ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC- XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ NGỌC HƯƠNG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ NGỌC HƯƠNG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số:
62.22.80.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Nguyễn Thanh
2. TS. Hà Thiên Sơn
Phản biện độc lập 1. PGS.TS Trần Nguyên Việt
Phản biện độc lập 2. PGS.TS. Nguyễn Quang Điển
Phản biện 1. PGS.TS. Trương Văn Chung
Phản biện 1.PGS.TS. Đinh Văn Thạch
Phản biện 1. PGS.TS. Lương Mi nh Cừ
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu nghiêm túc, tâm
huyết được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa hoc của PGS.TS.
Nguyễn Thanh và TS. Hà Thiên Sơn. Kết quả nghiên cứu là hoàn
toàn trung thực và chưa được công bố ở bất cứ công trình nào
khác.
Tác giả luận án
NCS. Nguyễn Thị Ngọc Hương
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
AEC: Cộng đồng kinh tế Asean
ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do Asean
APEC: Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
ASEAM: Diễn đàn hợp tác Á - Âu
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BTA: Hiệp định thương mại song phương (Việt Nam - Hoa Kỳ)
CNHT: Công nghiệp hỗ trợ
CNTT: Công nghệ thông tin
CNTT - TT: Công nghệ thông tin – truyền thông
CRM: Phần mềm quản lý quan hệ khách hàng
EPO: Cơ quan sáng chế Châu Âu
ERP: Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp
EU: Liên minh Châu Âu
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA : Hiệp định khu vực thương mại tự do
GMS: Tiểu vùng sông MêKông mở rộng
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
HDI: Chỉ số phát triển con người
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
IPO : phát hành cỗ phiếu ra công chúng lần đầu
ITC : Công nghệ thông tin và truyền thông
IT: Công nghệ thông tin
KEI: Chỉ số kinh tế tri thức
KI: Chỉ số t ri thức
MERCOSUR: Thị trường chung Nam Mỹ
NAFTA: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
ODA: Quỹ hỗ trợ phát triển chính thức
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
R&D : Nghiên cứu và phát triển
SPT: Trung tâm Dịch vụ viễn thông Sài gòn
SCM: phần mềm quản lý dây chuyền cung ứng
TMĐT: Thương mại Điện tử
TNCs: Các công ty xuyên quốc gia
UNCTAD: Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và phát triển
UNDP: Chương trình phát triển Liên Hiệp quốc
VNPT: Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam
WB: Ngân hàng thế giới
WIPO: Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỀU
2.1. Bảng xếp hạng của Ngân hàng thế giới về chỉ số kinh tế tri thức của
146 nước năm 2012
2.2. Bảng xếp hạng của Ngân hàng thế giới về chỉ số kinh tế tri thức của
146 nước năm 2010
2.3. Biểu đồ đánh giá mức độ phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam năm
2012
2.4. Bảng so sánh chỉ số kinh tế tri thức – tri thức của một số quốc gia
2.5. Tổng số trường, học sinh, giáo viên Tiểu học, THCS, THPT từ năm
học 2002-2003 đến năm học 2010-2013
Tỷ lệ người trên 15 tuổi biết đọc, biết viết
Tỷ lệ học sinh Tiểu học, THCS, THPT trên tổng dân số trong độ tuổi
2.6. Tổng số trường, HSSV hệ Đại học - Cao đẳng - TCCN từ năm học
2002- 2003 đến năm học 201 0-2013
2.7. Trình độ Giảng viên, Giáo viên trường Đại học – Cao đẳng – Trung
cấp chuyên nghiệp từ năm học 200 2- 2003 đến năm học 2010-2013
2.8. Chi ngân sách cho Giáo dục và Đào tạo từ năm 2001 đến 201 2
2.9. Tỷ lệ học sinh nhập học đúng độ tuổi theo một số đặc trưng kinh tế xã hội năm 2009
2.10. Số trường Đại học và Cao đẳng có đào tạo CNTT - TT
2.11. Số lao động ngành Công nghiệp CNTT
Mức lương bình quân 1 lao động ngành CN -CNTT
Doanh thu công nghiệp – công nghệ thông tin
2.12. Xuất nhập khẩu CNTT - Truyền thông
2.13. Đơn đăng ký và Giấy chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ cấp từ năm
2002 - 2012
2.14. Bằng độc quyền sáng chế được cấp cho doanh nghiệp VN và Doanh
nghiệp nước ngoài đã đăng ký từ 200 2-2012
