Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phát triển nông, lâm, thủy sản ở thành phố Hà Nội...

Tài liệu Phát triển nông, lâm, thủy sản ở thành phố Hà Nội

.PDF
28
718
75

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI ------ LÊ MỸ DUNG PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Địa lí học Mã số: 62.31.05.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ HÀ NỘI - 2017 Công trình được hoàn thành tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Viết Thịnh Phản biện 1: GS.TS. Trƣơng Quang Hải Cơ quan công tác: Viện Việt Nam học và KHPT, trường ĐHQG Hà Nội Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Xuân Trƣờng Cơ quan công tác: Trƣờng Đại học Thái Nguyên Phản biện 3: PGS.TS. Lê Văn Trƣởng Cơ quan công tác: Trƣờng Đại học Hồng Đức Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại: Phòng Bảo vệ luận án, Thư viện trường ĐHSP Hà Nội Vào hồi: ……giờ,……ngày…….tháng…… năm……………......... Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia Việt Nam Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội Thư viện Khoa Địa lí, trường Đại học Sư phạm Hà Nội DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. Le My Dung (2010), Food security in Vietnam under the impacts of global climate change, Tuyển tập các báo cáo khoa học Hội thảo khoa học Quốc tế Địa lí Đông Nam Á lần thứ X, NXB Đại học Sư phạm, tr 491-495. 2. Le My Dung (2010), Applying the Von Thunen’s model in researching suburban agriculture rings in Hanoi, Journal of Science - Hanoi National University of Education, 1(2010), pp 109-115. 3. Lê Mỹ Dung (2012), Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp TP Hà Nội, Tạp chí khoa học Trường ĐHSP Hà Nội, số 2/2012, tr 103-112. 4. Lê Mỹ Dung (2013), Nghiên cứu những đặc điểm đặc thù của ngành chăn nuôi ở TP Hà Nội, Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 6/2013, tr 130-137. 5. Lê Mỹ Dung (2013), Nghiên cứu một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở TP Hà Nội, Kỷ yếu Hội nghị khoa học Địa lí toàn quốc lần thứ VII, Nxb Đại học Thái Nguyên, tr 661-667. 6. Le My Dung (2013), A study of agriculture territorial organization in Hanoi, Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Các vấn đề kinh tế - xã hội và nhân văn trong phát triển vùng và đô thị, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, tr 154-164 (code ISBN: 978-604-927-716-0). 7. Le My Dung (2013), Urban Livestock Development (A Case Study of Hanoi City, Vietnam), 9th International Conference on Humanities and Social Sciences, Thailand, pp 1644-1652. 8. Lê Mỹ Dung (2014), Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa ở TP Hà Nội, Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 6BC/2014, tr 20-27. 9. Lê Mỹ Dung (2014), Ngành trồng lúa ở thủ đô Hà Nội với những vấn đề nghiên cứu dưới góc độ Địa lí học, Kỷ yếu Hội nghị khoa học Địa lí toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, tr 1235-1243. 10. Lê Mỹ Dung (2015), Nghiên cứu “vành đai sữa” của TP Hà Nội (Lấy thí dụ minh họa ở huyện Ba Vì), Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 3/2015, tr 115-121. 11. Lê Mỹ Dung (2016), Phát triển nông nghiệp trong nền kinh tế đô thị: Cơ sở lí luận và thực tiễn, Kỷ yếu Hội nghị khoa học Địa lí toàn quốc lần thứ IX, NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ, tr 108-116. 12. Lê Mỹ Dung (2016), Nghiên cứu nông nghiệp của các thành phố trực thuộc trung ương và những bài học rút ra để phát triển ngành này ở TP Hà Nội, Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 10/2016, tr 119-126. 13. Lê Mỹ Dung (2017), Thực trạng và giải pháp sản xuất rau an toàn trên địa bàn TP Hà Nội giai đoạn 2008 - 2015, Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, số 2/2017, tr 149-157. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nông, lâm, thủy sản (N, L, TS) (gọi chung là nông nghiệp) là ngành sản xuất vật chất có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng như trong đời sống xã hội. Hà Nội vừa là Thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, thương mại, du lịch, văn hoá, giáo dục đào tạo và khoa học kĩ thuật hàng đầu của cả nước; vừa có nhiều lợi thế để phát triển N, L, TS. Trong cơ cấu kinh tế của thành phố (TP), khu vực N, L, TS tuy chỉ giữ vị trí rất khiêm tốn (4,7% năm 2014) và ngày càng giảm nhưng hơn một nửa dân số của Hà Nội (50,8%) lại sống và lao động kiếm thu nhập tại khu vực nông thôn và các huyện ngoại thành cũng như N, L, TS vẫn là hoạt động sản xuất chính ở địa bàn này. Sự phát triển N, L, TS của thủ đô đang chịu tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa (CNH), đô thị hóa (ĐTH), kéo theo đó là sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu lao động... Vấn đề đặt ra là phải phát triển N, L, TS ở Hà Nội như thế nào để vừa thực hiện nhiệm vụ đóng góp trong phát triển kinh tế chung của TP; vừa tạo ra các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao (CLC), phục vụ cho dân cư; góp phần đảm bảo an ninh lương thực, dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP); lại vừa bảo tồn các giá trị văn hóa, môi trường sinh thái của thủ đô. Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả đã chọn đề tài “Phát triển nông, lâm, thủy sản ở TP Hà Nội”. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 2.1. Các nghiên cứu trên thế giới - Nghiên cứu về vị trí, vai trò của nông nghiệp tiêu biểu là Kuznets S. (1961) đã lượng hóa về đóng góp của nông nghiệp đối với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, nông nghiệp giữ vai trò quyết định đến tăng trưởng nền kinh tế, nhưng giảm dần trong dài hạn. Còn Johnston và Mellor (1961) thì đưa ra 5 vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế. Đó là gia tăng nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm; chuyển giao lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp; mở rộng quy mô của thị trường đối với sản lượng công nghiệp; tăng nguồn cung cấp tiết kiệm nội địa và mở rộng xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ. - Nghiên cứu việc tổ chức sản xuất nông nghiệp theo không gian có nhiều lí thuyết được đưa ra từ các nhà khoa học phương Tây đến trường phái Liên Xô cũ. Một trong những người đi tiên phong là Von Thunen (1783 - 1850) với lí thuyết về sử dụng đất và phân bố nông nghiệp. Ông phát hiện được tác động của yếu tố khoảng cách từ nơi sản xuất đến thị trường tiêu thụ và từ đó đưa ra mô hình các vòng tròn đồng tâm hình thành xung quanh vị trí trung tâm của một TP xác định việc sử dụng đất nông nghiệp tương ứng các với sản phẩm khác nhau. Lí thuyết của ông được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và phát triển như Sinclair (1967), Boal (1970), Bryant (1973) và Kellerman (1978)... Đóng góp cho nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp của trường phái Địa lí Xô Viết phải kể đến Kriustkov V.G., Ivanov K.I... 2 - Hướng nghiên cứu mới đang phổ biến hiện nay đó là nông nghiệp đô thị (NNĐT) với các tổ chức quốc tế như FAO, UNDP... và các cá nhân như Smith J. (1996), Mougeot J.A. (1999)... Các nghiên cứu đều có chung nhận định việc phát triển NNĐT là con đường hướng tới sự phát triển bền vững thực chất cho các đô thị trong tương lai. - Dưới góc độ Địa lí học, nông nghiệp là hướng nghiên cứu của các nhà Địa lí kinh tế nói chung và Địa lí nông nghiệp nói riêng. Rakitnikov (1974) tập trung vào các vấn đề về phương pháp nghiên cứu Địa lí nông nghiệp, Grigg (1995) hay Singh (2004) giới thiệu những vấn đề cơ bản của địa lí nông nghiệp còn Robinson G. (2004) lại đặt ra một số vấn đề đối với nông nghiệp hiện nay như quá trình toàn cầu hóa, hội nhập, tái cơ cấu, phát triển bền vững... 2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam - Việc sản xuất nông nghiệp theo lãnh thổ được sự quan tâm của nhiều nhà địa lí kinh tế như Lê Thông (1992), Nguyễn Viết Thịnh (1995), Đặng Văn Phan (2008)... - Nghiên cứu trực tiếp về NNĐT có thể kể đến các tác giả Mai Thị Phương Anh (2001), Lê Đức Thịnh (2005), Lê Văn Trưởng (2008)... NNĐT theo Lê Đức Thịnh (2005) ở các đô thị lớn thường hình thành theo mô hình ba vành đai. Tính từ trung tâm đô thị ra phía ngoài có vành đai nông nghiệp thoái hóa, vành đai nông nghiệp đa dạng hóa và vành đai nông nghiệp thích ứng. - Nông nghiệp dưới góc độ địa lí học (Địa lí nông nghiệp) được nghiên cứu chủ yếu theo hai hướng. Hướng thứ nhất là những vấn đề mang tính đại cương, tiêu biểu là các nghiên cứu của Nguyễn Đức Mậu (1977), Bùi Văn Loãn (1983), Nguyễn Đức Tuấn (1998), Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) (2005). Hướng thứ hai là những vấn đề về địa lí nông nghiệp Việt Nam, có thể kể đến các tác giả Nguyễn Trọng Điều và Vũ Xuân Thảo (1983), Trần Đình Gián (1990), Đặng Như Toàn (1999), Lê Thông (chủ biên) (2011), Đỗ Thị Minh Đức (chủ biên) (2003), Đặng Văn Phan (2008)... 2.3. Các nghiên cứu về nông nghiệp thành phố Hà Nội Hàng loạt công trình của các tác giả ở trong và ngoài nước nghiên cứu về nông nghiệp Thủ đô đã được công bố như Moustier P. (2001), Mai Thị Phương Anh (2001), Phạm Văn Cự (2002), Lê Quốc Doanh (2004), Trần Thị Hồng Việt (2005)... Lương Ngọc Cừ cho rằng ngoại thành Hà Nội có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của Thủ đô còn Lee B, Binns T., Dixon A. (2010) chỉ ra những thay đổi rõ rệt của nông nghiệp TP. Đó là diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, tăng cường trồng các loại rau, hoa và cây cảnh có hiệu quả hơn và xã hội đã quan tâm hơn đến chất lượng thực phẩm. Ngay sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, Hà Nội đã xây dựng và ban hành các quy hoạch phát triển mới nhằm đáp ứng tình hình và những yêu cầu mới của Thủ đô từ đó đề ra các giải pháp, cơ chế chính sách, các chương trình mục tiêu và các dự án ưu tiên cần tập trung triển khai thực hiện. Các kết quả tổng quan là tiền đề quan trọng giúp cho tác giả đúc kết cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài cũng như định hướng cho việc triển khai nghiên cứu trên địa bàn TP. 3 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu Trên cơ sở tổng quan những công trình đã có ở trong và ngoài nước liên quan đến đề tài, mục tiêu chủ yếu của luận án là đánh giá các nhân tố ảnh hưởng, phân tích thực trạng sản xuất N, L, TS theo ngành và theo lãnh thổ, từ đó đề xuất định hướng cũng như các giải pháp góp phần phát triển N, L, TS ở TP Hà Nội theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ các vấn đề về lí luận và thực tiễn về phát triển N, L, TS để vận dụng vào địa bàn nghiên cứu. - Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển, phân bố N, L, TS của TP. - Phân tích thực trạng phát triển N, L, TS theo ngành và lãnh thổ, rút ra những đặc trưng cơ bản của TP. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần phát triển N, L, TS ở TP Hà Nội theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững. 4. Giới hạn nghiên cứu 4.1. Về nội dung Ngành nông nghiệp trong luận án được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, trong đó chủ yếu tập trung vào ngành nông nghiệp, tiếp đến là thủy sản. Còn trong ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp, đề tài đi sâu vào hai phân ngành là trồng trọt và chăn nuôi. 4.2. Về không gian Tính đến 2014, Hà Nội gồm 12 quận, 1 thị xã, 17 huyện. Các chỉ tiêu về nông nghiệp thường gộp các quận lại là một. Trước khi huyện Từ Liêm tách thành hai quận (Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm) năm 2014, số liệu vẫn tính Từ Liêm là 1 huyện. 4.3. Về thời gian Luận án nghiên cứu giai đoạn 2008 - 2014, dự báo đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030. 5. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Quan điểm nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở các quan điểm: quan điểm hệ thống, quan điểm tổng hợp - lãnh thổ, điểm lịch sử - viễn cảnh, quan điểm kinh tế thị trường và quan điểm phát triển bền vững. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính: phương pháp thu thập và xử lý tài liệu; phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp bản đồ - GIS, phương pháp chuyên gia. 6. Những đóng góp chủ yếu của luận án - Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển N, L, TS để từ đó vận dụng vào nghiên cứu ở TP Hà Nội. - Đánh giá được những thế mạnh và hạn chế của các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố N, L, TS ở TP Hà Nội. 4 - Phân tích được thực trạng phát triển N, L, TS theo ngành và theo lãnh thổ ở địa bàn nghiên cứu dựa vào các tiêu chí đã lựa chọn và kết quả điều tra xã hội học của các hộ nông dân ở 6 xã của 2 huyện Đông Anh và Chương Mỹ. - Đề xuất được một số giải pháp có cơ sở khoa học nhằm phát triển ngành N, L, TS của TP Hà Nội hiệu quả và bền vững trong tương lai. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển N, L, TS Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển N, L, TS ở TP Hà Nội. Chương 3: Thực trạng phát triển N, L, TS ở TP Hà Nội. Chương 4: Định hướng và giải pháp phát triển N, L, TS ở TP Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn 2030. CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Một số khái niệm Nông nghiệp là một hoạt động kinh tế, cơ sở cho sự phát triển công nghiệp và CNH, ĐTH (cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, đất, lao động, thị trường, tiền vốn cho công nghiệp...), đảm bảo an ninh lương thực; là một sinh kế có sức mạnh đặc biệt trong việc giảm nghèo, là nơi nuôi dưỡng và cung cấp các nguồn tài nguyên và dịch vụ môi trường... Nông nghiệp đô thị là một ngành sản xuất ở trung tâm, ngoại ô và vùng lân cận đô thị, có chức năng trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và phân phối các loại thực phẩm, lương thực và các sản phẩm khác, sử dụng các nguồn lực tự nhiên và nhân văn, các sản phẩm cùng các dịch vụ ở đô thị và vùng lân cận đô thị để cung cấp trở lại cho đô thị các sản phẩm và dịch vụ cao cấp. Nông nghiệp đô thị sinh thái là một quá trình sản xuất được bố trí phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng đô thị nhằm khai thác triệt để các tiềm năng với công nghệ sản xuất sạch tạo ra sản phẩm CLC, an toàn, nâng cao chất lượng môi trường, cảnh quan, tạo ra hệ sinh thái bền vững. 1.1.2. Vai trò của nông, lâm, thủy sản trong nền kinh tế - N, L, TS cung cấp lương thực, thực phẩm, bảo đảm an ninh lương thực; cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp, dịch vụ (nguyên liệu, đất đai, lao động, tiền vốn, thị trường...) - N, L, TS là một sinh kế, tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư. - Phát triển N, L, TS góp phần bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên; góp phần bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống. 1.1.3. Lí thuyết liên quan đến phát triển nông, lâm, thủy sản Một trong những lí thuyết về nông nghiệp được nhiều nhà khoa học nghiên cứu là Lí thuyết về sử dụng đất và phân bố sản xuất nông nghiệp của Von Thunen (1826). Theo lí thuyết này, xung quanh một TP có thể hình 5 thành 4 vành đai sản xuất nông nghiệp tập trung: một là vành đai thực phẩm (cung cấp trứng, sữa, rau) nằm gần trung tâm nhất; hai là vành đai rừng; ba là vành đai lương thực và bốn là vành đai chăn nuôi gia súc nằm cách xa trung tâm nhất. Như vậy, Thunen xem việc cân bằng các chi phí vận chuyển, đất đai và lợi nhuận là nhân tố then chốt tạo nên hiệu quả sản xuất nông nghiệp. 1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông, lâm, thủy sản Nhân tố vị trí địa lí quy định sự có mặt của các hoạt động N, L, TS. Các nhân tố tự nhiên (gồm địa hình và đất, khí hậu, thủy văn và sinh vật) là tiền đề cơ bản, trực tiếp quy định sự hình thành, quy mô, tính chất cũng như phương hướng phát triển của sản xuất N, L, TS. Còn các nhân tố kinh tế - xã hội (dân cư và lao động, CNH và ĐTH, thị trường tiêu thụ, chính sách của Nhà nước, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật, khoa học - công nghệ, vốn đầu tư) có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển và phân bố N, L, TS. 1.1.5. Một số hình thức tổ chức không gian sản xuất nông, lâm, thủy sản Ở cấp đô thị (TP, tương đương cấp tỉnh) nổi lên một số hình thức tổ chức sản xuất N, L, TS cụ thể, đó là hộ nông dân (nông hộ), trang trại, vùng chuyên canh và vành đai nông nghiệp ngoại thành. 1.1.6. Các chỉ tiêu đánh giá phát triển nông, lâm, thủy sản Ngoài các chỉ tiêu đánh giá chung (Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) N, L, TS và tỉ trọng của nó so với tổng GRDP toàn nền kinh tế; tốc độ tăng trưởng GRDP N, L, TS; Giá trị sản xuất (GTSX) N, L, TS và cơ cấu GTSX N, L, TS phân theo ngành, giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất nông nghiệp... thì với mỗi phân ngành (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản) lại có các chỉ tiêu cụ thể. Còn đối với việc đánh giá kết quả sản xuất của các hộ nông dân, đề tài sử dụng thêm một số tiêu chí về chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận.... 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Phát triển nông, lâm, thủy sản ở một số thành phố trên thế giới Sản xuất N, L, TS ở nhiều TP trên thế giới như Bắc Kinh, Thượng Hải (Trung Quốc), Bangkok (Thái Lan) đã đạt được những kết quả nhất định không chỉ ở tốc độ tăng trưởng sản xuất mà còn ở chất lượng sản phẩm và mức độ đáp ứng nhu cầu của người dân về cả vật chất và cảnh quan môi trường. Nguyên nhân là do các TP đang chuyển dịch cơ cấu theo hướng nông nghiệp sinh thái, phát triển các vùng chuyên canh kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm dưới sự hỗ trợ đắc lực của khoa học công nghệ hiện đại, sự phát triển của cơ sở hạ tầng cùng các chính sách quản lí của chính quyền... 1.2.2. Phát triển nông, lâm, thủy sản ở 4 thành phố Trung ương của Việt Nam Việc phát triển N, L, TS ở các TP trực thuộc Trung ương của nước ta là Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ có sự khác biệt do mỗi TP có những đặc trưng riêng và thế mạnh của mình. Thí dụ, cả TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ đều có tỉ trọng cao về nông nghiệp (73,4% và 71,1% GTSX N, L, TS), song TP Hồ Chí Minh lại tập trung vào chăn nuôi bò sữa, trồng cây rau đậu, thực phẩm và cây thức ăn gia súc phục vụ chăn nuôi bò, trong khi đó TP Cần Thơ với quỹ đất sản xuất nông nghiệp chiếm 80,5% diện tích tự nhiên lại coi 6 cây lúa là thế mạnh nổi bật và tập trung vào nuôi trồng thủy sản (NTTS). Còn Hải Phòng và Đà Nẵng giáp biển nên tỉ trọng ngành thủy sản khá cao (39,7% và 58,0%). Tuy nhiên, xu thế mà các TP hướng tới là phát triển nền nông nghiệp hiện đại, sinh thái, chất lượng, hiệu quả; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các vành đai xanh, khu nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC)... Thực tiễn rút ra từ phát triển N, L, TS ở các TP trên thế giới và Việt Nam là những bài học kinh nghiệm để Hà Nội vận dụng cho địa bàn của mình. CHƢƠNG 2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Vị trí địa lí Hà Nội là đô thị loại đặc biệt nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), có diện tích tự nhiên là 3.324,5 km², dân số trung bình năm 2014 là 7.095,9 nghìn người, đứng thứ 42 về diện tích và thứ 2 về dân số trong 63 tỉnh, TP ở nước ta. Vị thế địa - chính trị của Hà Nội đem đến nhu cầu và thị trường tiêu thụ nông phẩm rất lớn, nhất là thực phẩm, rau, hoa quả sạch, an toàn và CLC. Hà Nội còn là đầu mối giao thông của cả nước, trung tâm khoa học, giáo dục hàng đầu của quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi để trao đổi nông sản, áp dụng các tiến bộ khoa học vào trong sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, phát triển NNCNC... Vị trí địa lí cũng đặt ra những khó khăn, thách thức đối với TP như thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, sự cạnh tranh về thị trường... 2.2. Nhân tố tự nhiên 2.2.1. Địa hình Hà Nội có địa hình đa dạng, bao gồm vùng núi, vùng gò đồi và vùng đồng bằng và bãi ven sông, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và từ Tây sang Đông. Trong đó đồng bằng (chiếm 54,5% diện tích tự nhiên của TP) là vùng sản xuất nông nghiệp chính với các sản phẩm là lúa, ngô, rau thực phẩm, chăn nuôi lợn, gia cầm, thủy sản... Vùng núi có cao độ từ 300 - 1.000 m, thích hợp cho cây ăn quả, chè, chăn nuôi bò sữa, bò thịt và trồng rừng. Vùng gò đồi tập trung chủ yếu phía Tây TP, thích hợp để chăn nuôi bò, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp hàng năm, một phần lương thực và phát triển ngành lâm nghiệp. 2.2.2. Đất Hà Nội có 7 nhóm đất, trong đó đất phù sa là nhóm đất chính (chiếm 36,1% diện tích tự nhiên và 63,8% tổng diện tích đất nông nghiệp toàn TP), chủ yếu để trồng lúa, hoa màu. Nhóm đất đỏ vàng có quỹ đất lớn thứ 2 (tương ứng là 14,4% và 25,5%) có thể trồng cây ăn quả, cây công nghiệp hàng năm và đồng cỏ chăn nuôi. Nhóm đất bạc màu (5,6% và gần 10,0%), có thể trồng được nhiều loại cây, nhất là cây ăn quả (xoài, na, đu đủ...). 2.2.3. Khí hậu Hà Nội nằm trong vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ với đặc điểm nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa hè nóng, mưa nhiều, mùa đông lạnh, mưa ít, tạo ra cơ cấu 7 cây trồng phong phú (đặc biệt là cây vụ đông), có thể đẩy mạnh việc luân canh, tăng hệ số sử dụng đất… Trong những năm gần đây, tình hình thiên tai như hạn hán, lũ lụt... xảy ra trên địa bàn Thủ đô đặt ra cảnh báo về ảnh hưởng của biến đổi thời tiết, khí hậu đến hoạt động sản xuất. 2.2.4. Nguồn nước TP Hà Nội có 2 hệ thống sông lớn là hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Đà cùng một số con sông khác như sông Cà Lồ, sông Cầu, sông Tích, sông Bùi... Bên cạnh đó, Hà Nội còn có nhiều hồ, đầm với nguồn gốc tự nhiên và nhân tạo. Các sông, hồ không chỉ cung cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác thủy sản, mà còn có giá trị cho phát triển du lịch. Trong những năm gần đây, tình trạng ô nhiễm sông, hồ, kênh rạch ở Hà Nội đang ở mức báo động, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và sức khỏe của người dân. 2.2.5. Sinh vật Hà Nội có tài nguyên sinh vật phong phú với Vườn quốc gia Ba Vì (gồm 450 loài thuộc 128 họ thực vật, 259 loài động vật), có các đặc sản có giá trị kinh tế cao (cam Canh, bưởi Diễn, hồng xiêm Xuân Đỉnh, khế Bắc Biên, đào Nhật Tân, quất Tứ Liên, gà Mía, vịt cỏ Vân Đình...). 2.3. Nhân tố kinh tế - xã hội 2.3.1. Dân cư và nguồn lao động Dân số trung bình của Hà Nội năm 2014 là 7.095,9 nghìn người, chiếm 7,8% dân số cả nước, đứng thứ hai trong số 63 tỉnh, TP (chỉ sau TP. Hồ Chí Minh). Số dân nông thôn tuy có xu hướng giảm dần, nhưng còn chiếm tỉ trọng cao trong tổng dân số (50,8%). Điều này vừa là động lực, vừa tạo ra áp lực ảnh hưởng đến sự phát triển N, L, TS cũng như việc cung cấp cho nhu cầu thị trường. Năm 2014, lao động trong khu vực N, L, TS của Hà Nội vẫn chiếm 21,7%, tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (93%). Về chất lượng nguồn lao động, Hà Nội hiện đứng đầu cả nước giúp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, phát triển NNCNC. 2.3.2. Công nghiệp hoá và đô thị hoá Trong giai đoạn 2008 - 2014, CNH và ĐTH ở Thủ đô diễn ra mạnh mẽ (tốc độ ĐTH đạt 5,8%/năm). Tỉ lệ dân đô thị của Hà Nội hiện là 49,2% (thấp hơn hầu hết các TP trực thuộc Trung ương khác). Điều đó đã dẫn đến sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp, thay đổi cơ cấu lao động, ô nhiễm môi trường... 2.3.3. Thị trường tiêu thụ Với số dân trên 7,0 triệu người, lại là nơi tập trung đông đúc các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, các trường học, các cơ quan ngoại giao và đại diện các tổ chức nước ngoài nên nhu cầu tiêu thụ thực phẩm và lương thực rất lớn, nhất là những sản phẩm CLC như rau sạch, thịt gia súc, gia cầm, sữa, trứng… Đó là chưa kể hàng năm thủ đô lại đón trên 2 triệu khách quốc tế và gần 15 triệu khách nội địa. Bởi vậy Hà Nội là một thị trường lớn và nhiều tiềm năng. 2.3.4. Chính sách phát triển Để thực hiện các mục tiêu và định hướng phát triển N, L, TS, Uỷ ban nhân dân TP Hà Nội và Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn TP Hà Nội đã xây 8 dựng và ban hành các chương trình, đề án, quy hoạch như Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp; Quy hoạch hệ thống thủy lợi; Đề án phát triển hoa, cây cảnh; Đề án rau an toàn (RAT); Chương trình phát triển chăn nuôi lợn; Chương trình sản xuất lúa hàng hóa CLC... Đây là động lực to lớn thúc đẩy nền nông nghiệp TP phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả, phục vụ cho nhu cầu của dân cư và các ngành kinh tế. 2.3.5. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước với sự hội tụ của nhiều tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không giúp hàng hóa nông sản trao đổi dễ dàng, thuận lợi. Hệ thống thủy lợi toàn TP đã được đầu tư xây dựng cơ bản với 1.644 công trình đầu mối tưới tiêu với gần 2.100 trạm bơm, 95 hồ chứa đảm bảo tưới nước cho gần 130,0 nghìn ha và tiêu nước cho 165,0 nghìn ha. Tuy nhiên, hiện nay nhiều công trình thủy lợi đã bị xuống cấp, sử dụng công nghệ lạc hậu, dễ bị sự cố khi phải hoạt động nhiều ngày như trạm bơm Đông Mỹ (Thanh Trì), Tăng Long (Sóc Sơn), Bộ Đầu (Thường Tín)... Hệ thống phân phối nông sản của Hà Nội bao gồm 426 chợ (có 6 chợ đầu mối bán buôn rau, quả), trong đó có 316 chợ ở các huyện ngoại thành cùng với 103 siêu thị, 19 trung tâm thương mại... Hệ thống này giữ vai trò quan trọng trong trao đổi mua bán nông sản và định hướng sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người dân. 2.3.6. Khoa học công nghệ Thủ đô là nơi tập trung các trung tâm nghiên cứu, các nhà khoa học đầu ngành và đang từng bước áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ (như mô hình công nghệ cao trong trồng hoa, công nghệ cấy chuyển phôi cho bò sữa, công nghệ cao nuôi cá rô phi...) vào sản xuất. Đây là cơ hội cho nền nông nghiệp Thủ đô phát triển theo hướng NNCNC, hiện đại, năng suất, chất lượng. 2.3.7. Nguồn vốn đầu tư Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu đầu tư của TP (4,4% năm 2014) với tốc độ tăng chậm, chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực đê điều, thủy lợi nhằm hỗ trợ cho sản xuất. 2.3.8. Tổ chức không gian đô thị Hà Nội Tổ chức không gian đô thị Hà Nội theo mô hình chùm đô thị, bao gồm đô thị trung tâm hạt nhân; đô thị trực thuộc (gồm 5 đô thị vệ tinh, 13 thị trấn) và khu vực nông thôn. Việc phát triển nông nghiệp của TP chịu sự chi phối và ảnh hưởng của tổ chức không gian đô thị, gắn liền với các vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hóa với quy mô lớn, thân thiện với môi trường. 2.4. Đánh giá chung TP Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi cả về tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội (KT - XH) (như vị trí địa chính trị, thị trường tiêu thụ rộng lớn...) để phát triển sản xuất N, L, TS. Tuy nhiên, ngành cũng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức (nhất là tác động của ĐTH đến sử dụng đất và lao động nông nghiệp). 9 CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Vai trò trong nền kinh tế của Thủ đô Nhóm ngành N, L, TS chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu GRDP của TP nhưng vẫn liên tục giảm và đến năm 2014 chỉ còn 4,7%. Tuy nhiên, nhóm ngành này vẫn có vai trò quan trọng để ổn định thị trường và đời sống nhân dân, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, là cơ sở thúc đẩy phát triển KT - XH. - GTSX N, L, TS của TP Hà Nội ngày càng tăng, năm 2014 đạt 44.237 tỉ đồng (giá thực tế), chiếm 29,6% GTSX vùng ĐBSH, đứng đầu toàn vùng và đứng thứ 6/63 tỉnh, TP của cả nước. - Tốc độ tăng trưởng GTSX N, L, TS giai đoạn 2008 - 2014 đạt bình quân 4,9%/năm, trong đó cao nhất là ngành thủy sản (11,9%), tiếp đến là nông nghiệp (4,5%). - Trong cơ cấu GTSX N, L, TS, ưu thế thuộc về ngành nông nghiệp (luôn chiếm trên 90% GTSX toàn ngành), tuy tỉ trọng có giảm nhưng chậm. - GTSX N, L, TS trên 1 ha đất canh tác của TP Hà Nội tăng liên tục, năm 2014 đạt 236,4 triệu đồng/ha, tăng hơn 2,2 lần so với năm 2008, trong đó tăng nhanh thuộc về ngành thủy sản. - Trong cơ cấu sử dụng đất của TP, đất nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn nhất (trong đó đất sản xuất nông nghiệp chiếm 45,3% diện tích tự nhiên và 81,2% diện tích đất nông nghiệp của TP). Tuy nhiên hiện nay, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, nhường chỗ cho đất phi nông nghiệp và đất do tác động của quá trình CNH và ĐTH... Quỹ đất và hiện trạng sử dụng đất của TP Hà Nội giai đoạn 2008 - 2014 Loại đất Tổng số Đất nông nghiệp - Đất sản xuất nông nghiệp - Đất lâm nghiệp - Đất nuôi trồng thủy sản - Đất nông nghiệp khác Đất phi nông nghiệp Đất chưa sử dụng Năm 2008 Diện tích % so với (nghìn ha) diện tích tự nhiên 334,85 100,0 192,72 57,5 156,65 46,8 24,05 7,2 10,16 3,0 1,86 0,5 131,30 39,2 10,83 3,3 Năm 2014 Diện tích % so với (nghìn ha) diện tích tự nhiên 332,45 100,0 187,15 56,3 150,68 45,3 24,34 7,3 10,62 3,2 1,51 0,5 137,69 41,4 7,61 2,3 Tăng (+), giảm (-) (nghìn ha ) - 2,4 - 5,57 - 5,97 + 0,29 + 0,46 - 0,35 + 6,39 - 3,22 Nguồn: [17] 3.2. Ngành nông nghiệp 3.2.1. Khái quát chung - Quy mô GTSX nông nghiệp liên tục tăng, từ 19.304 tỉ đồng năm 2008 lên 40.477 tỉ đồng năm 2014 (giá hiện hành). Tốc độ tăng trưởng GTSX nông nghiệp (giá so sánh 2010) của Hà Nội giai đoạn 2008 - 2014 là 4,5%/năm, cao hơn mức bình quân của cả nước (4,2%/năm). 10 100% 2,5 3,8 3,5 4,5 49,0 50,2 51,1 50,0 48,5 46,0 45,4 45,5 2010 2012 80% 60% 40% 20% năm 0% 2008 Trồng trọt Chăn nuôi 2014 Dịch vụ nông nghiệp Biểu đồ cơ cấu GTSX nông nghiệp TP Hà Nội giai đoạn 2008 - 2014 (giá hiện hành) Nguồn: [17] - Cơ cấu GTSX nông nghiệp của TP đang có sự chuyển dịch tích cực. Tỉ trọng ngành trồng trọt liên tục giảm, ngành chăn nuôi từ sau năm 2008 đã vượt lên ngành trồng trọt và chiếm trên 50%. Còn dịch vụ nông nghiệp có tỉ trọng thấp, nhưng đang tăng, tuy chậm và không ổn định. 3.2.2. Ngành trồng trọt Trồng trọt là ngành có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của thủ đô (chiếm tới 45,5% tổng GTSX ngành nông nghiệp). Diện tích và GTSX các loại cây trồng của TP Hà Nội giai đoạn 2008 - 2014 Tiêu chí Tổng số Cây hàng năm + Cây lương thực có hạt + Cây rau đậu + Cây công nghiệp + Hoa, cây cảnh + Cây khác Cây lâu năm + Cây ăn quả + Cây công nghiệp + Cây khác 2008 2014 Diện tích GTSX (tỉ đồng, Diện tích GTSX (tỉ đồng, (ha) giá hiện hành) (ha) giá hiện hành) 9.355 18.402 342.241 309.664 8.405 15.642 324.596 290.633 5.866 9.143 232.524 222.991 1.325 4.025 30.468 30.186 686 823 44.024 22.695 236 1.007 4.365 5.324 294 644 13.215 9.437 950 2.760 17.645 19.031 867 2.317 14.233 15.161 59 404 2.573 3.263 24 39 398 607 Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ [8 ][17] Diện tích gieo trồng nói chung và diện tích gieo trồng cây hàng năm ngày càng giảm về quy mô, song GTSX toàn ngành trồng trọt vẫn tăng liên tục. Trong cơ cấu ngành trồng trọt, cây lương thực có hạt vẫn là cây trồng chính và đóng vai trò chủ đạo cả về diện tích gieo trồng và GTSX, tuy tỉ trọng có xu hướng giảm. Các cây trồng có giá trị hàng hóa cao (rau đậu thực phẩm, hoa, cây 11 cảnh, cây ăn quả) có tỉ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu diện tích gieo trồng và GTSX ngành trồng trọt, phản ánh xu thế tích cực trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng đa dạng hóa gắn với gia tăng giá trị sản phầm hàng hóa và hiệu quả sử dụng đất, đáp ứng nhu cầu thị trường của dân cư. a) Cây lương thực có hạt Cây lương thực có hạt đóng vai trò quan trọng trong ngành trồng trọt cả về diện tích và GTSX (trên dưới 70% diện tích gieo trồng và gần 50% - 62,7% GTSX), góp phần cơ bản đảm bảo an ninh lương thực cho cư dân của TP. Trong giai đoạn 2008 - 2014, diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt đang có xu hướng giảm dần (từ 232,5 nghìn ha năm 2008 xuống gần 223,0 nghìn ha năm 2014), sản lượng lương thực có hạt theo đó cũng giảm dần (tương ứng là từ 1.287,8 nghìn tấn xuống 1.273,6 nghìn tấn). Tuy nhiên, Hà Nội vẫn đứng đầu vùng ĐBSH (chiếm 19,2% diện tích và 18,3% sản lượng lương thực có hạt của vùng). Lúa là cây lương thực chủ lực, được trồng để phục vụ nhu cầu tại chỗ cho nhân dân TP. Diện tích trồng lúa năm 2014 của Hà Nội là 202.793 ha, chiếm 90,9% diện tích cây lương thực có hạt, 69,8% diện tích gieo trồng cây hàng năm và 65,5% tổng diện tích gieo trồng. Tuy nhiên trong giai đoạn 2008 - 2014, diện tích lúa đã giảm dần để nhường chỗ cho các cây trồng khác có giá trị sản phẩm cao hơn, cho NTTS và chuyển đổi mục đích sử dụng do tác động của quá trình ĐTH. So với năm 2008, diện tích trồng lúa của Hà Nội đã giảm 3.850 ha. Mặc dù vậy, nhờ đẩy mạnh thâm canh, áp dụng các biện pháp khoa học công nghệ (về giống, kĩ thuật canh tác) nên sản lượng lúa vẫn tương đối ổn định (1.287,8 nghìn tấn năm 2008 và 1.273,6 nghìn tấn năm 2014), dẫn đầu vùng ĐBSH. Năng suất lúa có tăng, nhưng không nhiều (57,0 tạ/ha năm 2008 và 58 tạ/ha năm 2014), cao hơn mức trung bình của cả nước nhưng vẫn thấp hơn vùng ĐBSH. Về phân bố, lúa tập trung nhiều nhất ở các huyện nằm xa trung tâm là Ứng Hoà, Chương Mỹ, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Mỹ Đức, Ba Vì, Thanh Oai... Cùng với nhu cầu tiêu thụ gạo CLC rất nhiều, diện tích lúa CLC không ngừng tăng lên. Nếu năm 2010, diện tích lúa CLC của toàn TP là 21,5 nghìn ha (chiếm 10,4% diện tích trồng lúa) thì đến năm 2014 đã tăng lên 66,2 nghìn ha (chiếm 32,6%) với sản lượng đạt 357, 4 nghìn tấn. Hà Nội đã xác định vùng sản xuất lúa hàng hóa CLC tại 105 xã của 8 huyện trọng điểm lúa (Ứng Hòa, Chương Mỹ, Phú Xuyên, Mỹ Đức, Thanh Oai và Thường Tín, Sóc Sơn, Ba Vì). TP đã khảo nghiệm thành công nhiều bộ giống lúa có năng suất, CLC là Bắc Thơm 7, T10, Nàng Xuân, Nếp cái hoa vàng, Nếp BM9603, Nếp vàng 1, Bắc Thơm 7 kháng bạc lá, Hương Thơm 1. Đây là các giống lúa cho năng suất khá cao, từ 53,0 đến 54,0 tạ/ha,, hiệu quả kinh tế cao hơn lúa đại trà từ 1,3 - 1,5 lần. Ngô là cây lương thực quan trọng thứ hai, nhưng do quá trình CNH, ĐTH và do năng suất, thu nhập của cây ngô thấp nên diện tích và sản lượng ngô của TP ngày càng giảm. b) Cây rau đậu 12 Rau đậu được xác định là cây trồng mũi nhọn của ngành nông nghiệp Thủ đô do đây là sản phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày và được tiêu thụ với số lượng lớn. Hiện nay trên địa bàn TP có gần 12 nghìn ha canh tác rau (tương đương khoảng 30,0 nghìn ha gieo trồng/năm), phân bố ở cả 22 quận, huyện, thị xã với hơn 40 loại, tập trung chủ yếu vào vụ đông xuân với sản lượng đạt xấp xỉ 600 nghìn tấn/năm. Nhờ giá trị thương phẩm lớn nên GTSX của rau ngày càng tăng (đạt 4.025 tỉ đồng năm 2014, giá hiện hành). GTSX/1 ha đất gieo trồng tăng từ 43,4 triệu đồng/ha năm 2008 lên 133 triệu đồng/ha năm 2014, gấp 3,2 lần GTSX/1 ha đất trồng cây lương thực có hạt. Cùng với rau đại trà, Hà Nội còn chú trọng phát triển RAT. Hiện nay diện tích canh tác RAT của TP là 5.800 ha, tương đương 12.328 ha gieo trồng, đạt năng suất 200 tạ/ha/vụ và cho sản lượng 256,4 nghìn tấn. RAT tập trung nhiều nhất tại các huyện Mê Linh, Hoài Đức, Thanh Oai, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì.., trong đó có một số mô hình tập trung, khép kín sản xuất và tiêu thụ đang phát triển tốt như mô hình tại xã Văn Đức, Đặng Xá (Gia Lâm), xã Yên Mỹ, Duyên Hà (Thanh Trì), xã Vân Côn, Tiền Lệ (Hoài Đức), xã Nam Hồng (Đông Anh), xã Lĩnh Nam (Thanh Trì)... Về hiệu quả kinh tế, giá trị thu được từ sản xuất RAT trung bình ở mức 200 - 250 triệu đồng/ha/năm, cao hơn sản xuất rau thường từ 10 - 20%. Tuy nhiên, sản xuất RAT của Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế như diện tích còn manh mún, thiếu mạng lưới kinh doanh, chất lượng chưa đảm bảo... c) Cây ăn quả Cây ăn quả hiện là một trong các loại cây trồng dẫn đầu về hiệu quả kinh tế. GTSX/1 ha đất gieo trồng ngày càng cao, từ 60,9 triệu đồng/ha năm 2008 lên 153 triệu đồng/ha năm 2014 (chỉ xếp sau nhóm hoa, cây cảnh). Phát triển cây ăn quả, nhất là cây ăn quả đặc sản được xem là giải pháp hữu hiệu trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng thu nhập cho nông dân. Hà Nội hiện có 15.161 ha cây ăn quả, tập trung ở vùng đồi gò và vùng bãi ven sông thuộc huyện Ba Vì (2.221 ha), Sóc Sơn (1.147 ha), Chương Mỹ (1.132 ha), thị xã Sơn Tây (858 ha), Gia Lâm (853 ha), Hoài Đức (851 ha), Mê Linh (785 ha)... với nhiều loại quả đặc sản, chất lượng, đem lại giá trị kinh tế cao như cam Canh, bưởi Diễn, bưởi đỏ Mê Linh, hồng Yên Thôn, quýt Tích Giang, nhãn muộn Đại Thành, ổi Đông Dư, chuối Tản Hồng... d) Hoa, cây cảnh Nghề trồng hoa, cây cảnh ở Hà Nội đã có từ lâu đời với những làng nghề truyền thống như đào, quất Nhật Tân, làng hoa Ngọc Hà, Nghi Tàm, Yên Phụ (Tây Hồ), hoa Tây Tựu (Bắc Từ Liêm), cây cảnh Hồng Vân (Thường Tín)... Do tốc độ ĐTH nhanh nên các vườn cây, vùng trồng hoa ở khu vực nội thành và ven đô bị thu hẹp, việc trồng hoa mở rộng ra các huyện ngoại thành có đất phù sa và khí hậu thích hợp như Mê Linh, Đan Phượng, Thường Tín, Phúc Thọ... Đến năm 2014, diện tích trồng hoa, cây cảnh của TP đạt 5.324 ha, trong đó diện tích trồng hoa chiếm ưu thế với 4.443,8 ha (83,4%), đứng thứ 2 cả nước (sau Lâm Đồng) và cây cảnh là 880,3 ha (16,6%). Chủng loại hoa của Hà Nội 13 rất đa dạng, song được yêu thích nhất trên thị trường là hoa hồng, cúc, ly, lan, lay ơn, thược dược, cẩm chướng,,,, còn cây cảnh nổi bật là đào và quất. Nhờ tăng diện tích và sản lượng, hàng năm các làng hoa cung cấp cho TP hơn 1 tỉ cành hoa các loại, gần 2 triệu chậu hoa và hơn 1 triệu cây cảnh. Doanh thu bình quân tại các vùng hoa, cây cảnh sản xuất tập trung đạt từ 250 triệu đến 3 tỉ đồng/ha/năm tùy thuộc đối tượng hoa, cây cảnh và mức độ đầu tư. Vùng trồng hoa, cây cảnh tập trung chủ yếu ở một số quận, huyện như Bắc Từ Liêm (679 ha), Mê Linh (545 ha), Đan Phượng (263 ha), Tây Hồ (213 ha), Thường Tín (131 ha), Phúc Thọ (58 ha)... 3.2.3. Ngành chăn nuôi Trong cơ cấu ngành nông nghiệp TP, chăn nuôi có tỉ trọng cao hơn trồng trọt (50% so với 45,5% của trồng trọt năm 2014). GTSX của tăng nhanh và liên tục (từ 9.469 tỉ đồng năm 2008 lên 20.235 tỉ đồng năm 2014); tốc độ tăng trưởng trung bình trong thời gian nói trên đạt 7,0%/năm, cao hơn toàn ngành nông nghiệp (4,5%/năm) và trồng trọt (1,9%/năm). GTSX và cơ cấu GTSX ngành chăn nuôi của TP Hà Nội (giá hiện hành) Tiêu chí Tổng số - Trâu, bò - Lợn - Gia cầm - Khác 2008 Tỉ đồng 9.469 117 7.581 1.580 191 % 100 1,2 80,1 16,7 2,0 2010 Tỉ đồng 12.686 387 8.646 3.370 283 % 100 3,1 68,2 26,6 2,1 2012 2014 Tỉ đồng % Tỉ đồng % 19.908 100 20.235 100 750 3,8 1.012 5,0 13.577 68,2 12.759 63,1 5.087 25,6 5.957 29,4 494 2,4 507 2,5 Nguồn: Tính toán từ [17] Đàn gia súc, gia cầm của TP liên tục phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nếu tính tổng đàn vật nuôi hiện nay, Hà Nội đứng đầu cả nước Đàn vật nuôi và sản phẩm chăn nuôi của TP Hà Nội giai đoạn 2008 - 2014 Vật nuôi và sản phẩm 1. Tổng đàn (nghìn con) - Lợn - Bò - Trâu - Gia cầm + Gà 2. Sản lượng (nghìn tấn) - Thịt hơi các loại + Thịt lợn + Thịt bò + Thịt trâu + Thịt gia cầm - Sữa tươi - Trứng gia cầm (triệu quả) 2008 17.737 1.669,7 207,4 28,9 15.831 11.296 2010 19.098 1.625,2 184,6 26,9 17.261 12.539 319,3 276,3 6,9 1,3 34,8 11,3 302 371,2 308,2 8,7 1,5 52,8 15,6 584 2012 22.799 1.337,1 141,7 24,2 21.926 14.501 2014 27.014 1.410,5 140,5 24,4 25.439 16.712 382,7 388,2 301,3 297,0 8,9 9,1 1,4 1,5 71,1 80,6 18,6 31,2 862 1.105 Nguồn: tính toán từ [17] 14 Trong giai đoạn 2008 - 2014 tổng đàn gia súc, gia cầm tăng liên tục, từ 17.377 nghìn con lên 27.014 nghìn con, nhưng có sự biến động giữa các nhóm vật nuôi. Đàn lợn, đàn trâu và đàn bò đều giảm trong xu hướng chung của cả nước, chỉ có đàn gia cầm tăng nhanh. Song sự giảm dần ở một số vật nuôi không ảnh hưởng đến tổng đàn và sản lượng chăn nuôi. Ngành chăn nuôi TP đang thay đổi tích cực về phương thức chăn nuôi (từ phân tán, nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình sang hình thành các khu chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, trang trại theo hướng an toàn sinh học); về tổ chức các mô hình chăn nuôi khép kín (từ khâu con giống - thức ăn - chăn nuôi - giết mổ - chế biến - tiêu thụ), về ứng dụng khoa học - công nghệ trong chăn nuôi... a) Đàn lợn Hà Nội là địa phương dẫn đầu về tổng đàn lợn ở vùng ĐBSH (chiếm 21,9% năm 2014) và cả nước (5,3%). So với năm 2008, đàn lợn năm 2014 giảm 259,2 nghìn con. Nguyên nhân là do giảm hộ chăn nuôi nhỏ lẻ nằm trong khu dân cư, chuyển sang chăn nuôi quy mô lớn xa khu dân cư, chăn nuôi trang trại... Trong cơ cấu đàn lợn, lợn thịt chiếm ưu thế (88,9% năm 2014), tiếp theo là lợn nái (11,0%) và lợn đực (0,1%). Chất lượng giống lợn của TP hiện nay đang được cải thiện tích cực, ngành chăn nuôi đã đầu tư các giống lợn ngoại có năng suất và CLC vào các trang trại như Yorkshire, Landrace, lợn đực giống Duroc, Pietrain, Maxter... Còn ở các hộ chăn nuôi đa số là giống lợn lai. Chăn nuôi lợn hiện nay tập trung tại nhóm huyện trọng điểm lúa phía Nam TP (Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Thanh Oai); 2 huyện phía Bắc (Ba Vì, Sóc Sơn) và huyện Phúc Thọ. Những huyện có sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng cao cũng chính là các huyện có tổng đàn lợn nhiều, đứng đầu là Ba Vì (10,9% sản lượng thịt TP năm 2014), Chương Mỹ (9,9%), Ứng Hòa (9,3%)... Chăn nuôi lợn TP hiện nay cũng đang phải đối mặt với những khó khăn về giá thức ăn chăn nuôi tăng nhanh, giá lợn giống ở mức cao, tình hình dịch bệnh phức tạp (như lợn tai xanh, lở mồm long móng)... b) Đàn gia cầm Đàn gia cầm của Hà Nội đứng đầu vùng ĐBSH (chiếm 25,0% tổng đàn toàn vùng) và cả nước (6,6% tổng đàn) với 25,4 triệu con (2014). Mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm ở một số thời điểm nhất định nhưng tổng đàn, sản lượng thịt và trứng đều liên tục tăng trong suốt giai đoạn 2008 - 2014. Có được kết quả trên là nhờ việc thay thế các giống gia cầm chất lượng kém bằng các giống nhập nội có năng suất thịt và trứng cao, các giống siêu thịt, siêu trứng (gà Lương Phượng, gà Tam Hoàng; vịt Anh Đào, ngan Pháp; vịt Anh Super, M1, M2...). Các giống đặc sản địa phương có chất lượng thịt ngon, được thị trường tiêu thụ mạnh ngày càng được nhân rộng (gà Mía, gà Ri, vịt cỏ Vân Đình, vịt Đại Xuyên...). Cơ cấu đàn gia cầm đã có sự thay đổi, mặc dù gà là vật nuôi chủ lực, nhưng đàn vịt, ngan, ngỗng ngày càng tăng tỉ trọng (từ 28,7% năm 2008 lên 34,3% năm 2014), đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân Thủ đô. 15 Gia cầm được nuôi ở khắp 18 huyện ngoại thành và cả ở các quận ven đô mới thành lập. Bốn huyện đứng đầu về tổng đàn gia cầm là Đông Anh (13,9% tổng đàn toàn TP), Ba Vì, Chương Mỹ và Quốc Oai. c) Đàn bò Với tổng đàn bò năm 2014 là 140,5 nghìn con, Hà Nội đứng thứ 13/63 tỉnh, TP (chiếm 2,7% tổng đàn) và đứng đầu vùng ĐBSH (29,6% tổng đàn). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 9,1 nghìn tấn, đứng đầu ĐBSH và thứ 9 cả nước. Trong giai đoạn 2008 - 2014, tổng đàn bò có xu hướng giảm dần, từ (66,9 nghìn con) do dịch bệnh, giá thức ăn chăn nuôi lên cao... Trong cơ cấu đàn bò hiện nay, bò thịt chiếm ưu thế (87% tổng đàn), còn lại là bò sữa (9,9%) và bò cày kéo (3,1%). Đàn bò thịt chủ yếu là bò lai Sind (chiếm 70%), bò Braliman, Drougtmaster, BBB. Bò thịt được nuôi nhiều nhất ở các huyện, xã vùng đồi gò, vùng bãi ven sông, có nguồn thức ăn tự nhiên như Sóc Sơn, Chương Mỹ, Ba Vì, Đông Anh, Mê Linh, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất... Đàn bò sữa của TP chiếm 9,3% tổng đàn của cả nước, đứng thứ 3 sau TP Hồ Chí Minh và Nghệ An. Sản lượng sữa tươi đạt 31,2 nghìn tấn, đứng thứ 5 cả và đứng đầu vùng ĐBSH. Năng suất và sản lượng sữa bò ngày càng tăng nhờ nhiều tiến bộ khoa học được ứng dụng trong lai tạo giống, sản xuất thức ăn, cung ứng dịch vụ thú y và xây dựng hệ thống chuồng trại... Hiện bò sữa được nuôi nhiều nhất ở huyện Ba Vì (gần 55,8% tổng đàn bò sữa TP) và Gia Lâm (22,5%). Ngoài ra còn một số huyện, song với số lượng ít hơn nhiều như Quốc Oai, Đông Anh, Phúc Thọ, Đan Phượng... 3.3. Ngành thủy sản Trong giai đoạn 2008 - 2014, thủy sản đã có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GTSX của toàn ngành N, L, TS, với tốc độ tăng bình quân năm là 11,9%, cao hơn cả ngành N, L, TS (4,9%/năm) và nông nghiệp (4,5%/năm). Quy mô và cơ cấu GTSX của ngành trong GTSX N, L, TS tăng liên tục, từ 777 tỉ đồng (chiếm 3,9%) năm 2008 lên tới 3.706 tỉ đồng (8,4%) năm 2014. Trên địa bàn Hà Nội chủ yếu là phát triển NTTS nước ngọt. Trong cơ cấu GTSX thủy sản, nuôi trồng giữ vai trò chủ đạo (chiếm đến 94,5% năm 2014), khai thác chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ (5,5%) và tăng trưởng không vững chắc. Về cơ cấu sản lượng thủy sản, nuôi trồng luôn chiếm tỉ trọng lớn (trên 94%). Khai thác mặc dù sản lượng có xu hướng tăng nhẹ nhưng nhìn chung tỉ trọng rất nhỏ và không ổn định. Quy mô và cơ cấu sản lƣợng thủy sản của TP Hà Nội giai đoạn 2008 - 2014 Năm 2008 2010 2012 2014 Sản lƣợng (tấn) Khai thác Nuôi trồng 3.022 34.746 2.653 56.628 3.600 67.784 4.131 82.444 Cơ cấu (%) Khai thác Nuôi trồng 8,0 92,0 4,5 95,5 5,0 95,0 4,8 95,2 Nguồn: [17] 16 Diện tích NTTS của Hà Nội tăng liên tục trong giai đoạn 2008 - 2014 (từ 18,0 lên 23,1 nghìn ha, trung bình tăng 0,85 nghìn ha/năm). NTTS ở TP hoàn toàn là từ nguồn nước ngọt. Diện tích tăng thêm là do khai thác hết các diện tích mặt nước, nhất là chuyển đồi từ ruộng trũng sang và tận dụng các sông, hồ thủy lợi..., nhờ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập và cung cấp cho nhu cầu thị trường. Hà Nội hiện đứng đầu vùng ĐBSH về diện tích NTTS (chiếm 20,9% toàn vùng năm 2014). NTTS tập trung chủ yếu ở các huyện phía Nam TP là Ứng Hòa (gần 3,7 nghìn ha), Mỹ Đức (3,2 nghìn ha), Chương Mỹ (1,87 nghìn ha), Phú Xuyên (1,77 nghìn ha), Thường Tín (trên 1,0 nghìn ha), Thanh Trì (0,88 nghìn ha), phía Bắc TP chỉ có huyện Ba Vì (3,6 nghìn ha), còn các huyện ven đô diện tích NTTS ít. 3.4. Ngành lâm nghiệp Lâm nghiệp của Hà Nội không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà quan trọng hơn đối với TP là bảo vệ diện tích rừng hiện có, bảo tồn đa dạng sinh học, cải tạo và nâng cao chất lượng rừng, cân bằng môi trường sinh thái của Thủ đô, làm đẹp cảnh quan và góp phần phát triển du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng. Trong cơ cấu GTSX N, L, TS của TP giai đoạn 2008 - 2014, tỉ trọng của lâm nghiệp rất nhỏ (0,2%) và có xu hướng giảm, mặc dù giá trị tuyệt đối vẫn tăng, tuy không nhiều (từ 59 tỉ đồng năm 2008 lên 84 tỉ đồng năm 2014). Hiện nay tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng của Hà Nội là 24,3 nghìn ha, chiếm 7,3% diện tích tự nhiên và 13,0% diện tích đất nông nghiệp (2014), trong đó đất rừng đặc dụng chiếm 43,5%, rừng sản xuất chiếm 34,5% và rừng phòng hộ chiếm 22,5%. Diện tích có rừng là 23,8 nghìn ha, trong đó rừng tự nhiên chiếm 28,6%, còn lại 71,4% là rừng trồng. Quỹ đất lâm nghiệp có rừng và đất rừng tập trung ở 9 huyện, thị xã, trong đó lớn nhất là huyện Ba Vì (chiếm 45,1%), tiếp đến là Sóc Sơn, Mỹ Đức, Quốc Oai... Trong cơ cấu GTSX lâm nghiệp của Hà Nội giai đoạn 2008 - 2014 phần đóng góp chủ yếu thuộc về khai thác gỗ và chế biến lâm sản. Hà Nội đang tập trung khai thác có hiệu quả vùng đồi núi để trồng cây xanh, bảo vệ tốt rừng tại các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức kết hợp phát triển du lịch sinh thái; hình thành các vành đai xanh xung quanh TP. 3.5. Các hình thức tổ chức không gian sản xuất nông, lâm, thủy sản chủ yếu ở thành phố Hà Nội 3.5.1. Hộ nông, lâm, thủy sản (Hộ nông dân, Nông hộ) Hộ N, L, TS vẫn là đơn vị sản xuất quan trọng nhất trong nông nghiệp và ở nông thôn trên các phương diện sử dụng đất, lực lượng lao động, hàng hóa sản xuất ra. Đề tài đã tiến hành điều tra về thực trạng sản xuất nông nghiệp của 120 hộ nông dân ở 3 xã Lam Điền, Tốt Động, Trường Yên của huyện Chương Mỹ và 3 xã Xuân Nộn, Cổ Loa, Tàm Xá của huyện Đông Anh. Kết quả cho thấy hiện nay hình thức hộ nông dân ngày càng năng động, tự chủ trong sản xuất, thích ứng dần với nền kinh tế thị trường; phát triển các mô hình sản xuất theo hướng luân canh, xen canh, đa canh; mở rộng quy mô và vốn đầu tư và đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao thu nhập cho gia đình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan