Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở quảng ninh...

Tài liệu Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở quảng ninh

.PDF
99
217
105

Mô tả:

DANH MỤC BẢNG BIỂU STT Bảng 1 Bảng 2.1 Tên Bảng Tình hình cơ sở vật chất-kỹ thuật của du lịch Trang 50 Quảng Ninh giai đoạn 2001- 2010 2 Bảng 2.2 Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh 52 giai đoạn 2001- 2010 3 Bảng 2.3 Tình hình kinh doanh của ngành du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2001- 2010 i 54 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Ký hiệu Nguyên nghĩa 1 BVMT Bảo vệ môi trường 2 CSVCKT Cơ sở vật chất kỹ thuật 3 CSHT Cơ sở hạ tầng 4 ECOMOST Mô hình du lịch bền vững của cộng đồng châu âu 5 IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới 6 TNDL Tài nguyên du lịch 7 TNDLTN Tài nguyên du lịch tự nhiên 8 TNDLNV Tài nguyên du lịch nhân văn 9 UBND Ủy ban nhân dân 10 WCED Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới 11 WTO Tổ chức du lịch thế giới ( World Tourism Organization) ii MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nắm bắt những thuận lợi do quá trình hội nhập quốc tế mang lại, tận dụng ưu thế về tài nguyên, du lịch Quảng Ninh trong những năm qua có bước phát triển mạnh mẽ, hệ thống cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ được cải thiện, nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được trùng tu, tôn tạo. Lượng khách trong nước và quốc tế không ngừng tăng, năm 2010 du lịch Quảng Ninh đón 5,4 triệu lượt khách, doanh thu đạt 3100 tỷ đồng. Sự phát triển của ngành du lịch góp phần vào sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tạo việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo , nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Tuy nhiên, sau một thời kỳ dài tăng trưởng với tốc độ cao du lịch Quảng Ninh đang dần phải đối mặt với những vấn đề có liên quan đến phát triển bền vững. Điều đó được thể hiện qua sự ô nhiễm môi trường tại các khu du lịch, sự thiếu đa dạng của sản phẩm du lịch, dẫn dến số ngày lưu trú, hệ số quay trở lại và hệ số chi tiêu của khách du lịch thấp. Không có những sản phẩm du lịch thực sự cao cấp và hấp dẫn. Cảnh quan Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long bị phá vỡ do quá trình đô thị hóa. Sự phát triển du lịch không cân đối giữa các trung tâm du lịch trong tỉnh. Hoạt động du lịch chủ yếu tập trung tại khu vực Bãi Cháy, dẫn đến sự quá tải vào mùa cao điểm. Hiện tượng đầu tư thừa về cơ sở lưu trú tại khu vực này cũng bắt đầu xuất hiện. Sự thờ ơ của doanh nghiệp đối với công tác phúc lợi xã hội cuả địa phương. Công tác giáo dục và bảo vệ các tài nguyên phục vụ phát triển du lịch chưa thực sự được chú trọng. Với mục đích nghiên cứu thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh trên quan điểm bền vững, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 1 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay vấn đề phát triển bền vững của ngành du lịch đang được quan tâm nghiên cứu, tiêu biểu phải kể đến các công trình như “Phát triển du lịch bền vững du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh, trưởng khoa du lịch, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (năm 2008). Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu đánh giá tác động qua lại giữa môi trường xã hội với hoạt động du lịch nhằm góp phần phát triển du lịch bền vững tại thị xã Sầm Sơn - Thanh Hóa” do GS.TS Nguyễn Văn Đính làm chủ nhiệm đề tài( năm 2005). Luận án tiến sĩ “Phát triển Du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng” của Trần Tiến Dũng,Trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội ( năm 2007) “Phát triển du lịch bền vững gắn với bảo vệ môi trường” của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam (năm 2006). “Du lịch bền vững dựa vào cộng đồng” của Tăng Thị Duyên Hồng (đăng trên tạp chí Du lịch Việt Nam, số 5 năm 2008). Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu được đăng trên các Báo trung ương và địa phương. Đối với du lịch Quảng Ninh đã có một số nghiên cứu liên quan đến vấn đề phát triển bền vững như “Đánh giá tác động của phát triển du lịch đối với môi trường Vịnh Hạ Long của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch kết hợp với Sở Tài nguyên Môi trường Quảng Ninh” (năm 2002). “ Xây dựng sản phẩm đảm bảo phát triển du lịch bền vững ở Quảng Ninh” của Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh (Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch Việt Nam, năm 2007). “Nguồn lực phát triển du lịch sinh thái tại một số đảo Quảng Ninh” Luận Văn tốt nghiệp chuyên ngành Du lịch học của Đàm Thu Huyền, chuyên viên Sở Du Lịch Quảng Ninh (năm 2007). Đây là công trình đánh giá những tiềm năng của Quảng Ninh về du lịch sinh thái. Tuy nhiên số lượng nghiên cứu sự phát triển của ngành du lịch trên quan điểm phát triển 2 bền vững ở Quảng Ninh chưa nhiều , vì vậy cần nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các cấp các ngành và giới học thuật trong và ngoài Tỉnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ *Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn lý giải một số vấn đề về sự bền vững trong thực trạng phát triển của ngành du lịch Quảng Ninh.. Trên cơ sở phân tích này, luận văn đề xuất một số gợi ý về giải pháp nhằm đưa du lịch Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững và hiệu quả. * Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ của luận văn này là tập trung nghiên cứu những lý luận cơ bản nhất của phát triển du lịch bền vững. Bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc phát triển du lịch bền vững và không bền vững. Đánh giá tài nguyên du lịch của Quảng Ninh. Phân tích một số vấn đề liên quan đến phát triển bền vững của du lịch Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là sự phát triển của du lịch Quảng Ninh trên quan điểm phát triển bền vững. Trong đó chú trọng một số trung tâm du lịch như : trung tâm Hạ Long, Vân Đồn, Móng Cái, Đông Tiều – Uông Bí, Sự phát triển của các trung tâm này tạo nên diện mạo cho ngành du lịch Quảng Ninh. Đây cũng chính là đối tượng nghiên cứu cụ thể nhất của luận văn. * Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn về mặt không gian là tỉnh Quảng Ninh. Phạm vi nghiên cứu của luận văn về mặt không gian còn diễn ra trên các phương diện kinh tế - chính trị - xã hội và môi trường tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh. Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của luận văn là khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm 2010. Đây là khoảng thời gian mà ngành du lịch 3 Quảng Ninh có tốc độ tăng trưởng nhanh, các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững được tương đối rõ nét. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh được tiếp cận dưới góc độ của khoa học kinh tế chính trị vì vây luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp kế thừa, Phương pháp trừu tượng hóa khoa học, Phương pháp thống kê, Phương pháp phân tích và tổng hợp 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luân văn góp phầnhệ thống một cách khái quát nhất những lý luận về phát triển du lịch theo hướng bền vững, vận dụng phân tích thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh. - Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch Quảng Ninh trên quan điểm phát triển bền vững. Làm rõ nguyên nhân hệ số quay trở lại và hệ số chi tiêu của khách du lịch thấp. Đánh giá vấn đề ô nhiễm môi trường và tác động của hoạt động du lịch đối với cộng đồng cư dân địa phương.Sử dụng kết quả đánh giá thực trạng để đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đưa du lịch Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững. Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong việc hoạch định chính sách phát triển du lịch Quảng Ninh trong tương lai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu làm 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển du lịch bền vững Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh 4 Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 1.1. Khái luận về phát triển du lịch bền vững 1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và du lịch bền vững * Khái niệm phát triển bền vững Khái niệm "Phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn Thế giới” (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".[1] Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo “Tương lai của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.”[2] Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo, tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà còn đi vào các 5 nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững. Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Nó nhanh chóng nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, điều đó được thể hiện thông qua hàng loạt các văn bản chính sách có tính định hướng chiến lược như: “Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững”, đây là văn bản tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở nước ta. Quan điểm phát triển bền vững được khẳng định lại trong chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính Trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chỉ thị nhấn mạnh “Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp các ngành, là cơ sở để đảm bảo phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Quan điểm phát triển bền vững lại được tái khẳng định trong văn kiện Đại hội IX của Đảng và trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 – 2010 là: “Phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Phát triển bền vững trở thành quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng và văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành, triển khai thực hiện, nhiều công trình nghiên cứu đã được triển khai và bước đầu thu được kết quả bước đầu. Nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. 6 Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Chính phủ đã ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” trong đó đề ra các nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển bền vững: Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong quá trình triển. Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới. Đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng cho phát triển bền vững. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý với phát triển xã hội. Khai thác hợp lí, sử dụng tiết kiệm hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “ Mọi mặt”: Kinh tế, xã hội và môi trường đều có lợi. Thứ ba, bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là yếu tố không thể tách rời của phát triển. Tích cực chủ động phòng ngừa những tác động xấu với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng nguyên tắc người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường phải bồi thường. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về bảo vệ môi trường; Chủ động gắn kết và có chế tài bắt buộc, lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội, coi yêu cầu bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong phát triển bền vững. Thứ tư, quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng đối với thế hệ hiện tại mà không gây tổn hại đối vớ các thế hệ tương lai. Tạo điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận với nguồn lực chung và được phân phối một cách công bằng lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất , tri thức, văn hóa tốt đẹp cho các thế hệ mai sau. Sử dụng tiết kiệm tài nguyên không thể tái tạo 7 được, gìn giữ và bảo vệ môi trường sống. Phát triển hệ thống “sản xuất sạch” thân thiện với môi trường, xây dựng lối sống lành mạnh, hài hòa, gần gũi và yêu quí thiên nhiên. Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước. Công nghiệp hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường được ưu tiên sử dụng trong các ngành sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh và có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác. Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền các bộ ngành, địa phương, các cộng đồng dân cư và mọi người dân. Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường ở địa phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ, thanh niên, đồng bào dân tộc thiểu số trong việc đóng góp vào quá trình ra quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn vá lâu dài của đất nước. Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước. Phát triển quan hệ song phương và đa phương thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực, tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ khoa học công nghệ , tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển bền vững. Chú trọng phát huy lợi thế , nâng cao chất lượng hiệu quả, năng lực cạnh tranh, chủ động phòng ngừa những tác động xấu với môi trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây nên. Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội.[3] *Khái niệm du lịch bền vững Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, trên thế giới xuất hiện những cảnh báo đầu tiên về sự suy thoái môi trường do hoạt động du lịch gây ra, các 8 nhà khoa học đã dùng khái niệm “ du lịch rắn”(Hard tourism) để chỉ các hoạt động du lịch ồ ạt, không được quy hoạch hợp lí. Khái niệm “du lịch mềm” (Soft tourism) chỉ một chiến lược du lịch mới tôn trọng tài nguyên môi trường. Năm 1996 xuất hiện khái niệm “ du lịch bền vững “ ( Sustainable) do Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế đưa ra trên cơ sở phát triển của khái niệm “du lịch mềm”, nhưng có nội dung rộng hơn không chỉ dừng lại bảo vệ môi trường mà còn phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa và xã hội. Khái niệm du lịch bền vững do Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế đưa ra có nội dung: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch cho thế hệ tương lai”. ( World Travel and Tourism Council, 1996).[25] Bên cạnh khái niệm của Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới cũng đưa ra khái niệm du lịch bền vững là “ Việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm với môi trường và đánh giá cao tự nhiên, theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang lại lợi ích cho sự tham gia chủ động về kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương” (International Union for Conservervation of Nature, 1996). [25] Du lịch bền vững “đòi hỏi quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi đó vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ thống đảm bảo sự sống”( Nikolova và Hens, 1998).[28] Du lịch bền vững và du lịch đại chúng có sự khác biệt. Du lịch đại chúng không được lập kế hoạch hợp lí cho việc nâng cao công tác bảo tồn hoặc công tác giáo dục, không mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương và có thể phá huỷ nhanh chóng các môi trường nhạy cảm. Kết quả là 9 có thể phá hủy hoặc làm thay đổi một cách không thể nhận ra được các nguồn lợi tự nhiên và văn hoá mà chúng phụ thuộc vào. Ngược lại, Du lịch bền vững thì được lập kế hoạch một cách cẩn thận từ lúc bắt đầu để mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương, tôn trọng văn hoá, bảo tồn nguồn lợi tự nhiên. Giáo dục du khách và cả cộng đồng địa phương. Du lịch bền vững có thể tạo ra một lợi tức tương tự như du lịch đại chúng, nhưng có nhiều lợi ích được nằm lại với cộng đồng địa phương và các nguồn lợi tự nhiên, các giá trị văn hoá của vùng được bảo vệ. Trong nhiều trường hợp, các hoạt động du lịch đại chúng trong quá khứ có thể mang đến những tác động xấu đến bảo tồn do việc thiếu các cơ chế quản lý và cơ chế lập kế hoạch có hiệu quả. Ngược lại, du lịch bền vững có những kế hoạch hợp lí để giảm thiểu các tác động xấu của du lịch, đồng thời còn đóng góp vào công tác bảo tồn và mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng về cả mặt kinh tế và xã hội. Du lịch đại chúng không cung cấp nguồn quỹ tài trợ cho các chương trình phúc lợi cho cộng đồng địa phương, hoặc các chương trình bảo tồn nhằm bảo vệ cảnh đẹp tự nhiên của vùng. Nói cách khác du lịch đại chúng chỉ quan tâm đến những lợi ích trước mắt, những lợi ích cá nhân của nhà kinh doanh. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài tìm đến các khu vực có cảnh quan tự nhiên đẹp, đồng có những cơ chế quản lí lỏng lẻo về môi trường, xây dựng các khu du lịch có những đặc điểm điển hình của du lịch đại chúng. Đây là vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý khi kêu gọi đầu tư nước ngoài. Những cơ hội và các đe dọa có thể chỉ được điều khiển thông qua du lịch bền vững đã được lập kế hoạch và quản lý cẩn thận. Thực tế phát triển cho thấy du lịch bền vững là mô hình mang lại nhiều lợi ích hơn so với du lịch đại chúng. *Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững Những nguyên tắc để đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững không tách rời khỏi những nguyên tắc chung của phát triển bền vững. Trên cơ sở đó 10 kết hợp với những đặc điểm của ngành du lịch, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới đưa ra mười nguyên tắc cho sự phát triển bền vững của ngành du lịch. Thứ nhất, sử dụng tài nguyên một cách bền vững bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên, xã hội và văn hóa. Thứ hai, giảm tiêu thụ và xả thải quá mức, nhằm giảm các chi phí khắc phục các suy thoái môi trường, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng du lịch. Thứ ba, duy trì tính đa dạng: duy trì và phát triển tính đa dạng của tự nhiên xã hội và văn hóa là rất quan trọng đối với du lịch bền vững, tạo ra sức bật cho ngành du lịch. Thứ tư, lồng ghép phát triển du lịch bền vững vào trong quy hoạch phát triển địa phương và quốc gia. Thứ năm, hỗ trợ nền kinh tế địa phương, du lịch phải hỗ trợ các hoạt động kinh tế địa phương, phải tính toán chi phí môi trường để bảo vệ nền kinh tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường. Thứ sáu, thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương, điều này không chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường mà còn tăng cường đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách. Thứ bảy, sự tư vấn của nhóm quyền lợi và của công chúng. Tư vấn giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng, các tổ chức và cơ quan đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh. Thứ tám, đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch, nhằm thực thi các sáng kiến và giải pháp phát triển du lịch bền vững, nhằm cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch. Thứ chín, Marketting du lịch một cách có trách nhiệm, phải cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường tự nhiên xã hội và văn hóa của khu du lịch, qua đó góp phần thỏa mãn nhu cầu du khách. 11 Thứ mười, triển khai các nghiên cứu, nhằm hộ trợ giải quyết các vấn đề, mang lại lợi ích cho khu du lịch, cho nhà kinh doanh du lịch và cho du khách.[10] 1.1.2. Nội dung của phát triển du lịch bền vững Phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường: Du lịch là ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt, bởi vì tài nguyên và môi trường là nhân tố cơ bản để tạo ra sản phẩm du lịch. Hoạt động du lịch đại chúng tác động tiêu cực đến nguồn lợi tự nhiên như ảnh hưởng đến nhu cầu và chất lượng nguồn nước, các chất thải, ô nhiễm không khí, tiếng ồn và phong cảnh, làm nhiễu loạn sinh thái tại khu du lịch,. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường, việc khắc phục sẽ rất tốn kém hoặc không thể thực hiện. Phát triển du lịch bền vững coi phát triển bền vững tài nguyên môi trường là nội dung quan trọng hàng đầu, điều đó có nghĩa hoạt động khai khác sẽ đi đôi với hoạt động bảo tồn. Du lịch bền vững sẽ bảo vệ và quản lí các nguồn tài nguyên đặc biệt là nguồn tài nguyên không thể phục hồi. Giảm thiểu tối đa sự ô nhiễm tài nguyên đất, nước, và không khí. Bảo vệ sự đa dạng sinh học và các tài sản thiên nhiên khác. Phát triển bền vững về xã hội: Du lịch bền vững không gây hại đến các cấu trúc xã hội hoặc văn hoá của cộng đồng nơi mà chúng được thực hiện. Thay vào đó thì nó lại tôn trọng văn hoá và truyền thống địa phương. Khuyến khích các bên liên quan tham gia trong tất cả các giai đoạn của việc lập kế hoạch, phát triển và giám sát và tăng cường nhận thức của các bên liên quan về vai trò của họ trong hoạt động du lịch. Du lịch bền vững chú trọng đến vấn đề phân phối lợi ích cho cộng đồng địa phương, tạo ra cơ hội cải thiện cuộc sống, nâng cao mức thu nhập và cung cấp dịch vụ cho người nghèo. Phát triển bền vững về kinh tế: Du lịch bền vững đóng góp về mặt kinh tế cho cộng đồng và tạo ra những thu nhập công bằng và ổn định cho cộng đồng địa phương cũng như càng nhiều bên liên quan. Bên cạnh đó sự phát 12 triển bền vững về kinh tế còn có nghĩa là sức sống của doanh nghiệp và hiệu quả của hoạt động kinh tế du lịch, sự tái đầu tư của ngành đối với công tác bảo tồn nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn. 1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong phát triển du lịch bền vững Nhìn từ phương diện phát triển kinh tế đơn thuần thì du lịch có thể được điều khiển một cách hiệu quả bởi khu vực tư nhân, tuy nhiên đối với sự phát triển của du lịch bền vững đòi nhất thiết phải có vai trò của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước thể hiện một cách cơ bản nhất là giám sát hoạt động du lịch có phù hợp với định hướng phát triển bền vững. Chính phủ có thể tác động đến phát triển du lịch bền vững bằng cách thông qua hệ thống bộ máy chính quyền, tiến hành nghiên cứu những ảnh hưởng về môi trường, văn hóa, kinh tế. Xây dựng các mô hình kinh tế nhằm giúp cho việc xác định các mức độ và hình thức phù hợp cho các hoạt động phát triển tại các khu vực thiên nhiên và đô thị. Xây dựng các tiêu chuẩn và quy tắc cho việc đánh giá tác động môi trường và văn hóa. Giám sát và kiểm toán các hoạt động phát triển du lịch thực hiện có theo kế hoạch dự kiến không. Thực hiện hệ thống kiểm toán môi trường khu vực cho ngành du lịch. Chính phủ có thể xem xét đến du lịch trong khi lập quy hoạch sử dụng đất nhằm giảm thiểu những mâu thuẫn với cách thức sử dụng đất lâu đời và đảm bảo sức chứa của các điểm du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của sự phát triển được giám sát điều chỉnh một cách phù hợp. Chính phủ đưa ra các tiêu chuẩn thiết kế và xây dựng mà những tiêu chuẩn này sẽ đảm bảo rằng các dự án phát triển du lịch sẽ phù hợp với văn hóa địa phương và môi trường tự nhiên Chính phủ cũng có thể phát triển các kỹ thuật và công cụ thích hợp để phân tích tác động của dự án du lịch đến các điểm được công nhận là di sản văn hóa và các công trình cổ kính mà sự phân biệt này là một bộ phận không thể thiếu của đánh giá tác động môi trường và văn hóa 13 Chính phủ có thể thực thi các quy định để ngăn ngừa việc buôn bán bất hợp pháp các cổ vật, các sản phẩm thủ công dân gian các nghiên cứu khảo cổ tự phát sự mất mát các giá trị thẩm mỹ. Chính phủ cũng có thể lập nên những ban tư vấn về du lịch trong đó có đại diện của: Dân bản địa, quảng đại quần chúng, ngành du lịch, các tổ chức phi chính phủ, và những người khác và quá trình ra quyết định cần phải có sự tham gia của tất cả các bên liên quan Chính phủ có thể tăng cường và hỗ trợ du lịch bền vững bằng cách: Xây dựng các chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng.Chỉ đạo các cơ quan chức năng tham gia vào các hoạt động du lịch cùng với các bộ phận khác có liên quan. Đảm bảo ngành du lịch có đại diện trong các buổi họp quan trọng về quy hoạch kinh tế và môi trường. Đưa chính sách phát triển du lịch bền vững vào tất cả các thỏa thuận về phát triển du lịch địa phương cũng như quốc gia. Chính phủ xây dựng một sơ đồ cho việc phát triển du lịch và bảo tồn đa dạng sinh học thông qua các chính sách và luật. Ví dụ : • Luật và quy chế xác định các tiêu chuẩn cho các phương tiện du lịch, tiếp cận với các nguồn lợi đa dạng sinh học và quy chế sử dụng đất, phân vùng. Điều này có thể đòi hỏi những hiện trạng về tác động môi trường trước khi phát triển. • Cơ sở hạ tầng: thiết kế, phát triển và quy chế (nước, năng lượng, đường, sân bay…) • Công cụ kinh tế được xác định trong các chính sách, ví dụ như: những động cơ cho việc đầu tư du lịch bền vững và việc tạo ra các khu bảo vệ tư nhân. • Tiêu chuẩn về sự lành mạnh và độ an toàn, bao gồm những quản lý chất lượng và quy chế các hoạt động kinh doanh; mục đích là bảo vệ người tiêu dùng và thoả mãn những nhu cầu của cư dân – bao gồm các cộng đồng truyền thống và người bản xứ - và bảo vệ cách sống của họ. 14 • Hình thành và duy trì các khu bảo vệ và các hành lang bảo tồn của các mối quan tâm về du lịch. Các nhà quản lý của các khu bảo vệ công cộng thường là những người thực hiện hiệu qủa nhất cho những lợi ích bảo tồn từ việc phát triển du lịch. • Phân chia các lợi tức thuế cho việc bảo vệ các điểm thu hút du lịch dựa trên đa dạng sinh học như các công viên quốc gia và các khu bảo tồn. Tại điểm du lịch, chính quyền địa phương thường chịu trách nhiệm thực hiện chính sách liên quan đến du lịch và công tác bảo tồn. Chính quyền địa phương đóng vai trò đàm phán giữa các mối quan tâm của địa phương và các đơn vị kinh doanh từ bên ngoài, xã hội và các cơ quan trung ương, và họ nắm giữ quyền điều chỉnh cần thiết và uỷ nhiệm phân vùng mà cho phép thực hiện cưỡng chế theo các hướng dẫn và tiêu chuẩn. Mặt khác, năng lực của chính quyền địa phương để quản lý ngành phức tạp và rời rạc này một cách hiệu quả cũng như đảm bảo những đóng góp tích cực của nó đến các chiến lược của cộng đồng cho việc phát triển bền vững là còn phụ thuộc vào việc soạn thảo các chính sách địa phương phải gắn kết với các công cụ và các cơ quan luật quốc gia. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý đến sự thiếu đồng bộ trong chính sách, sự phối hợp không nhịp nhàng giữa các cơ quan chức năng sẽ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với tài nguyên du lịch, đặc biệt là trong công tác bảo tồn sự đa dạng sinh học. Đây cũng là bài học mà nhiều quốc đang phát triển đã từng gặp phải, hậu quả là sự thất bại về mục tiêu của chính sách bảo tồn. 1.1.4. Chiến lược phát triển du lịch hướng đến sự bền vững Vấn đề phát triển bền vững nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà Nước, điều đó được cụ thể hóa bằng việc Chính phủ ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam”, đây là văn kiện có tính phương pháp luận chung cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội, ngành du lịch cũng trên cơ sở này xây dựng chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020 và 15 tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược đã xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành khác phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mang lại tiến bộ xã hội. Phát triển du lịch bền vững, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa, gắn với an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, khai thác tối ưu lợi thế quốc gia, các nguồn lực trong và ngoài nước. Phấn đấu đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, thân thiện với môi trường, đưa Việt Nam trở thành điểm đến có đẳng cấp trong khu vực. Năm 2030, đưa Việt Nam thành một trong những điểm đến du lịch ưa chuộng, có đẳng cấp trên thế giới. Đồng thời chiến lược cũng xác định địa bàn trọng điểm của du lịch Việt Nam,từ các địa bàn trọng điểm này, các khu di lịch trọng điểm cũng được xác định trong chiến lược và trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch các trung tâm, các tỉnh trong địa bàn. Quán triệt tinh thần nêu trên trong thời gian gần đây, các dự án, các kế hoạch phát triển du lịch, đã chú trọng đến việc bảo tồn tài nguyên cho mục tiêu phát triển bền vững lâu dài. Những tài nguyên có giá trị cao đối với du lịch nhưng nhạy cảm với cá tác động của quá trình phát triển đã được đưa vào không gian bảo tồn nghiêm ngặt, hoặc có kế hoạch khai thác giới hạn hoặc đưa vào không gian có mức độ ưu tiên đầu tư phát triển thấp như các Vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu bảo vệ sinh cảnh, các khu bảo tồn biển, các khu di sản… Trong các dự án phát triển du lịch ở các khu vực nhạy cảm các nguyên tắc về phát triển bền vững đã được chú trọng. quá trình khai thác tài nguyên cho phát triển du lịch đã thực hiện các hoạt động đánh giá tác động môi trường đưa ra các phân tích, dự báo và biện pháp khắc phục cụ thể cho từng dự án khi phê duyệt. Hiện nay, các dự án phát triển du lịch trong các Vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu dự trữ sinh 16 quyển đều tập trung đầu tư phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng như các dự án phát triẻn du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, các vườn quốc gia Hoàng Liên, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã, Chư Yang Sin, Yok Don, Tràm Chim, Phú Quốc… Hoạt động phát triển du lịch đang dần hướng tới cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn trong đời sống như ở các vùng nông thôn, vùng núi và hải đảo xa xôi. Biểu hiện rõ rệt nhất là những loại hình du lịch thân thiện với môi trường đồng thời khai thác các giá trị tự nhiên và nhân văn ở các vùng sâu, vùng xa, góp phần phát triển du lịch và nâng cao đời sống cộng dồng dân cư dư du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái ngày càng được chú trọng và phát triển rộng rãi. Quy hoạch tổng thể của du lịch Việt Nam đã xác định sản phẩm du lịch đặc trưng của các vùng du lịch: vùng du lịch Bắc bộ là du lịch văn hóa kết hợp với du lịch sinh thái, tham quan, nghi dưỡng; vùng du lịch Bắc Trung bộ là du lịch tham quan các di tích văn hóa - lịch sử kết hợp với du lịch biển, hang động và du lịch quá cảnh; vùng Nam Trung bộ và Nam bộ là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước và du lịch sinh thái. Một số khu du lịch sinh thái ở Việt Nam đã và đang khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch và đóng góp cho sự phát triển cộng đồng. Trong đó đáng kể là hai khu du lịch sinh thái được tổ chức du lịch thế giới đánh giá là khu du lịch sinh thái bền vững của thế giới bao gồm: khu du lịch Văn Xá (Cần Giờ - TP Hồ Chí Minh) và khu du lịch suối nước nóng Bình Châu (Xuyên Mộc – Vũng Tàu). 1.1.5. Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững Xây dựng chính sách phát triển du lịch hướng đến sự bền vững. Xã hội hiện đại là một xã hội có tính tổ chức cao, mọi hoạt động đều được quản lí bởi một bộ máy nhất định và có nó có vai trò quyết định đến hoạt động của cộng đồng, hoạt động du lịch cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, một quốc gia hay một địa phương giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch, nhưng 17 không có chính sách phát triển hợp lí thì cũng không phát huy một cách hiệu quả các tiềm năng lợi thế sẵn có, hoạt động du lịch cũng là một hoạt động kinh tế, nếu để nó diễn ra một cách tự phát sẽ dẫn đến tình trạng chạy theo mục tiêu lợi nhuận, gây tổn hại đến tài nguyên và nhiều hậu quả nghiêm trọng khác. Đây là bài học đã được lịch sử phát triển của ngành du lịch nhiều nơi trên thế giới chứng minh. để đảm bảo phát triển du lịch bền vững cần phải có chính sách phát triển hợp lí, thể hiện tầm nhìn chiến lược, phát huy được tiềm năng thế mạnh, thu được lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ được tài nguyên môi trường. Tuy nhiên đây cũng là một thách thức không nhỏ đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, bởi những hạn chế về mặt kinh tế và trình độ hoạch định chính sách. Phát triển cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những phương tiện vật chất của xã hội, Nó bao gồm mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, công trình cung cấp điện, nước, công viên toàn dân, mạng lưới thương nghiệp của khu dân cư, rạp chiếu phim, nhà hát, viện bảo tàng…v.v. Cơ sở hạ tầng là đòn bẩy thúc đẩy sự mọi hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, đối với ngành du lịch cơ sở hạ tầng là yếu tố khai thác tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, mặt khác phát triển du lịch cũng giúp phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia hoặc một địa phương. Muốn phát triển du lịch bền vững, cơ sở hạ tầng cần phải đi trước một bước, phải được đầu tư hiện đại đồng bộ. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch như hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí và cơ sở vật chất kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia phục vụ du lịch: thương nghiệp, dịch vụ… Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò quyết định trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác tài nguyên du lịch, thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng