Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển khoa học công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,...

Tài liệu Phát triển khoa học công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở hà nội hiện nay

.DOC
93
453
146

Mô tả:

1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, khoa học - công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ cả bề rộng và chiều sâu, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người. Nắm bắt cơ hội đó, nhiều nước trên thế giới đã nhanh chóng ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ vào phát triển nông nghiệp, nông thôn nên đã đạt được những thành tựu to lớn. Hiện tại, Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn và 2/3 dân số sống phụ thuộc vào nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta dành được thắng lợi, giải pháp quan trọng hàng đầu là phải ưu tiên phát triển khoa học - công nghệ, đưa khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực chủ yếu để phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn và xây dựng nông thôn mới. Cùng với cả nước, phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển khoa học - công nghệ của Thủ đô. Những năm qua, nhất là từ khi mở rộng địa giới hành chính đến nay, Hà Nội ngày càng quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực này. Khoa học - công nghệ bước đầu đã phát huy vai trò là động lực chủ yếu đưa nền nông nghiệp của Thành phố tiếp cận đến một nền nông nghiệp hiện đại với năng suất, chất lượng ngày càng cao. Đồng thời, khoa học - công nghệ còn là cơ sở quan trọng để các cấp, các ngành của Hà Nội tiến hành công tác quy hoạch, xây dựng và phát triển nông thôn mới. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay, khoa học - công nghệ của Hà Nội vẫn còn những bất cập như: trình độ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp đang ở mức thấp; đầu tư cho khoa học - công nghệ chưa đáp ứng kịp với yêu cầu phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện Hà Nội đã được mở rộng địa giới, chưa tạo ra bước đột phá trong phát triển nông nghiệp; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp, nông thôn tuy có tiến bộ hơn so với các địa phương khác nhưng còn lạc hậu so với các nước trong khu vực; công tác quản lý, triển khai, ứng dụng, chuyển giao công nghệ vào phát triển nông nghiệp, nông thôn còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những bất cập đó, cần có sự nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về phát triển của khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề “Phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành kinh tế - chính trị của mình.
2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1 3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở HÀ NỘI Những vấn đề lý luận về phát triển khoa học - công 11 nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông 11 1.2. nghiệp, nông thôn ở Hà Nội Thực trạng phát triển khoa học - công nghệ trong công 28 Chương 2 nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội QUAN ĐIỂM CƠ BẢN, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở HÀ NỘI THỜI 2.1. GIAN TỚI Quan điểm cơ bản phát triển khoa học - công nghệ 46 trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, 2.2. nông thôn ở Hà Nội thời gian tới Giải pháp chủ yếu phát triển khoa học - công nghệ 46 trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội thời gian tới KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 57 83 85 90 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, khoa học - công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ cả bề rộng và chiều sâu, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người. Nắm bắt cơ hội đó, nhiều nước trên thế giới đã nhanh chóng ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ vào phát triển nông nghiệp, nông thôn nên đã đạt được những thành tựu to lớn. Hiện tại, Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn và 2/3 dân số sống phụ thuộc vào nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta dành được thắng lợi, giải pháp quan trọng hàng đầu là phải ưu tiên phát triển khoa học - công nghệ, đưa khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực chủ yếu để phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn và xây dựng nông thôn mới. Cùng với cả nước, phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển khoa học - công nghệ của Thủ đô. Những năm qua, nhất là từ khi mở rộng địa giới hành chính đến nay, Hà Nội ngày càng quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực này. Khoa học - công nghệ bước đầu đã phát huy vai trò là động lực chủ yếu đưa nền nông nghiệp của Thành phố tiếp cận đến một nền nông nghiệp hiện đại với năng suất, chất lượng ngày càng cao. Đồng thời, khoa học - công nghệ còn là cơ sở quan trọng để các cấp, các ngành của Hà Nội tiến hành công tác quy hoạch, xây dựng và phát triển nông thôn mới. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay, khoa học - công nghệ của Hà Nội vẫn còn những bất cập như: trình độ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp đang ở mức thấp; đầu tư cho khoa học - công nghệ chưa đáp ứng kịp với yêu cầu phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện Hà 4 Nội đã được mở rộng địa giới, chưa tạo ra bước đột phá trong phát triển nông nghiệp; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp, nông thôn tuy có tiến bộ hơn so với các địa phương khác nhưng còn lạc hậu so với các nước trong khu vực; công tác quản lý, triển khai, ứng dụng, chuyển giao công nghệ vào phát triển nông nghiệp, nông thôn còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những bất cập đó, cần có sự nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về phát triển của khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề “Phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành kinh tế - chính trị của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Khoa học - công nghệ là một lĩnh vực rộng lớn và phát triển rất nhanh chóng do đó là sự lựa chọn nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về phát triển khoa học - công nghệ ở nhiều góc độ và phạm vi tiếp cận khác nhau của nhiều tác giả. Dưới góc độ tiếp cận của khoa học kinh tế - chính trị và căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ học tập tại Học viện. Tác giả nghiên cứu, tổng quan các đề tài, các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến luận văn của mình như sau: * Các công trình nghiên cứu về phát triển khoa học - công nghệ ở Việt Nam Ngoài các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật, quy định của nhà nước về khoa học - công nghệ còn có rất nhiều công trình nghiên cứu về phát triển khoa học - công nghệ tiêu biểu như: Nguyễn Chí Hải (2001), “Một số vấn đề về việc phát triển khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 5 Đây là công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ và có hệ thống về sự phát triển của khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của khoa học và công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước và ở Việt Nam. Sau khi đánh giá thực trạng và đúc rút kinh nghiệm ở các nước châu Á, tác giả đã đưa ra định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta. Phạm Văn Quý (2005), “Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Viện Kinh tế Việt Nam, Hà Nội. Đây cũng là một công trình nghiên cứu tiêu biểu về phát triển khoa học công nghệ. Trong luận án của mình, tác giả Phạm Văn Quý đã đưa ra khái niệm và làm rõ vai trò của nguồn nhân lực khoa học công nghệ; khảo sát thực trạng nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở Việt Nam; nêu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở một số nước, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phan Đình Trung (2000), “Phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay và tác động của nó tới quá trình hiện đại hóa quân đội”, luận văn Thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị. Ở công trình này, tác giả đã thống kê một số khái niệm cơ bản về khoa học, công nghệ; phân tích sâu sắc tính tất yếu khách quan của việc phát triển khoa học - công nghệ trong sự nghiệp xây dựng đất nước và củng cố quốc phòng; đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển khoa học - công nghệ nói chung, khoa học - công nghệ trong lĩnh vực quân sự nói riêng để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam. 6 Vũ Năng Dũng (chủ biên), Đỗ Ánh, Chu Hoài Hạnh (2005), “Khoa học công nghệ nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình mang tính tổng kết những thành tựu trong việc phát triển khoa học - công nghệ 20 năm đổi mới ở nước ta (1986 - 2005) trên các lĩnh vực cụ thể như: trồng trọt và bảo vệ thực vật; chăn nuôi, thú y; đất và phân bón; cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch; lâm nghiệp; thủy lợi; kinh tế chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đồng thời các tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp để phát triển nông nghiệp và nông thôn ở các lĩnh vực trên. Trần Hồng Lưu (2011), “Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách này đề cập đến nhiều nội dung, những vấn đề có liên quan trực tiếp đến luận văn mà tác giả có thể khai thác được là: vai trò của tri thức khoa học kỹ thuật, công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay; nguyên nhân dẫn đến các doanh nghiệp không muốn đầu tư vào phát triển khoa học - công nghệ; quan điểm của Đảng ta về phát triển khoa học công nghệ; giải pháp tạo động lực nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống. Phan Xuân Dũng (2008), “Công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã trình bày xu hướng phát triển khoa học - công nghệ trên thế giới những năm tới; quan điểm và một số giải pháp phát triển, ứng dụng công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam như: giải pháp về vai trò chủ đạo của nhà nước trong phát triển công nghệ cao; giải pháp phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển khoa học công nghệ; giải pháp về cơ chế quản lý đối với cơ quan nghiên cứu phát triển khoa học - công nghệ. 7 Ngoài những công trình nghiên cứu tiêu biểu trên còn có nhiều bài viết về phát triển khoa học - công nghệ đã đăng trên các tạp chí trong thời gian qua như: Nguyễn Hải Bằng (2010), “Thúc đẩy sự phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu trao đổi, (số 169/ 2010), tr. 27 - 31; Hoàng Bắc (2011), “Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để xóa đói giảm nghèo”, Tạp chí Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, (số 13/ 2011), tr. 18 - 19; Xuân Hoài (2011), “Thay đổi công nghệ sản xuất lúa gạo”, Tạp chí Nông thôn mới, (kỳ 1, số 5/2011), tr. 18 - 19; Hải Quỳnh (2011), “Hội nông dân Việt Nam và Bộ Khoa học công nghệ phối hợp đưa khoa học đến nhà nông”, Tạp chí Nông thôn mới, (kỳ 2 số 2/2011), tr. 20 -21; Thanh Tùng (2005), “Tập trung xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ vì một nền nông nghiệp bền vững”, Tạp chí Đông Nam Á, (số 12/2005), tr. 59 - 60; Vũ Xuân Chính (2006), “Chính sách sử dụng cán bộ khoa học công nghệ, trọng dụng nhân tài - Một vài suy nghĩ”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (số 1/2006), tr. 121 128; Trần Văn Chử (2006), “Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển thị trường khoa học - công nghệ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 6/2006), tr. 43 - 45. Tuy có sự khác nhau về góc độ tiếp cận, nội dung và phạm vi đề cập nhưng các bài viết trên các tạp chí đều hướng tới giải quyết các vấn đề sau: Một là, đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn để chứng minh cho tính tất yếu phải đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Hai là, đưa ra những khuyến nghị liên quan chính sách và tổ chức quản lý của nhà nước đối với hoạt động khoa học - công nghệ; đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ba là, hiện nay, cần phải đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ vào sản xuất và xây dựng nông thôn mới, coi khoa học - công nghệ là động lực chủ yếu để phát triển nền nông nghiệp bền 8 vững trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. * Các công trình nghiên cứu về phát triển khoa học - công nghệ hoặc có đề cập đến phát triển khoa học - công nghệ ở Hà Nội Vũ Huy Chương, Tạ Bá Hưng, Lại Văn Toàn (2010), “Phát triển khoa học và trọng dụng nhân tài của Thăng Long - Hà Nội”, Nxb Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Trong công trình này, các tác giả đã giới thiệu vai trò của khoa học và nhân tài trong quá trình phát triển của Thăng Long - Hà Nội. Các lĩnh vực khoa học trong quá trình phát triển qua các triều đại phong kiến đối với khoa học và nhân tài ở Thăng Long - Hà Nội; chính sách phát triển khoa học, sử dụng nhân tài ở Hà Nội thời Pháp thuộc, thời đại Hồ Chí Minh và phương hướng, nhiệm vụ phát triển khoa học và sử dụng nhân tài của Thủ đô thời gian tới. Phùng Hữu Phú, Nguyễn Duy Quý, Ngô Thị Thanh Hằng (2010), “Phát huy tiềm lực tự nhiên, kinh tế, xã hội và giá trị lịch sử - văn hóa, phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội đến năm 2020”, Nxb Hà Nội. Đây cũng là một trong những công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Các tác giả đã nghiên cứu tiềm năng và thực trạng sử dụng các nguồn lực (trong đó có nguồn lực khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thăng Long xưa kia và Hà Nội ngày nay. Chỉ ra thời cơ, thách thức, tầm nhìn của Thủ đô đến năm 2020 và 2050; đề xuất một số quan điểm và hệ giải pháp phát triển Thủ đô trong những năm tới. Nguyễn Minh Phong, Trần Trung Hiếu, Phạm Thị Thanh Bình (2005), “Phát triển thị trường khoa học - công nghệ giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước”, Nxb Tài chính, Hà Nội. Tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản về thị trường khoa học - công nghệ và việc phát triển thị trường này giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước. Thực trạng, phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Hà Nội trong thời gian tới. 9 Nguyễn Đình Chính, Trần Đình Đằng, Nguyễn Đình Long (2005), “Ứng dụng khoa học công nghệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Huyện Sóc Sơn”, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Tác giả đã trình bày lý luận về ứng dụng và tình hình ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Sóc Sơn - Hà Nội trong những năm gần đây. Đưa ra những định hướng, giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Sóc Sơn. Nghiêm Xuân Bạt, Nguyễn Minh Phong (2002), “Giải pháp tài chính thúc đẩy phát triển kinh tế Thành phố Hà Nội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này các tác giả đã nghiên cứu phân tích bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội trong thập niên đầu thế kỷ XXI, từ đó đề xuất các giải pháp đổi mới tài chính trong một số lĩnh vực như: sử dụng ngân sách, phát triển doanh nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển khoa học - công nghệ nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô. Nguyễn Thành Công (2010), Giải pháp thực hiện hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn Thủ đô trong những năm qua, trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp (trong đó có giải pháp về thể chế thị trường khoa học - công nghệ) nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2010 - 2020. Tóm lại, các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đã đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau của phát triển khoa học - công nghệ trong thời gian qua, cung cấp cho tác giả những luận cứ khoa học quan trọng, góp phần giải quyết mục đích, nhiệm vụ luận văn. Tuy nhiên, theo tác giả, đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề “Phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay” vì vậy luận văn không trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 10 * Mục đích Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển khoa học công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội thời gian qua, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu để phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội thời gian tới. * Nhiệm vụ Đưa ra quan niệm, chỉ ra nội dung phát triển khoa học - công nghệ trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay; làm rõ vai trò và những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội. Đánh giá đúng thực trạng, và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết từ thực trạng phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội thời gian qua. Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu sự phát triển khoa học - công nghệ với tư cách là một nguồn lực để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nôi hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Tập trung nghiên cứu phát triển khoa học - công nghệ ở khu vực nông nghiệp, nông thôn Hà Nội. Về thời gian: Nghiên cứu sự phát triển của khoa học- công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn Hà Nội từ năm 2001 đến năm 2012, tập trung nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ 8/ 2008 đến năm 2012. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận 11 Tác giả dựa trên các quan điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm đổi mới về phát triển khoa học - công nghệ, Nghị quyết của Đảng bộ Thành Phố Hà Nội về phát triển khoa học - công nghệ làm cơ sở phương pháp luận. * Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo và các phương pháp khác như: thống kê, toán học, phân tích tổng hợp, so sánh... để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả quán triệt và thực hiện đường lối phát triển khoa học - công nghệ của Đảng, tham gia đề xuất các quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu dưới góc độ kinh tế chính trị để phát triển khoa học công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội thời gian tới. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập môn kinh tế chính trị Mác - Lênin ở các nhà trường trong và ngoài Quân đội. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm có phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở HÀ NỘI 1.1. Những vấn đề lý luận về phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội 1.1.1. Phát triển khoa học - công nghệ * Quan niệm về phát triển khoa học - công nghệ Hiện nay, trong các tài liệu mà tác giả thu thập được đều chưa có khái niệm phát triển khoa học - công nghệ mà chỉ có các khái niệm “Hoạt động khoa học”; “Hoạt động khoa học và công nghệ”; “Phát triển công nghệ”. 12 Hoạt động khoa học: “Hoạt động khoa học được coi là tất cả các hoạt động có hệ thống liên quan đến việc sản xuất, nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức khoa học. Nội dung chủ yếu của hoạt động khoa học bao gồm: hoạt động nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học và kỹ thuật” [38, tr.144]. Hoạt động khoa học và công nghệ: Theo tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa (UNESCO) của Liên hiệp quốc: Hoạt động khoa học và công nghệ được hiểu là toàn bộ hoạt động có liên quan mật thiết tới sự ra đời và phát triển, truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học - công nghệ. Hoạt động khoa học và công nghệ thường được dựa vào các yếu tố mà trong các tài liệu quốc tế thường gọi tắt là 5 M gồm: nhân lực (Men); máy móc thiết bị (Machine); vật liệu (Matevia); tiền đầu tư (Money) và quản lý (Management). Theo Điều 2 của Luật Khoa học và công nghệ năm 2000: “Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ” [9, tr.8]. Phát triển công nghệ: Theo tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO): Phát triển công nghệ (Technology Developmet) là những tác động tiếp tục vào công nghệ đang tồn tại, để làm cho công nghệ ấy tiếp tục được hoàn thiện và nhân rộng trong sản xuất và đời sống xã hội. Quá trình nhân rộng công nghệ được gọi là phát triển công nghệ theo chiều rộng. Đây là sự phổ biến tri thức công nghệ trong sản xuất. Sự mở rộng tri thức đó thường đi kèm sự phát triển dây chuyền công nghệ. Còn quá trình thứ hai là quá trình phát triển công nghệ theo chiều sâu, đó là quá trình cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo Điều 3 của Luật Khoa học và công nghệ năm 2000: “Phát triển 13 công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm” [9, tr.9]. Như vậy, phát triển công nghệ cần được hiểu theo nghĩa rộng, đó là quá trình các tri thức ngày càng được nâng cao, các phương tiện, máy móc thiết bị ngày càng được hoàn thiện và các sản phẩm do công nghệ tạo ra phải thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, đồng thời có khả năng cạnh tranh đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong từng thời kỳ nhất định. Từ những khái niêm trên có thể hiểu: Phát triển khoa học - công nghệ là tổng thể các biện pháp, cách thức nhằm gia tăng về số lượng các công trình nghiên cứu, sáng chế, sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ; nâng cao về chất lượng, mở rộng về lĩnh vực của khoa học - công nghệ; phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ và các cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học - công nghệ nhằm khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển khoa học - công nghệ ở tầm vĩ mô là các hoạt động tạo ra tiềm lực khoa học - công nghệ có số lượng và chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Ở tầm vi mô, phát triển khoa học - công nghệ là các hoạt động nghiên cứu khoa học, triển khai thử nghiệm, ứng dụng, chuyển giao công nghệ vào sản xuất và đời sống nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các chủ thể kinh tế. * Quan niệm về phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được hiểu là quá trình xây dựng cơ sơ vật chất, kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại; gắn công nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong 14 nước và quốc tế, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn; xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; xây dựng nông thôn mới giàu có, dân chủ, công bằng, văn minh và xã hội chủ nghĩa. Nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gồm hai quá trình gắn bó hữu cơ với nhau đó là: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp: Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Hai là, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa trong nông nghiệp. Ba là, ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn: Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Hai là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái. Ba là, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Bốn là, xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân ở nông thôn. Trên cơ sở kế thừa các khái niệm hoạt động khoa học; hoạt động khoa học và công nghệ; phát triển công nghệ; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tác giả đưa ra quan niệm của mình về phát triển khoa học công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay như sau: Phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 15 nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay là sự gia tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng các hoạt động khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội. Quan niệm trên cần được hiểu ở những nội dung sau: Một là, chủ thể của quá trình phát triển Chủ thể của phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay gồm: Đảng bộ, chính quyền, các sở, ban, ngành, các tổ chức khoa học - công nghệ và toàn thể người dân nông thôn Hà Nội. Mỗi lực lượng trên có vai trò khác nhau trong phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, tổ chức đảng các cấp của Thành phố là người lãnh đạo, chỉ đạo toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Chính quyền các cấp của Thành phố có vai trò quan trọng trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn; là người xây dựng các chiến lược, kế hoạch, và ban hành các cơ chế, chính sách, tạo cơ sở pháp lý cho sự thống nhất và liên kết chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành của Thành phố; liên kết “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) trong phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Các sở, ban, ngành của Thành phố mà trực tiếp là Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có đóng góp quan trọng trong việc cùng phối hợp hoạt động để đưa khoa học - công nghệ đến với nhà nông. Các tổ chức khoa học - công nghệ là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng và chuyển giao các kết quả nghiên cứu đến người dân nông thôn. Vì vậy, chất lượng hoạt động của các tổ chức này quyết định trực tiếp đến chất lượng phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn của Thành phố. Người dân nông thôn là những người trực tiếp tiếp nhận các kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học, chuyển giao 16 công nghệ vào sản xuất và đời sống. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn quyết định trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động tiếp nhận và ứng dụng khoa học - công nghệ vào phát triển nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội. Hai là, nội dung của sự phát triển Phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau đây: Phát triển về số lượng các công trình khoa học - công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao về chất lượng, tính hiệu quả của các công trình nghiên cứu khoa học - công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Phát triển các cơ sở, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển các dịch vụ phục vụ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn gồm: các hoạt động phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức khoa học công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn vào phát triển nông nghiệp, nông thôn. Những nội dung trên đây cũng đồng thời là các tiêu chí để đánh giá sự phát triển của khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay. Trong đó, phát triển về số lượng và chất lượng của các công trình nghiên cứu, sáng chế, sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn là nội dung cơ bản và quan trọng nhất. Thực hiện nội dung này phải gắn chặt giữa phát triển khoa học - công nghệ theo chiều rộng với phát triển khoa học - công nghệ theo chiều sâu để vừa tạo ra được quy mô 17 rộng, số lượng lớn các công trình khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn, lại vừa tạo ra được bước đột phá, đi tắt đón đầu với những công nghệ tiên tiến hiện đại, phù hợp với xu thế của các nước có nền nông nghiệp phát triển; rút ngắn khoảng cách lạc hậu về công nghệ làm cơ sở để nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội hội nhập quốc tế thành công. Phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn là then chốt, chìa khóa để khắc phục những hạn chế về số lượng và chất lượng của các công trình khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn của Thành phố. Phát triển các cơ sở, trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu và các dịch vụ khoa học - công nghệ được xác định là cơ sở quan trọng để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn của Thành phố diễn ra thuận lợi hơn. Đồng thời, thực hiện tốt các nội dung này sẽ góp phần nâng cao khả năng tiếp nhận và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống cho người nông dân. Trong điều kiện hiện nay, việc thực hiện các nội dung nêu trên cần ưu tiên cho một số lĩnh vực khoa học - công nghệ then chốt, quyết định đến năng suất, chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội gồm: công nghệ sinh học; công nghệ sau thu hoạch và chế biến nông sản; công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường nông nghiệp, nông thôn; khoa học công nghệ phục vụ xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn Hà Nội trên các lĩnh vực: điện lực, giao thông nông thôn, thủy lợi, bưu chính viễn thông, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao...nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của công cuộc xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Ba là, phương thức của quá trình phát triển Phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay cần phải được tiến hành thông qua việc phát huy sức mạnh tổng hợp của các chủ thể, các lực lượng; huy động tối đa các nguồn 18 lực của Thành phố kết hợp với mở rộng liên doanh, liên kết, hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng, triển khai khoa học - công nghệ và thực hiện xã hội hóa hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Những hoạt động nêu trên được tiến hành trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với phát triển khoa học - công nghệ ở thời bao cấp trước đây. Nếu như trước đây, hoạt động nghiên cứu khoa học, phục vụ nông nghiệp, nông thôn được tiến hành theo chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước, thì nay trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi hoạt động nghiên cứu phải bám sát “đơn đặt hàng” của các địa phương. Nói cách khác, do tính hiệu quả và tính cạnh tranh của nền kinh tế thị trường đòi hỏi hoạt động khoa học và công nghệ phải xuất phát từ nhu cầu của nông nghiệp, nông thôn Hà Nội. Có như vậy thì sản phẩm khoa học mới đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn của Thành phố. Khắc phục được tình trạng “lệch pha” giữa nghiên cứu và ứng dụng, gây lãng phí tiền bạc của Thành phố và công sức của các nhà khoa học. Kinh tế thị trường luôn tuân theo những quy luật vốn có của nó như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu...Những quy luật này chi phối rất lớn đến sự phát triển của khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội. Trong kinh tế thị trường, nghiên cứu khoa học, cũng là một nghề, các phát minh, công nghệ cũng là hàng hóa. Chính điều này cùng với việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học - công nghệ đã làm cho các tổ chức này của Thành phố phải tự nâng cao năng lực nghiên cứu để tạo ra những “sản phẩm công nghệ” có chất lượng tốt, giá thành phù hợp đáp ứng nhu cầu đa dạng của khu vực nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, những tác động trái chiều của cơ chế thị trường có thể làm chệch hướng hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, Thành phố phải làm tốt công tác định hướng trong phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn; 19 giữ vững và nâng cao năng lực khoa học - công nghệ nội sinh để hạn chế sự phụ thuộc vào công nghệ của nước ngoài. Bốn là, mục đích của quá trình phát triển Phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay vừa đáp ứng yêu cầu cấp thiết trước mắt, vừa đáp ứng yêu cầu cơ bản, lâu dài. Trước hết, nhằm nhanh chóng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả hàng hóa nông sản, tạo ra những sản phẩm an toàn, phục vụ nhu cầu về lương thực, thực phẩm tăng nhanh của người dân Hà Nội và các vùng lân cận; làm cho hàng hóa nông sản của Hà Nội có sức canh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế, tiến tới phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa, bền vững. Về lâu dài, phải nhằm vào mục tiêu bảo đảm vững chắc “an ninh lương thực” của Thành phố trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Đồng thời, khoa học - công nghệ trở thành phương tiện hữu hiệu để xây dựng nông thôn mới; phục vụ đắc lực cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và nhanh chóng khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở nông thôn Hà Nội hiện nay. Suy cho cùng, mục đích của phát triển khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội là nhằm xây dựng nông thôn Hà Nội ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao, quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 1.1.2. Vai trò của khoa học - công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội Ngày nay, khoa học - công nghệ là một nguồn lực cơ bản trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội, khoa học - công nghệ có vai trò 20 to lớn là nền tảng của sự phát triển, cụ thể: Một là, khoa học - công nghệ giúp hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp của Thành phố, là động lực chủ yếu để tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. Phát triển khoa học - công nghệ là yếu tố hàng đầu làm cho cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản các sản phẩm nông nghiệp của Hà Nội ngày càng hiện đại; trực tiếp làm tăng khả năng chinh phục, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững các nguồn lực tự nhiên phục vụ sản xuất nông nghiệp của Thành phố đang có xu hướng ngày càng cạn kiệt. Hệ quả là năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên, chi phí sản xuất giảm xuống, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hóa. Hai là, phát triển khoa học - công nghệ là cơ sở để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội theo hướng sản xuất hàng hóa lớn gắn với phát triển nền nông nghiệp bền vững. Phát triển khoa học - công nghệ có tác dụng giải phóng sức lao động trong nông nghiệp của Thành phố, gián tiếp tác động đến vấn đề việc làm ở nông thôn bằng cách chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang làm việc ở các lĩnh vực khác làm cho tỷ trọng và lao động trong nông nghiệp của Hà Nội ngày một giảm, tỷ trọng và lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn tăng lên, đáp ứng mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Với nông nghiệp, thông qua việc chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất làm thay đổi căn bản cơ cấu nông nghiệp và phi nông nghiệp, tạo ra sức hút lao động nhất là lao động đã qua đào tạo để người dân có nhiều cơ hội hơn trong tìm kiếm việc làm với mức thu nhập cao. Đồng thời, phát triển khoa học - công nghệ còn thúc đẩy tính chất xã hội hóa trong ngành nông nghiệp của Hà Nội diễn ra nhanh hơn. Nó trực tiếp phá vỡ tính chất đặc trưng của kiểu sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tự nhiên nhất là ở khu vực mới mở rộng địa giới. 21 Ba là, phát triển khoa học - công nghệ làm cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn Hà Nội ngày càng đồng bộ và hiện đại, bảo đảm thắng lợi chương trình xây dựng nông thôn mới của Thành phố. Hà Nội là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về xây dựng nông thôn mới. Chương trình “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015” đã được Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội khóa XV thông qua ngày 12/7/2011. Theo đó, phấn đấu đến năm 2015 có trên 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và đến năm 2030 có 100% số xã được công nhận đạt 19 tiêu chí nông thôn mới. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng bộ Thành phố đã đưa ra nhiều giải pháp, đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh vai trò của khoa học - công nghệ trong việc hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn. Nhờ ứng dụng thành tựu của khoa học - công nghệ tiên tiến vào quá trình xây dựng nông thôn mới nên các tiêu chí như: quy hoạch nông thôn, giao thông, thủy lợi, tổ chức sản xuất nông nghiệp, điện lực, giáo dục, y tế, nhà văn hóa… ở nhiều địa phương đã từng bước hoàn thành, ngày càng đồng bộ và hiện đại. Điều đó trực tiếp góp phần làm giảm các chi phí trung gian trong sản xuất nông nghiệp; làm cho diện mạo của nông thôn ngày càng khang trang, chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn ngày càng nâng lên, từ đó rút ngắn khoảng cách chênh lệch về mức sống của người dân ngoại thành và nội thành, giữa các địa phương trong toàn Thành phố. Bốn là, phát triển khoa học - công nghệ trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn là khâu quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội. Giữa phát triển khoa học - công nghệ với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan