việt Nam giảm thì sẽ diễn ra tình trạng ngược lại, xuất khẩu giảm do giá trị ngoại tệ thu được sau khi bán hàng xuất khẩu đổi ra tiền Việt Nam được ít hơn. Nhập khẩu tăng do giá trị hàng nhập vào Việt Nam được bán ra với chi phí ngày càng thấp hơn vì giá trị quy đổi của đồng Việt Nam ra đồng đô la Mỹ lớn hơn. 2.2 ảnh hưởng của cung cầu ngoại tệ. Với nền kinh tế ngày càng phát triển của nước ta, song song với các hoạt động kinh tế đối ngoại gia tăng thì cung cầu về các loại ngoại tệ càng lớn và phong phú cho ta thấy rõ vai trò của TTNH có tầm quan trọng như thế nào đến việc điều tiết cung cầu, phục vụ đắc lực cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. Do đó sự hình thành và hoạt động điều tiết TTNH là cực kỳ quan trọng và cần thiết. Một khi thị trường đã hình thành và lớn mạnh thì các hoạt động, nghiệp vụ ngoại hối cũng đa dạng, việc quản lý sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại tệ cũng tốt hơn. Việc khai thác sử dụng tiết kiệm, hợp lý thì sẽ mang lại nguồn lợi lớn cho nước nhà, hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. 2.3 ảnh hưởng của chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với chính sách huy động và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài mà hiện nay luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước ngày càng nhiều thông qua nhiều nguồn như: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài, vay nợ chính phủ của các tổ chức tín dụng quốc tế và của các ngân hàng nước ngoài, các khoản ngoại tệ và chuyển đổi ngoại tệ từ các hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ngoại tệ ngày càng phát triển, với khối lượng ngoại tệ vào Việt Nam qua đường du lịch và luồng ngoại tệ không chính thức do Việt kiều gửi về. Nếu không có biện pháp quản lý phân bổ và sử dụng có hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng lên giá hoặc giảm giá một cách không lành mạnh, làm tác động xấu đến tâm lý nhà đầu tư khi có ý định bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam. Trên TTNH chính sách tỷ giá là cực kỳ quan trọng nó tác động đến thu nhập đầu tư và qua đó nó ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư. 2.4 ảnh hưởng của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước về tiền tệ do NHNN trực tiếp điều hành nhằm ổn định giá trị đồng tiền và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ không chỉ điều chỉnh khối tiền tệ tăng giảm theo tín hiệu thị trường, mua ngoại tệ cung ứng cho ngân sách mà còn điều chỉnh khối tiền tệ có sẵn trong lưu thông cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu về mối quan hệ giữa tiền và hàng hoá nói chung, không gây thừa hay thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Chính sách tiền tệ hướng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng giảm tiền cung ứng, làm tăng giảm khối lượng tiền tệ. Qua đó ta thấy rằng chính sách tiền tệ kết hợp chặt chẽ với chính sách ngoại hối góp phần ổn định tiền tệ, bảo vệ giá cả đối nội và đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được giá cả, cân bằng cán cân TTQT, ổn định TGHĐ. 2.5 ảnh hưởng của chính sách lãi suất. TTNH gắn chặt với chính sách lãi suất, đây chính là phương pháp mà NHNN thường sử dụng để điều chỉnh TGHĐ trên thị trường. Với phương pháp này khi TGHĐ đạt tới mức báo động trên thị trường cần phải can thiệp thì NHNN nâng cao lãi suất chiết khấu lên. Tuy nhiên, việc sử dụng chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định vì mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại một cách gián tiếp chứ không phải là quan hệ trực tiếp nhân qủa, mà các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, vì vậy mà biến động lãi suất không nhất thiết kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể làm cho việc thu hút vốn ngắn hạn từ nước ngoài thuận lợi hơn, nhưng nếu điều kiện kinh tế chính trị không ổn định thì khó có thể thực hiện được và vấn đề đặt ra lúc này không phải là thu được bao nhiêu lãi mà lại là vấn đề an toàn về vốn và tránh được các rủi ro do tỷ giá gây ra. 3. Các nghiệp vụ cơ bản trên TTNH. Căn cứ vào tính chất của các giao dịch ngoại hối và cách tổ chức của thị trường người ta chia các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng thành 5 loại chính sau: Nghiệp vụ giao ngay, nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi, nghiệp vụ quyền chọn và nghiệp vụ tương lai. Trong đó, nghiệp vụ giao ngay hình thành trên TTNH giao ngay còn gọi là thị trường cơ sở. Còn các nghiệp vụ còn lại hình thành trên thị trường phái sinh tức là bắt nguồn từ thị trường giao ngay. Trong 5 nghiệp vụ trên thì nghiệp vụ giao ngay, nghiệp vụ kỳ hạn và nghiệp vụ hoán đổi được thực hiện qua quầy (theo Over The CounterOTC); nghiệp vụ quyền chọn có thể được thực hiện qua quầy (OTC) hoặc là thực hiện trên sở giao dịch (The Interchange); nghiệp vụ tương lai chỉ được thực hiện trên sở giao dịch. 3.1 Nghiệp vụ giao ngay (Spot Transaction). Nghiệp vụ giao ngay là một nghiệp vụ mua bán ngoại hối mà việc thanh toán và giao dịch ngoại hối xảy ra đồng thời với ngày ký kết hợp đồng. Tuy vậy, trong thực tế thời hạn thanh toán được kéo dài từ 1 đến 2 ngày làm việc kể từ sau ngày ký kết hợp đồng nhằm kiểm tra hoàn tất các giấy tờ và thủ tục thanh toán. Mục đích của giao dịch này là: - Kiếm lời thông qua kinh doanh chênh lệch tỷ giá trên các thị trường khác nhau. - Dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng bán lẻ và hưởng phí dịch vụ. Nghiệp vụ giao ngay được thực hiện trên thị trường phi tập trung (OTC). Các thành viên tham gia thị trường bao gồm các NHTM, các công ty tài chính lớn, các nhà môi giới và các NHNN liên hệ với nhau qua điện thoại, telex, fax, mạng máy tính và hệ thống Swift. Họ hoạt động trên các trung tâm tài chính lớn hầu như 24/24h mỗi ngày như London, Newyork, Tokyo, để nắm bắt được mọi diễn biến của TTNH toàn cầu trong suốt thời gian các thị trường khác hoạt động bình thường. Tính hiệu quả của thị trường giao ngay được thể hiện ở chỗ chênh lệch tỷ giá mua và bán rất hẹp và do tốc độ truyền tin nhanh chóng cho nên những thay đổi của thị trường đã ảnh hưởng tức thời đến tỷ giá làm cho tỷ giá luôn biến động nhanh chóng phản ánh kịp thời những thay đổi của thị trường. Các nhà kinh doanh không thể bỏ qua những thay đổi có tính đột biến trên một thị trường toàn cầu rất sôi động như TTNH. Những nhà kinh doanh ngân hàng là những người tạo lập của TTNH luôn luôn theo dõi màn hình vi tính để nắm bắt thông tin và giá cả mới nhất. Những thông tin này do các công ty chuyên nghiệp cung cấp như: Dowjones Telerates và Reuter, chúng được truyền đi với tốc độ rất nhanh như gọi điện thoại hay sóng vô tuyến điện. Trong nghiệp vụ giao ngay, các bên thường chú ý đến các yếu tố sau: - Ngày giá trị giao ngay (Spot Value Date): là ngày mà giao dịch chính thức được thực hiện, tức hai bên tiến hành thanh toán và giao nhận ngoại hối. Ngày giá trị giao ngay theo tập quán quốc tế được hiểu là ngày làm việc thứ 2 kể từ ngày giao dịch được ký kết. Tuy nhiên, hai bên có thể thoả thuận để giao dịch ngoại tệ và thanh toán trong vòng 7 ngày kể từ ngày cam kết. - Phương thức giao dịch: các cam kết mua bán ngoại hối giao ngay có thể được thực hiện trực tiếp tại sở giao dịch của các ngân hàng hoặc thông qua môi giới. Tuy nhiên, các hợp đồng ngoại hối giao ngay thường được ký kết chủ yếu thông qua hệ thống vi tính, telex, điện thoại. Nhờ vậy, các thông tin được truyền đi