2.15. Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp từ năm 200 2 –
2012
2.16. Số thuê bao điện thoại từ năm 200 7 đến 2012
2.17. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng website trong các lĩnh vực hoạt động
năm 2010
2.18.Tỷ lệ ứng dụng phần mềm CNTT và TMĐT của doanh nghiệp năm
2010 - 2012
2.19. Doanh nghiệ p sử dụng phương tiện điện tử để nhận đặt hàng năm
2010 - 2012
2.20. Cơ cấu chi phí CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp
2.21. Doanh số quảng cáo trên Internet tại Việt Nam từ 2006 -2011
2.22. Bảng tăng trưởng kinh tế khối Asean từ năm 2000 – 2010
Việt Nam ra khỏi nước thu nhập thấp
2.23. Thu hút đầu tư của Việt Nam 2000 - 2013
2.24. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 200 0 – 2013
2.25. Quy mô, thu nhập nền kinh tế Việt Nam từ 2000 – 2013
GDP thu nhập đầu người
Tổng sản phẩm trong nước phân theo khu vực kinh tế
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ KINH TẾ TRI THỨC, TOÀN CẦU
HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Quan niệm, đặc trưng, điều kiện hình thành và phát triển nền kinh tế tri
thức
1.1.1. Quan niệm về kinh tế tri thức ……………………….…………........... 16
1.1.2. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức ……… …………………………. ...22
1.1.3. Điều kiện hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức……………… 40
1.2. Quan niệm cơ bản về toàn cầu hóa , hội nhập quốc tế và tác động của
nó đối với quá trình phát triển kinh tế tri thức
1.2.1. Quan niệm cơ bản về toàn cầu hóa …………..…………………………50
1.2.2. Quan niệm cơ bản về hội nhập quốc tế ………………………………...59
1.2.3. Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đối với quá trình phát
triển kinh tế tri thức……………………………………………………………61
Kết luận chương 1………………………………………………………...….71
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT
NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUỐC T Ế
2.1. Thực trạng phát triển Kinh tế tri thức ở Việt Nam
2.1.1.Thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam trong những năm qua………………………………………………75
2.1.2. Hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam …… …..95
2.2. Bài học kinh nghiệm quốc tế
2.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tri thức ở một số nước công nghiệp phát
triển (Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc)………….………………………..106
2.2.2. Bài học vận dụng cho Việt Nam …………………………… ……..… 127
Kết luận chương 2…………………………………………………………..134
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
3.1. Phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
3.1.1. Phương hướng chung ………………………………………………. 137
3.1.2. Nhiệm vụ cụ thể nhằm phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam ………..………………. …………….144
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
3.2.1. Phát triển và nâng cao c hất lượng nguồn nhân lực ……………… .149
3.2.2. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tần g, công nghệ thông tin……… ….155
3.2.3. Hoàn thiện các thể chế kinh tế, hệ thống pháp luật………………......166
3.2.4. Phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới quản lý đối với khoa học và
công nghệ quốc gia, tạo động lực phát triển kinh tê tri thức và sử dụng có hiệu
quả thành tựu của kinh tế tri thức …………………………………………175
Kết luận chương 3………………………………………………...……….. 179
KẾT LUẬN ………………………………………………………………… 181
PHỤ LỤC …………………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO
182
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, nhân loại đã chứng kiến sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện
đại, sự bùng nổ các công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học... đã có tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội, đến nền kinh tế
thế giới, tạo sự phát triển nhảy vọt đối với lực lượng sản xuất , làm thay đổi
mọi lĩnh vực trong đờ i sống kinh tế, văn hóa, xã hội , đưa loài người chuyển
từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức hiện đại trên phạm vi
toàn cầu.
Nền kinh tế thế giới bước sang giai đoạn phát triển mới, trong đó tri
thức, thông tin trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển sản
xuất, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp , đúng
như dự báo của Các Mác trước đây. Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá:
“Đối với các nền kinh tế tiên phong trong nền kinh tế thế giới, cán cân giữa
hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức. Tri thức thực
sự đã trở th ành yếu tố quan trọng nhất quyết định hơn cả yếu tố đất đai, hơn
cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát triển
nhất về công nghệ ngày nay thực sự đã dựa vào tri thức ” [129].
Như vậy, trong nền k inh tế tri thức, tri thức tr ở thành lực lượng sản xuất
quan trọng hàng đầu, t ri thức đã trở thành sản phẩm có giá trị kinh tế cao so
với các sản phẩm vật chất khác vì nó tạo ra giá trị mới ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn hơn trong tổng thu nhập sản phẩm (GDP); tất cả các ngành kinh tế
đều phải dựa vào tri thức, vào những thành tựu mới nhất của khoa học công
nghệ để phát triển. Tri thức khoa học và công nghệ là yêu cầu hàng đ ầu của
người lao động [103, tr. 17]. Sáng tạo và đổi mới là động lực chủ yếu của sự
2
phát triển kinh tế - xã hội. Con người – chủ thể của quá trình sản xuất, họ
vừa nghiên cứu vừa sản xuất, sản phẩm của họ là những phát minh được ứng
dụng ngay vào sản xuất. Tài nguyên là có hạn nhưng năng lực sáng tạo của
con người là vô hạn; một khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào năng lực sáng tạo
của con người, thì khả năng của nền kinh tế là hết sức to lớn.
Từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX, các nước phát triển và đang phát triển
trên thế giới đều quan tâ m nghiên cứu sự ra đời của một nên kinh tế mới –
kinh tế dựa vào tri thức. Các nước phát triển đã có nền công nghiệp hiện đại
với công nghệ thông tin, công nghệ cao và lực lượng lao động trí tuệ cao,
nên việc hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức diễn ra một cách tự
nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế c ao như
Mỹ, Canada, các nước khối EU, Nhật Bản. Các nước đang phát triển có tiềm
năng kinh tế thấp hơn, nhưng họ vẫn được quyền hưởng thụ những thành tựu
khoa học cao, tri thức khoa học của nhân loại. Họ quan tâm, nghiên cứu quá
trình phát triển kinh tế tr i thức của các nước đi trước để có những chính sách
phù hợp nhằm tạo những điều kiện tiền đề để hình thành và thúc đẩy phát
triển nhanh kinh tế tri thức để đuổi kịp các nước đi trước. Việt Nam chúng ta
cũng không ngoại lệ.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hộ i ở nước ta là vấn đề trung tâm của
toàn bộ công tác lý luận của Đảng ta kể từ khi đổi mới đến nay. Luận cương
chính trị của đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) đã xác định,
chúng ta sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản c hủ
nghĩa. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của đảng Cộng sản Việt
Nam, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, cụm từ “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đã được
thay bởi cụm từ “bỏ qua chế độ tư bản” [ 5, tr.13]. Quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cái thiếu nhất của nước ta là cơ sở vật
3
chất - kỹ thuật hiện đại. Vì vậy, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ là phát triển lực lượng sản xuất, là công nghi ệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa được coi là động lực chính để
giúp các nước thoát nghèo và nguy c ơ tụt hậu, đây là con đường tất yếu của
mọi quốc gia, giúp họ phát triển. Từ xuất phát điểm Việt Nam là một nước
nghèo, trên 75% lực lượng lao đ ộng nông nghiệp, với mức thu nhập bình
quân tính theo đầu người vào loại thấp của thế giới; nếu muốn thoát khỏi
hiểm họa tụt hậu xa so với thế giới, tất yếu chúng ta phải tiến hành công
nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa. Hiện đại hóa là quá trình sử dụn g
những thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm lịch
sử để đổi mới toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII và lần thứ IX, Đảng ta đã đề ra đường lối công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Như thế, sự nghiệp công nghiệp
hóa được tiến hành cùng một lúc với hiện đại hóa. Trong quá trình đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta trong ba thập niên qua cho thấy xu
hướng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ảnh hưởng tích
cực và mang lại hiệu quả cao, làm thay đổi diện mạo nền kinh tế ngày càng
sâu rộng. Nhưng công nghiệp hóa trong bối cảnh quốc tế hiện nay chúng ta
không thể rập khuôn mô hình các nướ c đi trước mà phải có sự vận dụng một
cách khéo léo. Chúng ta phải vận dụng mọi thời cơ do toàn cầu hóa mang
lại, đó là những kinh nghiệm và thành tựu khoa học công nghệ hiện đại kết
hợp với năng lực nội sinh để nhanh chóng thực hiện chiến lược rút ngắn qu á
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và k inh tế tri thức – giai đoạn
phát triển mới của lực lượng sản xuất xã hội cũng chính là khả năng để rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước . Điều đó được nêu rõ
trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta tại Đại
4
hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam : “Con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận
dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công
nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức” [33, tr. 91].
Nếu như tại b áo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng Cộng sản Việt Nam dự báo : "Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều
biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt . Kinh tế tri thức
có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất
[33, tr.64 ], thì trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X
lại tiếp tục khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh quốc tế
mới phải gắn với phát triển kinh tế tri thức:“Tranh thủ cơ hội thuận lợi do
bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển mạnh các ngành và sản
phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử
dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của
nhân loại [35, tr.637].
Như vậy, k inh tế tri thức chính là vận hội để ta đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nước ta không thể chần chừ, bỏ lỡ cơ hội lớn đó,
mà phải đi nhanh vào kinh tế tri thức để rút ngắn khoảng cách với các nước
khác. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ:
chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công
nghiệp sang kinh tế tri thức
5
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam diễn ra trong
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hết sức sâu rộng nhưng cũng đầy
phức tạp. Mỗi quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển không thể đứng
ngoài tiến trình và xu thế tất yếu đó, chúng ta cũng không thể khép mình
trong các nếp cũ lạc hậu, lỗi thời. Quá trình toàn cầu hóa một mặt tạo điều
kiện cho các nước có điểm xuất phát thấp tranh thủ nắm bắt những thành quả
khoa học, công nghệ của các quốc gia tiên tiến, đẩy mạnh nhịp độ phát triển,
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội, tích lũy
kinh nghiệm về cách tổ chức và quản lý xã hội theo những tiêu chí tiên tiến
của thời đại, từng bước hội nhập vào tiến trình vận động chung của thế giới;
Mặt khác, tính chất hai mặt và đầy mâu thuẫn của toàn cầu hóa cũng buộc
các quốc gia, các dân tộc đang phát triển phải tìm cho mình một hướng đi và
cách thức phù hợp với các đặc trưng về văn hóa, truyền thống lịch sử và
định hướng chính trị của dân tộc đó để “hòa nhập mà không hòa tan”, vừa
tiếp thu tốt những tinh hoa tri thức, văn hóa nhân loại, vừa bảo tồn và phát
huy bản sắc dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ. Trong bối cảnh quốc tế mới, toàn
cầu hóa gia tăng nhanh chóng, khoa học công nghệ phát triển như “vũ bão”,
kinh tế tri thức đang hình thành và phát triển, nếu nước ta không tận dụng
được thời cơ, phát huy sức mạnh của dân tộc để rút n gắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nước ta sẽ bị tụt hậu rất xa và sẽ không tránh
khỏi sự đe đọa của làn sóng toàn cầu hóa. Vì vậy, trong tiến trình h ội nhập
kinh tế thế giới thì phát triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hóa là đòi hỏi tất yếu đối với nước ta để đi nhanh tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là
cơ hội lớn để chúng ta rút ngắn khoảng cách với các n ước phát triển, nếu có
6
đủ năng lực nội sinh và biết cách hội n hập với nền kinh tế thế giới; Tại Đại
hội toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra lộ trình rõ nét
hơn: “phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa
học, công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước
hết là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng
lực nghiên cứu - ứng dụng gắn nới phát triển nguồn nhân lực”; “Phát huy và
sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai
thác nhiều nhất tri thứ c của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát
triển kinh tế tri thức đến năm 2020 ” [36, tr.79-80].
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ là duy trì được
tốc độ tăng trưởng cao, ổn định; xây dựng được thể chế kinh tế thị trường,
tạo thuận lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, từng bước hình
thành kết cấu hạ tầng then chốt cho kinh tế tri thức. Tuy nhiên, vẫn còn một
số mặt hạn chế như , nền kinh tế nước ta đang còn dựa chủ yếu vào tài
nguyên và lao động , năng suất thấp, giá trị do tri thức tạo ra không đáng kể.
Chỉ số phát triển kinh tế tri thức (KEI) theo đánh giá của Ngân hàng thế
giới, năm 2012 xếp thứ 104 trong 146 nước có tham gia đánh giá, thuộc
nhóm trung bình thấp của thế giới; Chất lượng giáo dục, tuy có những tiến
bộ đáng kể so với năm trước nhưng vẫn chỉ được xếp ở nhóm trung bình
thấp; Năng lực cạnh tranh năm 2011 chúng ta bị giảm 6 bậc; số lượng ấn
phẩm khoa học của Việt Nam từ năm 2001 đến 2010 là 8.220, trong khi đó
Malaysia là 21.203, Thái Lan là 28.148, gấp ba lần Việt Nam và, Singapore
là 56.101, gấp sáu lần Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục có những giải pháp phát triển kinh tế tri thức
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đưa Việt
Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
7
2020, bắt kịp sự phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Kinh
tế tri thức vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc xây dựng xã hội
mới. Tuy nhiên, chúng ta không thể rập khuôn theo con đường các nước
phát triển TBCN đã đi, mà chúng ta phải có mô hình, bước đi riêng, phù hợp
hoàn cảnh, đặc điểm; luôn luôn kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát
triển con người, phát triển văn hoá, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ,
khắc phục các mặt trái của kinh tế thị trường và toàn cầu hoá. Thực hiện lời
dạy của Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội với khoa học, chắc chắc sẽ đưa
loài người đến hạnh phúc vô tận”[74, tr.131], chúng ta phải biết kết hợp sức
mạnh của thời đại và sức mạnh của dân tộc, phát huy ý chí và tiềm năng trí
tuệ Việt Nam, nắm bắt khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế tri thức để
nhanh chóng thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh.
Chính vì những lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài Phát triển kinh tế tri thức
ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay để
làm đề tài luận án tiến sĩ triết học cho mình.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức đã thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà lãnh đạo và các nhà khoa học trong nước và trên thế giới.
Đồng thời, đã đặt nó trong chiến lược phát triển chung của đất nước. Có thể
khái quát tình hình nghiên cứu đề tài này theo hai nhóm chủ đề lớn :
Nhóm chủ đề thứ nhất, các công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức,
cụ thể như t rong những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, trước Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Khoa học Công nghệ
và Môi trường cùng với Bộ Ngoại giao phối hợp tổ chức Hội thả o cấp quốc
gia về Nền kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam. Hội
thảo có sự tham dự của 153 đại biểu và 20 Bộ, ngành , với 25 đề tài nghiên
8
cứu của các nhà khoa học về kinh tế tri thức được đăng trong 2 tập Kỷ yếu
Hội thảo khoa học kinh tế tri thức; các đề tài trình bày trong hội thảo đã
được các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ khái niệm, bản chất,
xu hướng phát triển của kinh tế tri thức, những tác động về kinh tế, xã hội,
những thời cơ, thách thức và những vấn đề đặt ra đối v ới Việt Nam trước xu
thế phát triển của kinh tế tri thức, trên cơ sở đó đề xuất những vấn đề chiến
lược phát triển đất nước trong giai đoạn tới.
Để cung cấp thêm tài liệu tham khảo về kinh tế tri thức, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia phối hợp với một số cơ quan nghiên cứu về Trung
Quốc đã dịch, xuất bản cuốn sách Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội
thế kỷ XXI, do GS.TS. Ngô Quý Tùng biên soạn. Nội dung đề cập đến nguồn
gốc, nội hàm và đặc điểm của kinh tế tri thức, xu thế mới – tri thức hóa kinh
tế thế giới, công nghệ kỹ thuật cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ năng lượng mới...và mối quan hệ kinh tế tri thức với vấn đề
phát triển bền vững; mối quan hệ tri thức với các ngành khoa học, kỹ thuật,
giáo dục, tài nguyên, môi trường...
Trong một số các công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức đã in
thành sách, nổi bật có cuốn Khoa học và công nghệ với sự phát triển kinh tế
xã hội (2004), Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội và Kinh tế tri thức, thời cơ và
thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam (2004), Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia – Hà Nội của GS. Đặng Hữu; đây là công trình nghiên cứu khoa
học công phu và có giá trị, với những luận chứng súc tích, cuốn sách đã giới
thiệu khái niệm, đặc trưng, lịch sử hình thành và phát triển của nền kinh tế
tri thức. Đồng thời tác giả cũng đưa ra những định hướng và các giải pháp
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
9
Cuốn Kinh tế tri thức ở Việt Nam, quan điểm và giải pháp phát triển
(2004), nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật - Hà Nội của TS. Vũ Trọng Lâm
đã hệ thống hóa bước đầu những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế tri
thức, phân tích những kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế tri thức ở
một số nước trên thế giới, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam về phát triển kinh tế tri thức.
Năm 2004, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn Phát triển
kinh tế tri thức, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam của GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn, tác giả đã làm rõ sự cần thiết và khả
năng phát triển kinh tế tri thức để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta, tác giả cũng đề cập đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực,
phát triển khoa học, công nghệ, huy động nguồn lực tài chính và mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế.
Một công trình nghiên cứu của tập thể tác giả do GS.TSKH. Vũ Đình
Cự và PGS.TS. Trần Xuân Sâm, đồng chủ biên, được Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản năm 2006 có tên là: Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri
thức đã góp phần làm rõ hơn những quan điểm về kinh tế tri thức, giúp cho
các nhà khoa học, nhà nghiên cứu có được cái nhìn khái quát về sự tiến bộ
của lực lượng sản xuất hiện nay cũng như ảnh hưởng của nó đến sự phát
triển của kinh tế tri thức.
Trong cuốn “Kinh tế tri thức – Những khái niệm và vấn đề cơ bản ’’
được Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội xuất bản năm 2002, tác giả Đặng
Mộng Lân – một chuyên gia trong lĩnh vực thông tin, dự báo khoa học và
công nghệ, đã tập trung nhấn mạnh vai trò của kiến thức ngầm trong sự phát
triển kinh tế tri thức. Tác giả phân tích sự xuất hiện kinh tế tri thức trong nền
kinh tế các nước công nghiệp phát triển nói riêng và nền kinh tế thế giới nói
chung.
10
Cuốn Thời đại Kinh tế tri thức của tác giả Tần Ngôn Trước, được nhà
xuất bản Thanh niên xuất bản năm 2002, đã cung cấp một số nội dung về
kinh tế tri thức, kinh tế tri thức không chỉ làm cho sản xuất vật chất trong xã
hội gia tăng nhanh chóng mà còn làm cho đời sống tinh thần xã hội được mở
rộng và phát triển không ngừng; Thông tin và tri thức là yế u tố đầu vào của
hệ thống sản xuất và quản lý, chìa khóa của phồn thịnh và an ninh quốc gia.
Cùng với đó, công trình nghiên cứu khoa học của tập thể tác giả do
TS. Lưu Ngọc Trinh chủ biên được Nhà xuất bản giáo dục xuất bản năm
2002: Bước chuyển sang nền k inh tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện
nay, đã phân tích những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức, mô tả chi
tiết thực tế và thực trạng của các nền kinh tế tri thức của các quốc gia phát
triển như Mỹ, Nhật Bản, Trung quốc, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Hàn quốc;
Hệ thống hóa những bước đi hay chính sách chủ yếu để tiếp cận và xây dựng
nền kinh tế tri thức của các quốc gia đó.
TS. Trần Văn Tùng cũng đã đưa ra các khái niệm, đặc điểm và quá
trình hình thành, ý nghĩa của tri thức trong cuốn Nền Kinh tế tri thức và yêu
cầu đổi mới giáo dục Việt Nam. Với sáu chương, 216 trang, tác giả trình bày
chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thông tin của các nước công
nghiệp, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trên cơ sở đó vạch ra hướng
phát triển giáo dục ở Việt Nam trong điều kiện và hoàn cảnh mới.
Tập thể tác giả GS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền, PGS.TS. Đào Duy
Huân, TS. Lương Minh Cừ với công trình nghiên cứu Hướng đến nền kinh
tế tri thức ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê (2003), đã mô tả về nền kinh
tế tri thức một cách có hệ thống, quá trình hình thành, phát triển, thực trạng
xã hội Việt Nam trên con đường tiến tới nền kinh tế tri thức và các giải pháp
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
11
Ngoài ra, còn nhiều các công trình nghiên cứu của các tác gi ả khác về
những vấn đề liên quan đến kinh tế tri th ức, phát triển kinh tế tri thức như
công trình nghiên cứu của Vương Liêm: Kinh tế tri thức với công cuộc phát
triển ở Việt Nam (2002), nhà xuất bản Thanh niên; TS. Nguyễn Thị Luyến
(chủ biên) Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu
hóa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2005); Trần Cao Sơn, Môi
trường xã hội nền kinh tế tri thức – những nguyên lý căn bản , Nhà xuất bản
Khoa học – xã hội (2004). Trong các công trình này, các tác giả cũng đã làm
rõ các quan niệm về kinh tế tri thức, đặc trưng của kinh tế tri thức, các mục
tiêu, nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế tri thức trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Gần đây nhất, có luận án Phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của
Nguyễn Sơn Hoa thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị.
Nhìn chung, các đề tài về Kinh tế tri thức được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau, trong đó có một số đề tài khoa học cấp nhà nước,
có đề tài nghiên cứu ở bậc Nghiên cứu sinh, Cao học, và có nhiều chuyên đề,
bài viết của các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực này. Ngoài ra còn
có các số liệu của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB) đánh giá về các chỉ số phát triển của Việt Nam dưới góc độ so sánh
với một số nước trong khu vực, những nghiên cứu đó rất có giá trị để chúng
tôi, người đi sau kế thừa và phát triển.
Nhóm chủ đề thứ hai, là các công trình nghiên cứu khoa học về toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế:
Trước hết phải kể đến, cuốn Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế
quốc tế (2004) của Bộ Thương mại gồm 6 chuyên đề, 272 trang do các Giáo
sư, Tiến sỹ, các chuyên gia có nhiều năm công tác về lĩnh vực hội nhập quốc
tế biên soạn, biên tập và được Bộ Thương mại nghiệ m thu. Các chuyên đề
- Xem thêm -