ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KHOA HOÏC XAÕ HOÄI VAØ NHAÂN VAÊN
CÔNG THỊ PHƢƠNG NGA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016
ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KHOA HOÏC XAÕ HOÄI VAØ NHAÂN VAÊN
CÔNG THỊ PHƢƠNG NGA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.80.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA
2. TS. TRẦN VĂN KHÁNH
Phản biện độc lập:
1. PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
2. PGS.TS. NGUYỄN THANH
Phản biện:
1. PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
2. PGS.TS.TRƢƠNG VĂN CHUNG
3. PGS.TS. NGUYỄN THANH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa và TS. Trần Văn Khánh. Nội dung kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực. Các tài liệu sử dụng
đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Người thực hiện
Công Thị Phương Nga
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
APEC
:
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-TBD
ASEAN
:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BCVT
:
Bưu chính viễn thông
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH
:
Chủ nghĩa xã hội
CNTT
:
Công nghệ thông tin
CTQG
:
Chính trị quốc gia
GCI
:
Chỉ số cạnh tranh quốc gia
GDP
:
Tổng sản phẩm quốc nội
GD-ĐT
:
Giáo dục - đào tạo
HDI
:
Chỉ số phát triển con người
ITC
:
Công nghệ thông tin và truyền thông
KEI
:
Chỉ số kinh tế tri thức
KI
:
Chỉ số tri thức
KH-CN
:
Khoa học - công nghệ
KTTT
:
Kinh tế tri thức
KT-XH
:
Kinh tế - xã hội
LLSX
:
Lực lượng sản xuất
Nxb
:
Nhà xuất bản
NICs
:
Nước công nghiệp mới
(Newly Industrialized Country)
NLSH
:
Nhiên liệu sinh học
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
ODA
:
Quỹ hỗ trợ phát triển tri thức
OECD
:
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
R&D
:
Nghiên cứu và phát triển
TMĐT
:
Thương mại điện tử
WB
:
Ngân hàng thế giới
WTO
:
Tổ chức thương mại thế giới
PCI
:
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 1: So sánh đặc điểm cơ bản của ba nền kinh tế
Bảng 2: Thu nhập bình quân đầu người/tháng trên địa bàn tp. Hồ Chí Minh
Bảng 3: Tốc độ tăng GDP trên địa bàn TP.HCM chia theo khu vực kinh tế
giai đoạn 2000-2011 (tính theo giá so sánh 1994)
Bảng 4: Tốc độ tăng GDP trên địa bàn TP.HCM chia theo ngành kinh tế giai
đoạn 2000-2011 (tính theo giá so sánh 1994)
Bảng 5: Phân bố lực lượng cán bộ Khoa học và Công nghệ theo lĩnh vực
hoạt động
Bảng 6: Phân bố lực lượng KHKT với trình độ khác nhau theo lĩnh vực hoạt động
Bảng 7: Phân bố lao động KH & CN ở 4 lĩnh vực sản xuất trọng điểm
Bảng 8: Tỷ lệ doanh nghiệp ở các mức đánh giá trình độ công nghệ
Bảng 9: So sánh các mức trình độ công nghệ giữa 2 loại hình đầu tư trong và
ngoài nước
Bảng 10: Trình độ của các thiết bị sản xuất chính của doanh nghiệp
Bảng 11: Trình độ công nghệ của 4 nhóm ngành công nghiệp trọng điểm
Bảng 12: Nhu cầu nhân lực 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2014-2015, xu hướng đến 2020-2025
Bảng 13: Nhu cầu nhân lực 9 nhóm ngành dịch vụ thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn 2014-2015, xu hướng đến 2020-2025
Bảng 14: Nhu cầu ngành nghề khác thu hút nhiều lao động thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2014-2015, xu hướng đến 2020-2025
Bảng 15: Nhu cầu trình độ nghề thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 20142015, xu hướng đến 2020-2025
Hình 1: Đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức
Hình 2: Các trụ cột của kinh tế tri thức
Hình 3: Bản đồ PCI năm 2014
Hình 4: Bảng xếp hạng PCI năm 2013
Hình 5: bảng xếp hạng PCI năm 2014
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM ..................................................... 18
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC ............................................ 18
1.1.1. Quan niệm về kinh tế tri thức ............................................................. 18
1.1.2. Những đặc trưng và tiêu chí cơ bản của kinh tế tri thức..................... 34
1.2. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM............................................................... 46
1.2.1. Sự cần thiết phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ...................................................................... 46
1.2.2. Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh
tế tri thức ....................................................................................................... 51
1.2.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới......63
Kết luận chƣơng 1 ....................................................................................... 66
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................. 68
2.1. ĐIỀU KIỆN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TRI THỨC................................................................................................ 68
2.1.1. Điều kiện địa lý – tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí
Minh trong quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức .................. 68
2.1.2. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh
trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ...................................................... 75
2.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHỮNG YẾU TỐ TRỤ CỘT CỦA KINH TẾ TRI
THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA......................................................................................91
2.2.1. Xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng khoa học - công nghệ ........ 91
2.2.2. Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Hồ Chí Minh để
phát triển kinh tế tri thức ............................................................................. 105
2.2.3. Phát triển khoa học - công nghệ ở thành phố Hồ Chí Minh ................ 131
2.2.4. Hệ thống thể chế - pháp luật để phát triển thị trường tri thức khoa học
ở thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................... 140
2.3. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................................................... 157
2.3.1. Những thành tựu đạt được ................................................................ 157
2.3.2. Những hạn chế của sự phát triển kinh tế tri thức ở thành phố .......... 161
2.3.3. Những vấn đề cần giải quyết để phát triển kinh tế tri thức
ở thành phố ........................................................................................... 170
Kết luận chƣơng 2 ..................................................................................... 172
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ............................................... 175
3.1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ............ 175
3.1.1. Phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh và
bền vững ..................................................................................................... 175
3.1.2. Vận dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới để hiện đại hóa
các yếu tố của quá trình sản xuất xã hội ..................................................... 179
3.1.3. Phát triển kinh tế tri thức để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh....................................................... 181
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................ 185
3.3.1. Khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh và các nguồn lực
để phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững ......................................... 185
3.2.2. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ................................................ 190
3.2.3. Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông
như mũi nhọn đột phá vào kinh tế tri thức .................................................. 199
3.2.4. Tăng cường năng lực khoa học công nghệ nhằm đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ............... 203
3.2.5. Thực hiện cải cách hành chính gắn với mục tiêu là xây dựng mô hình
chính quyền đô thị trong sạch, vững mạnh và chuyên nghiệp.................... 218
Kết luận chƣơng 3 ..................................................................................... 224
KẾT LUẬN ................................................................................................ 227
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 231
PHỤ LỤC .................................................................................................. 243
NHỮNG DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................... 255
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mỗi giai đoạn phát triển, con người có những cách thức riêng để
sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của mình. Yếu tố giữ vai trò
quyết định làm cho cách thức sản xuất thay đổi, đưa loài người phát triển đó
là lực lượng sản xuất. C. Mác đã từng nói: “những quan hệ xã hội đều gắn
liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng
sản xuất mới loài người đã thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do
đó thay đổi phương thức sản xuất, cách thức kiếm sống của mình, loài người
thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình”. Lực lượng sản xuất chính là
kết quả của năng lực thực tiễn của con người đạt được trong mỗi giai đoạn
lịch sử. Như thế, cũng có thể nói, quá trình phát triển của xã hội loài người
gắn liền với hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
Trong quá trình cải tạo tự nhiên - xã hội, tri thức được sản sinh, phát triển,
phổ biến và ứng dụng ngày càng rộng rãi, tri thức khoa học trở thành động
lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển nhảy vọt của khoa
học công nghệ làm xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực lao động chủ yếu
dựa vào tri thức. Tri thức có vai trò to lớn đối với việc tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Phát triển kinh tế dựa trên tri thức sẽ
tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm
bớt nặng nhọc trong lao động. Hàm lượng tri thức trong toàn bộ quá trình sản
xuất cũng như kết tinh trong sản phẩm ngày càng lớn, tri thức ngày càng trở
thành động lực thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội…Từ đây, kinh tế
tri thức ra đời. Đó là nền kinh tế dựa vào tri thức khoa học nhiều hơn dựa
vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp.
2
Kinh tế tri thức là một hiện tượng mới xuất hiện từ cuối thế kỷ XX trở
lại đây, nhưng đã có những bước tiến khá nhanh ở các nước phát triển và
đang ảnh hưởng tới tất cả các quốc gia khác trên thế giới. Kinh tế tri thức là
giai đoạn mới của sự phát triển lực lượng sản xuất, đây là thời cơ nhưng
cũng là thách thức đối với sự phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Dù
con đường đó không phải dễ dàng, nhưng đó là cơ hội để có những sự phát
triển bứt phá, rút ngắn quá trình CNH, HĐH. Ngày nay, nhiều quốc gia trên
thế giới có chiến lược phát triển kinh tế tri thức theo những cách thức riêng
phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình. Các nước phát triển tập hợp,
thu hút lao động trí tuệ, thành tựu khoa học công nghệ ở nhiều nước, nghiên
cứu sâu vào lĩnh vực năng lượng mới, vật liệu mới, hoá sinh học, khám phá
vũ trụ… Để phát triển nền kinh tế, các nước đang phát triển đứng trước hai
khả năng: hoặc là tranh thủ được thời cơ và có đường lối, chiến lược phát
triển đúng, sáng tạo thì hoàn toàn có thể vươn lên, sớm khắc phục tình trạng
chậm phát triển để tiến kịp các nước đi trước, còn nếu không nắm lấy được
thời cơ thì sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn.
Xuất phát từ thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta chỉ rõ: “Con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước,
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của
đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều
hơn ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công
nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức” [30, tr.546].
Qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Từ một nền kinh tế nông
3
nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, đã xây dựng được cơ sở vật
chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh; thu nhập đầu
người vượt khỏi ngưỡng thu nhập thấp, đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng
kém phát triển, trở thành nước phát triển có thu nhập trung bình. Tuy nhiên,
hiệu quả, chất lượng, tính cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chưa theo kịp
các nước trong khu vực và chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế vẫn còn đó. Vì vậy, đối với nước ta
hiện nay, để thực hiện thành công đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và có bước phát triển “rút ngắn”, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phát huy
những lợi thế vốn có của đất nước, tận dụng tối đa mọi cơ hội, mọi khả năng
có thể có để nhanh chóng đạt trình độ công nghệ tiên tiến; tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu
mới về khoa học và công nghệ, “từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Có
thể nói rằng kinh tế tri thức chính là thời cơ rất thuận lợi để Việt Nam “đi tắt
đón đầu”, từng bước thu hẹp khoảng cách, đuổi kịp các nước phát triển trên
thế giới. Chúng ta cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, gắn với phát triển
kinh tế tri thức, “hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên
tiến của khoa học - công nghệ thế giới” [30, tr.295]. Điều đó có nghĩa là vừa
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ sức mạnh của cả
dân tộc với sức mạnh thời đại, tận dụng mọi nguồn lực bên trong và bên
ngoài, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt
Nam; lấy phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền
tảng, động lực cho sự phát triển nhanh, có hiệu quả, bền vững.
Trên con đường phát triển cùng cả nước, với sự nỗ lực phấn đấu của
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố, thành phố Hồ Chí Minh đã đạt
4
được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện. Vị thế, vai trò của thành
phố đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước ngày càng được
khẳng định. Thành phố là một đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế,
văn hóa – giáo dục, khoa học – công nghệ của cả nước, đầu mối giao lưu và
hội nhập quốc tế. Sự phát triển của thành phố là đầu tàu, động lực, có sức thu
hút và lan tỏa lớn của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng như trong cả
nước. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và yêu cầu đặt ra
đối với thành phố, qui hoạch và quản lý đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển, cản trở sự phát triển kinh tế. Chất lượng giáo dục - đào tạo và nguồn
nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển, hội nhập của thành phố;
khoa học - công nghệ chưa thật sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội... Để thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển nhanh, bền vững với chất
lượng và tốc độ cao, “làm tốt vai trò đầu tàu của Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam; đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa...tạo sức
lan tỏa, giúp đỡ các tỉnh, thành phố khác phát triển” [36, tr.79]; để xây dựng
thành phố Hồ Chí Minh trở thành một thành phố xã hội chủ nghĩa, văn minh,
hiện đại, đóng góp ngày càng lớn với khu vực và cả nước, chúng ta càng cần
phải quan tâm nhiều hơn nữa về phát triển kinh tế tri thức. Thành phố cần
sớm có một chiến lược, một định hướng phát triển toàn diện kinh tế tri thức
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài “Phát triển kinh tế tri thức ở
thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
làm luận án tiến sĩ chuyên ngành triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài:
Kinh tế tri thức mới xuất hiện trong những thập niên gần đây, nhưng là
chủ đề ngày càng được nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng như trong
5
nước quan tâm nghiên cứu. Cuốn “The Knowledge Economy” (Nxb.
Butterworth Heinemann, 1998), Dale Neef (chủ biên), gồm các bài viết của
các chuyên gia nổi tiếng thế giới nói về sự xuất hiện của kinh tế tri thức và
những tác động của nó đối với sự phát triển của xã hội. Trong đó, các tác giả
đã khẳng định: tri thức là một sức mạnh kinh tế tạo ra tăng trưởng và thay
đổi [51, tr.20]. Cuốn sách là tập hợp các bài báo đề cập tới rất nhiều vấn đề
có ý nghĩa thực tiễn trong nền kinh tế tri thức như sự thay đổi từ việc sử
dụng lao động cơ bắp sang sử dụng bộ não. Điều này làm cho các ngành tăng
trưởng nhanh nhất trong thập kỷ 90 tới nay là các ngành dựa trên sức mạnh
của trí não như: vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghiệp vật liệu mới, vô
tuyến viễn thông, máy công cụ và rô-bốt, máy điện toán…Từ việc phân tích
sự ảnh hưởng của kinh tế tri thức tới quá trình phát triển xã hội, tác giả đã
khẳng định, trong kinh tế tri thức, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học &
công nghệ, viễn thông, thông qua quá trình toàn cầu hóa, các nền kinh tế trên
thế giới xích lại gần nhau hơn.
Bài thuyết trình “Chính sách công cho một nền kinh tế tri thức” Joseph
Stiglitz (Luân Đôn, Vương quốc Anh, 27/11/1999) nhấn mạnh vai trò của
Chính phủ trong việc đưa ra những chính sách dẫn đến sự thành công của
kinh tế tri thức, từ đó gợi ý về những chính sách công để xây dựng nền kinh
tế tri thức cho các nước khác xem xét, nghiên cứu.
Bộ tài liệu “Khoa học, công nghệ và công nghiệp của tổ chức OECD:
bảng ghi điểm năm 1999 – Vạch mức cho các nền kinh tế dựa trên tri thức”,
ngày 24/9/1999, đã đưa ra những thách thức của toàn cầu hóa và xem xét sức
canh tranh của nền kinh tế tri thức, đặc biệt trong các nước OECD.
Cuốn “Thế giới phẳng” của Thomas L.Fiedman, Nxb. Khoa học xã hội,
2005 (Nguyễn Quang A dịch) trong một thế giới mà sự giàu có của các quốc
gia phụ thuộc vào tầm nhìn toàn cầu, vào trí tuệ, vào khoa học và công nghệ,
6
nhất là công nghệ thông tin, năng lực quản trị & kinh doanh, do sự tác động
của “10 lực” làm “phẳng” thế giới, một loạt “những thách thức phi truyền
thống” đòi hỏi mỗi quốc gia phải biết cách lựa chọn những cơ hội và vượt
qua những thách thức đó để có thể phát triển.
Cuốn “The third wave (Làn sóng thứ ba)” của Alvin Tofler, Nxb.
Thông tin lý luận, 1991, (người dịch Nguyễn Văn Trung) đã lý giải những
biến đổi sâu rộng đang diễn ra trên khắp thế giới, trong mọi lĩnh vực. Đặc
biệt, những biến đổi mang tính cách mạng trong khoa học – kỹ thuật và xã
hội hiện đại, ảnh hưởng của nó trong việc xây dựng một nền văn minh tương
lai. Sự phát triển của vi tính, thông tin là một trong những cơ sở của nền kinh
tế tương lai mà làn sóng thứ ba đã đề cập tới.
Ở trong nước, vấn đề kinh tế tri thức đã được nghiên cứu, tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Có thể khái quát lại theo những chủ đề sau:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về nền kinh tế mới - kinh tế tri
thức là xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người.
Một loạt các cuộc Hội thảo khoa học có tính chất “khai sơn, phá thạch”,
đã được tổ chức, nghiên cứu và đặt ra vấn đề hướng Việt Nam tiến vào nền
kinh tế tri thức.
Hội thảo “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” do
Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ Khoa học, Công nghệ và môi trường, Bộ
Ngoại giao đã phối hợp tổ chức tại Hà Nội (năm 2000). Hội thảo tập trung
thảo luận về sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, sự bùng nổ các công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học…đang tạo ra những biến đổi về chất chưa từng có trong lực
lượng sản xuất, đưa nhân loại từng bước quá độ sang một trình độ văn minh
mới “văn minh trí tuệ”, mà nội dung chủ yếu của nó là nền kinh tế tri thức.
Đó là xu thế tất yếu của quá trình phát triển sức sản xuất, là thành tựu quan
7
trọng của loài người mà chúng ta phải nắm lấy, tiếp thu và vận dụng. Các
nhà nghiên cứu đã lý giải và từ những góc độ khác nhau đưa ra những đề
xuất về chủ trương, giải pháp nhằm đưa nước ta nhanh chóng tiếp cận với
nền kinh tế tri thức. Các nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam đã khẳng định
kinh tế tri thức là con đường ngắn nhất giúp Việt Nam đuổi kịp các nước
phát triển. Tuy nhiên, trong Kỷ yếu tổng kết của Hội thảo cho thấy còn nhiều
vấn đề lý luận cần phải được nghiên cứu kỹ thêm, nhiều nội dung mang tính
học thuật cần phải được thảo luận sâu sắc và đầy đủ hơn.
Hội thảo “Kinh tế tri thức - cơ hội và bước đi ở thành phố Hồ Chí
Minh” (Ban Tư tưởng Văn hóa thành ủy và Liên hiệp Hội khoa học và kỹ
thuật thành phố tổ chức – năm 2000). Khác với những cuộc hội thảo về kinh
tế tri thức được bàn tới trước đó, Hội thảo này của thành phố không đi sâu
vào phân tích lý luận chung, mà tập trung phân tích những ngành, những lĩnh
vực công nghệ, những sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao hoặc
những ngành truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ có nhiều
điều kiện và khả năng phát triển “bứt phá” tiếp cận kinh tế tri thức. Hội thảo
cũng tập trung thảo luận, đề xuất các giải pháp cơ chế, chính sách, nhằm phát
huy tối đa tiềm lực trí tuệ của các nhà khoa học, quản lý, doanh nghiệp trên
địa bàn, trong đó có khai thác tri thức Việt Kiều để thúc đẩy nhanh quá trình
hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh
Sau một thời gian thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, đến năm 2010, Việt nam đã tổ chức cuộc Hội thảo rất
lớn về “Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Tại Hội thảo, những vấn đề liên
quan tới kinh tế tri thức ở Việt nam như điều kiện, tiền đề, giải pháp để phát
triển kinh tế tri thức được đề cập cụ thể. Các nhà nghiên cứu khẳng định, để
phát triển kinh tế tri thức cần phải giải quyết hai điểm “nghẽn”, đó là đào tạo
8
nguồn nhân lực chất lượng cao cùng với việc nâng cao hiệu quả hoạt động
của khoa học và công nghệ. Cũng trong Hội thảo này, GS.VS. Đặng Hữu
cũng đưa ra 4 trụ cột để có thể phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Hội thảo khoa học “Phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020” (Đề tài
khoa học cấp nhà nước, mã số: 05-2012/ ĐTĐL do GS.VS. Đặng Hữu làm
chủ nhiệm - tháng 2 năm 2014). Đa số các báo cáo của Hội thảo tập trung
bàn về những định hướng chủ yếu, lộ trình cụ thể để phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam tới năm 2020, 2030, phấn đấu đến khoảng năm 2050 Việt
nam trở thành nước công nghiệp phát triển, vượt qua được bẫy thu nhập
trung bình, kinh tế tri thức đạt được mức khá của thế giới lúc đó.
Liên quan tới đề tài, còn có các công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được
in thành sách như: “Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát
triển và những vấn đề đặt ra với Việt Nam” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội,
2004), “ ướng đến nền inh tế tri thức ở iệt Nam” (Nxb. Thống kê, Hà
Nội, 2003); “Kinh tế tri thức ở Việt Nam - quan điểm và giải pháp phát
triển” (Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà nội, năm 2004).
Qua công trình nghiên cứu của các nhà khoa học và thực tiễn phát triển
của kinh tế tri thức trên thế giới cho thấy rằng, kinh tế tri thức xuất hiện
chính là do loài người đã có sự nhận thức nhảy vọt về chất đối với tri thức.
Vì vậy, khi nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức
thì hầu hết các nhà lý luận đều bắt đầu khảo sát vai trò của tri thức, của cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát triển công nghệ thông
tin đối với sự biến đổi kinh tế ở các nước đang phát triển.
Về vai trò của tri thức khoa học, đã được TS. Trần Hồng Lưu nghiên
cứu trong công trình “Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
nội, năm 2009). Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản
9
Việt Nam đã xác định nhiệm vụ phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp. Chúng ta cần nhanh chóng tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, chúng
ta không thể đi theo con đường truyền thống kéo dài hàng trăm năm như các
nước đi trước mà phải biết kết hợp hợp lý giữa bước tuần tự với bước nhảy
vọt, mạnh dạn “Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” đó cũng chính là công trình nghiên cứu công
phu của TS. Nguyễn Kế Tuấn (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004). Trong
đó, tác giả đã khẳng định mối liên hệ không thể tách rời quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức ở Việt nam hiện nay.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác về
những vấn đề liên quan tới việc phát triển kinh tế tri thức như:
Trần Văn Tùng với “Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục
Việt Nam” (Nxb. Thế giới, năm 2001); GS.Văn Tạo với công trình “Đổi mới
tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công nhân trí thức”, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà nội, năm 2008); Lưu Ngọc Trịnh - chủ biên với “Bước
chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay” (Nxb.
Giáo dục, Hà nội, năm 2002)
Luận án đã tham khảo và kế thừa có chọn lọc một số nghiên cứu được
đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Triết học, Tạp chí Thông tin
Khoa học Xã hội, Tạp chí Phát triển nhân lực...như: “Thực trạng phát triển
kinh tế tri thức ở nước ta sau 20 năm đổi mới” của Nguyễn Quang, (Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 2, năm 2010); “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam” (Tạp chí Cộng sản, số 9, năm
2012), “Việt Nam và vấn đề xây dựng nền kinh tế tri thức”, Lương Minh Cừ,
(Tạp chí Khoa học xã hội, số 8, năm 2007), “Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát
10
triển kinh tế tri thức” của Nguyễn Văn Sơn, “Trí thức hóa công nhân Việt
Nam” của Phạm Ngọc Dũng; “Thực trạng đội ngũ trí thức thành phố Hồ Chí
Minh trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa” của Vũ Đức Khiển,
(Tạp chí Phát triển nhân lực, số 2, năm 2013); “Khoa học và công nghệ với
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” của Lê Thị Thu Huyền, (Tạp
chí Phát triển nhân lực, số 6 (37), năm 2013)...
Kinh tế tri thức đã được các nhà nghiên cứu, khoa học xem xét, đề cập
một cách toàn diện, có hệ thống và tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Đặc
biệt gần đây có các công trình đang tiếp tục nghiên cứu để đẩy nhanh sự
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam như: đề tài khoa học cấp nhà nước
của Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu (đang nghiên cứu), cuốn sách “Phát triển
kinh tế tri thức trên địa bàn Hà nội” của Viện nghiên cứu phát triển Kinh tế
- xã hội Hà Nội do TS. Nguyễn Đình Dương và TS. Nguyễn Thành Công
chủ biên, (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012). Ngoài ra, còn có rất
nhiều công trình nghiên cứu bậc cao học, nghiên cứu sinh, các bài viết khoa
học cũng nghiên cứu về những vấn đề liên quan tới việc phát triển kinh tế
tri thức. Một số luận án của các nhà nghiên cứu liên quan đến phát triển
kinh tế tri thức như: vai trò của tri thức khoa học ...Nguyễn Thị Ngọc Thùy,
luận văn thạc sĩ năm 2008, “Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa và Hội nhập quốc tế hiện nay” của Nguyễn Thị Ngọc
Hương, luận án tiến sĩ triết học, năm 2013; phát triển nguồn nhân lực ở thành
phố Hồ Chí Minh của luận án tiến sĩ triết học, năm 2013; “Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng”,
Vương Phương Hoa, luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2014
Đó là những nghiên cứu khoa học rất hữu ích để tác giả luận án tham
khảo, kế thừa và phát triển.
11
Thứ hai, những công trình nghiên cứu liên quan tới môi trường phát
triển kinh tế tri thức và các yếu tố trụ cột để vận hành nền kinh tế tri thức.
Cuốn “Môi trường xã hội nền kinh tế tri thức – những nguyên lý cơ
bản” của PGS.TS Trần Cao Sơn, xuất bản năm 2004, phân tích về môi
trường xã hội cho sự phát triển kinh tế tri thức, tác giả đã rút ra những
nguyên lý cơ bản để kinh tế tri thức có thể hoạt động và phát triển được, từ
đó đề xuất việc xây dựng môi trường xã hội cho nền kinh tế tri thức ở nước
ta. Đây là một nghiên cứu lý luận về môi trường xã hội cho nền kinh tế tri
thức ở Việt nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Cuốn “Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức” do GS.TSKH Vũ
Đình Cự và PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia năm
2006, Hà nội), đã khái quát một cách hệ thống sự phát triển của lực lượng
sản xuất hiện nay cũng như những ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của
nền kinh tế tri thức. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại giữa
thế kỷ XX đã làm xuất hiện các công nghệ hoàn toàn mới (được gọi là công
nghệ cao) chính là nòng cốt của lực lượng sản xuất mới. Cuốn “Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam (một số vấn đề lý luận và thực tiễn)” của TS. Lê Thị Hồng
Điệp (Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2012) đã nghiên cứu một cách hệ
thống về lý luận cũng như thực tiễn việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt nam. Tác giả đã đưa ra những tiêu chí đánh giá, các yếu tố
tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ sự phân tích
cụ thể thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao tác giả đã tìm ra được điểm
nhấn, chìa khóa để có được bước nhảy thực sự trong phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, đó chính là mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng, đặc
biệt là đào tạo ở bậc đại học, nhằm tạo động lực quan trọng cho quá trình xây
dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Đây là một công trình nghiên cứu
- Xem thêm -