nhanh chóng và chính xác. - Tỷ giá áp dụng trong giao dịch giao ngay là tỷ giá giao ngay được niêm yết ở tất cả các NHTM, ngoài ra trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. Trong trường hợp giao dịch giữa hai đồng tiền mà tỷ giá của chúng không được niêm yết trực tiếp thì người ta áp dụng tỷ giá chéo, tứclà tỷ giá của chúng được tính thông qua một đồng tiền trung gian, thường là USD. Lợi ích của nghiệp vụ giao ngay - Đối với doanh nghiệp: Giao dịch giao ngay là một giao dịch mua thực bán thực, đáp ứng nhu cầu ngay lập tức của khách hàng. Thông qua giao dịch này các doanh nghiệp có thể thoả mãn nhu cầu ngoại tệ cấp thiết thanh toán cho đối tác nước ngoài. - Đối với các ngân hàng: Giao dịch giao ngay chiếm vị trí quan trọng nhất trong các giao dịch ngoại tệ của các NHTM. Trong một ngày giao dịch, họ phải thực hiện liên tục các giao dịch giao ngay để cung cấp dịch vụ cho khách hàng của mình đồng thời thông qua đó các ngân hàng có thể đảm bảo cân bằng trạng thái ngoại hối theo quy định của NHNN. 3.2 Nghiệp vụ kỳ hạn (Forward Transaction). Các giao dịch ngoại hối có ngày giá trị xa hơn ngày giá trị giao ngay thì được gọi là giao dịch kỳ hạn. Hợp đồng kỳ hạn được xem như một công cụ để mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ nhất định, tại một tỷ giá nhất định và ở một thời điểm xác định trong tương lai. Các hợp đồng kỳ hạn được ký kết và giao dịch giữa các ngân hàng và khách hàng của họ, hoặc giữa các ngân hàng với nhau. Giao dịch kỳ hạn cũng không diễn ra trên cơ sở giao dịch mà diễn ra trên thị trường OTC. Bộ phận liên ngân hàng của thị trường kỳ hạn hoạt động liên tục thông qua việc đấu giá mở 2 chiều giữa các thành viên tham gia, nghĩa là mỗi ngân hàng yết tỷ giá kỳ hạn mua vào và bán ra liên tục cho các ngân hàng khác và ngược lại. Những nhà môi giới trên thị trường kỳ hạn đóng vai trò tương tự như trên thị trường giao ngay, đó là đối chiếu các lệnh đặt mua và các lệnh đặt bán giữa các ngân hàng nhằm đưa ra "giá tay trong" tốt nhất cho khách hàng. Trong nghiệp vụ kỳ hạn, các bên tham gia ký kết hợp đồng phải quan tâm đến ngày giá trị kỳ hạn và tỷ giá kỳ hạn. - Ngày giá trị kỳ hạn (Forward Value Date) có thể được khái quát qua công thức: J+2+n Trong đó, J là ngày giao dịch được cam kết, (J + 2) là ngày giá trị giao ngay, n là kỳ hạn của giao dịch. Theo tập quán, kỳ hạn giao dịch tối đa cho hầu hết các đồng tiền là 12 tháng. Với những đồng tiền mạnh, có thể kỳ hạn này kéo dài tới 5 năm, kỳ hạn phổ biến nhất là 30, 90 và 180 ngày. Trong một số trường hợp người ta còn có thể áp dụng kỳ hạn khả biến (Variable Maturity) tức tuỳ ý lựa chọn ngày giá trị trong khoảng thời gian quy định. Trong trường hợp này người ta thường ấn định ngày sớm nhất và chậm nhất của giao dịch. - Tỷ giá trong giao dịch kỳ hạn gọi là tỷ giá kỳ hạn (Forward Rate), là tỷ giá được thoả thuận từ hôm nay để làm cơ sở cho việc trao đổi tiền tệ tại một ngày xác định trong tương lai. Tỷ giá kỳ hạn thường không được thông báo trực tiếp mà người ta chỉ yết điểm kỳ hạn (Forward point) gồm điểm gia tăng (Premium) và điểm khấu trừ (Discount) vào tỷ giá giao ngay. Tỷ giá kỳ hạn được tính toán dựa vào tỷ giá giao ngay giữa hai đồng tiền và lãi suất cho vay nội tệ, ngoại tệ tại ngày giao dịch theo công thức: F Trong đó: FVT 1  RT t ( R   RC )t  S SS FVC 1  RC t 1  RC t FVT là giá trị kỳ hạn của đồng tiền định giá. FVC là giá trị kỳ hạn của đồng tiền yết giá. S là tỷ giá giao ngay. RT là lãi suất của đồng tiền định giá (hay đồng nội tệ) tính theo tỷ lệ %/năm. RC là lãi suất của đồng tiền yết giá (hay đồng ngoại tệ) tính theo tỷ lệ %/năm. T là thời hạn của hợp đồng giao dịch, tính theo năm. Trong thực tế, thời hạn của các hợp đồng tương đối ngắn và các mức lãi suất %/năm của các đồng tiền là các số nhỏ, nên RCt là một số rất nhỏ. Do đó, có thể coi 1+RCt  1, ta rút gọn công thức trên ở dạng gần đúng như sau: F = S + S  (RT - RC)  t Khi RT > RC thì có điểm gia tăng vào tỷ giá, ngược lại thì có điểm khấu trừ vào tỷ giá giao ngay. Tỷ giá kỳ hạn có thể lớn hơn hoặc bé hơn tỷ giá giao ngay và thường là thấp hơn tỷ giá giao ngay trong các giao dịch có các loại ngoại tệ mạnh. Hợp đồng kỳ hạn có hai loại: - Hợp đồng Outright là hợp đồng thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng không phải ngân hàng, nhằm mục đích phòng chống rủi ro. Trong hợp đồng này tỷ giá kỳ hạn được yết theo kiểu mua đứt, bán đứt. - Hợp đồng có kỳ hạn khi khách hàng là các ngân hàng (tức giao dịch giữa hai ngân hàng với nhau) thì sẽ yết giá theo phương pháp điểm nghĩa là yết tỷ giá giao ngay và các điểm gia tăng hay khấu trừ với các kỳ hạn khác nhau. Lợi ích của giao dịch kỳ hạn: - Đối với doanh nghiệp: đây là công cụ hữu hiệu đáp ứng nhu cầu cần mua thực bán thực của một doanh nghiệp trong tương lai. Ngoài ra nghiệp vụ kỳ hạn còn giúp các doanh nghiệp phòng ngừa và bù đắp rủi ro trước sự biến động của tỷ giá. - Đối với các ngân hàng: nghiệp vụ kỳ hạn giúp các ngân hàng đa dạng hoá các dịch vụ cho khách hàng, vì thế mở rộng được cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, thông qua nghiệp vụ này các ngân hàng còn có thể thu hút được các luồng ngoại tệ, vận động nó linh hoạt hơn, làm giảm sức ép tâm lý đối với cầu ngoại tệ và làm cho hoạt động đầu cơ mất dần áp lực gây biến động giá. Ngoài các lợi ích nêu trên, thị trường kỳ hạn cũng là nơi hoạt động tích cực của các nhà đầu cơ nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, trên thế giới thị trường này hiện nay đang hoạt động rất hiệu quả. 3.3 Nghiệp vụ hoán đổi (Swap Transaction). Giao dịch hoán đổi (Swap) là việc đồng thời mua và bán một đồng tiền nhất định, trong đó ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác nhau theo tỷ giá ấn định ngay khi ký kết hợp đồng. Từ khái niệm ta có thể rút ra các đặc điểm sau của nghiệp vụ hoán đổi: - Hợp đồng mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định được ký kết đồng thời tại ngày hôm nay. - Số lượng mua vào và bán ra đồng tiền này là bằng nhau trong cả 2 vế (vế mua và vế bán) của hợp đồng hoán đổi. - Ngày giá trị của hợp đồng mua vào và bán ra là khác nhau. Một giao dịch Swap có thể là kết hợp của một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn hoặc là kết hợp 2 giao dịch kỳ hạn có kỳ hạn khác nhau. Cả hai giao dịch cấu thành phải được ký kết cùng một lúc. Do giao dịch hoán đổi dạng “kỳ hạn- kỳ hạn” ít được sử dụng trong thực tế nên chúng ta chỉ tập trung nghiên cứu giao dịch hoán đổi dạng “giao ngay- kỳ hạn”. Trong nghiệp vụ hoán đổi, phải đặc biệt chú ý tới tỷ giá hoán đổi. Tỷ giá hoán đổi phản ánh điểm kỳ hạn, tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng hoán đổi hai đồng tiền nhất định thông qua giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn. Như vậy, xét về bản chất tỷ giá hoán đổi cũng chính là điểm kỳ hạn. Swap Rates = Forward Rates - Spot Rates = Forward Point Tỷ giá hoán đổi không phải là tỷ giá đích thực, mà chỉ đơn thuần là chênh lệch giữa các tỷ giá. Tuy nhiên, tỷ giá hoán đổi được sử dụng phổ biến trong thực tế và được coi là phản ánh chênh lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay. Lợi ích của nghiệp vụ Swap: - Giao dịch hoán đổi là một trong những công cụ thông dụng có hiệu quả để xử lý các luồng tiền dư thừa hay thiếu hụt mà không tạo ra trạng thái ngoại hối ròng, tức là không làm thay đổi trạng thái ngoại hối. Giao dịch này đảm bảo bù đắp vốn vì nó kết hợp hai giao dịch trên thị trường. Do vậy, Swap có thể sử dụng đồng thời với giao dịch giao ngay để đảm bảo vốn thanh toán cho một giao dịch ngoại hối kỳ hạn. Giao dịch Swap cũng không ảnh hưởng đến khả năng vay và trả nợ của các bên tham gia bởi nó chỉ là trao đổi các đồng tiền chứ không phải là trao đổi các khoản vay, cho vay. Giao dịch này không ảnh hưởng đến bảng cân đối do đó không ảnh hưởng đến khả năng vay nợ của các bên. Ví dụ: vào cùng ngày 1/1/2005, khách hàng X gửi 1 triệu USD và khách hàng Y yêu cầu được vay 1 triệu Euro tại ngân hàng Z trong cùng một thời hạn 2 tháng. Như vậy, lúc này ngân hàng có 1 triệu USD nhưng lại thiếu 1 triệu Euro để cho vay. Ngân hàng Z sẽ thực hiện bán USD của khách hàng X gửi để mua 1 triệu Euro cho khách hàng Y vay tại tỷ giá giao ngay RS đồng thời thực hiện mua kỳ hạn 2 tháng đồng USD bằng Euro. Sau 2 tháng khách hàng Y trả cho ngân hàng Z 1 triệu Euro, ngân hàng này sẽ dùng để mua 1 triệu USD theo hợp đồng kỳ hạn để trả cho khách hàng X. Vậy ngân hàng Z luôn chắc chắn có 1 triệu USD để trả cho khách hàng X khi đến hạn trả mà lại vẫn có 1 triệu Euro để cho vay vào thời điểm hiện tại. - Ngoài ra, nghiệp vụ hoán đổi cũng là công cụ hưu hiệu để các nhà đầu tư, người đi vay ngoại tệ và các ngân hàng phòng ngừa và hạn chế rủi ro ngoại hối hoặc kinh doanh thu lợi nhuận. NHNN các nước cũng sử dụng Swap như là một biện pháp để hỗ trợ tỷ giá cho đồng nội tệ. Giao dịch Swap còn góp phần tích cực làm cho các thị trường tài chính trong nước và thị trường tài chính quốc tế liên kết với nhau. 3.4 Nghiệp vụ quyền chọn (Option Transaction). Nghiệp vụ quyền chọn mới chỉ xuất hiện từ những năm 70 của thế kỷ XX, song hiện nay nó đã thành một nghiệp vụ quen thuộc của TTNH. Nghiệp vụ quyền chọn là sự thoả thuận bằng hợp đồng giữa người mua và người bán về quyền chọn mua (Call Option) hay quyền chọn bán (Put Option) một loại ngoại tệ nhất định với một số lượng nhất định, theo một tỷ giá cố định vào một thời điểm trong tương lai. Khi thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, những người tham gia sẽ ký kết một hợp đồng quyền chọn (Option Contract) với ngân hàng và trả cho ngân hàng một khoản phí gọi là phí quyền chọn. Đó là khoản tiền người mua phải trả cho người bán để dành cho mình quyền được thực hiện hay không thực hiện hợp đồng. Một hợp đồng quyền chọn dù có được thực hiện hay không thì người mua đều phải trả phí. Mức phí này phụ thuộc vào tỷ giá trong hợp đồng, thời hạn hợp đồng và sự biến động của tỷ giá trên thị trường. Người bán sẽ có thu nhập là khoản phí do người mua trả, phí này được thanh toán một lần vào thời điểm ký kết hợp đồng hoặc thời điểm hợp đồng đến hạn. Phí thanh toán lúc ký sẽ khác với phí thanh toán lúc hợp đồng kết thúc. Không giống các hợp đồng kỳ hạn và tương lai, hợp đồng quyền chọn cho phép người mua có quyền mua hoặc bán tiền tệ tại một mức tỷ giá đã thoả thuận trước trong hợp đồng tại thời điểm trong tương lai. Hợp đồng quyền chọn cho phép người mua có quyền tiến hành giao dịch theo tỷ giá đã thoả thuận cố định nếu anh ta thấy có lợi cho mình, hoặc để cho hợp đồng hết hạn nếu thấy việc thực hiện hợp đồng gây thiệt hại hơn cho mình. Và một khi người mua đã muốn thực hiện hợp đồng thì người bán bắt buộc phải thực hiện giao dịch. Quyền chọn tiền tệ gồm 4 dạng: mua quyền chọn mua, bán quyền chọn bán, bán quyền chọn mua, mua quyền chọn bán được mô tả theo đồ thị dưới đây: Đồ thị 1 : Mua quyền chọn mua - bán quyền chọn mua. Lãi Mua quyền chọn mua Tỷ giá quyền chọn Tỷ giá hoà vốn Tỷ giá Lỗ Bán quyền chọn mua Đồ thị 2 : Mua quyền chọn bán - bán quyền chọn bán. Lãi Tỷ giá hoà vốn Bán quyền chọn bán Tỷ giá quyền
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan