Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập ở việt nam...

Tài liệu Phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập ở việt nam

.PDF
83
657
101

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC ÁNH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 60.34.04.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. HÀ THỊ NGỌC HÀ Hà Nội, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Ngọc Ánh Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP…………………………………………………………………….……..6 1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ kiểm toán độc lập .................... 6 1.2 Dịch vụ kiểm toán độc lập ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ...................................................................................................... 19 Chương 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM ............................................................................................................... 31 2.1 Sự hình thành và các nhân tố phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam 31 2.2 Đánh giá chung về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay .... 56 Chương 3: BỐI CẢNH, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP VIỆT NAM ...................................... 65 3.1 Bối cảnh trong và ngoài nước tác động tới dịch vụ kiểm toán độc lập . 65 3.2 Những quan điểm chủ yếu trong phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập Việt Nam ...................................................................................................... 66 3.3 Một số giải pháp phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập Việt Nam. ........ 68 KẾT LUẬN .................................................................................................... 76 Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………..78 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BCTC Báo cáo tài chính CPA Kế toán viên công chứng DNKT Doanh nghiệp kiểm toán KTĐL Kiểm toán độc lập KTV Kiểm toán viên TNHH Trách nhiệm hữu hạn VACPA Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường thông tin tài chính đóng vai trò rất quan trọng, nó giúp doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước đưa ra những chính sách phù hợp để điều hành kinh tế. Theo đó dẫn tới yều cầu của các chủ thể trong nền kinh tế về những thông tin được cung cấp phải đảm bảo chính xác kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi phải có bên thứ ba độc lập khách quan, có trình độ chuyên môn cao được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy cho đối tượng quan tâm, theo đó thì KTĐL đã được ra đời. Hoạt động KTĐL nhằm góp phần công khai, minh bạch thông tin kinh tế, tài chính của đơn vị được kiểm toán và doanh nghiệp; làm lành mạnh môi trường đầu tư cũng như phát hiện và ngăn chặn vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việt Nam là một đất nước trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đang thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, dịch vụ KTĐL hình thành và phát triển là một xu thế tất yếu như mọi nền kinh tế thị trường trên thế giới. Tháng 5 năm 1991, dịch vụ KTĐL Việt Nam được hình thành thông qua việc Bộ Tài chính cho phép thành lập 2 công ty kiểm toán là AASC và VACO. Đến nay, sau hơn 25 năm phát triển đã có hơn 140 DNKT được thành lập và 1 hoạt động, góp phần minh bạch hóa thông tin trên thị trường. KTĐL ở Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị thế trong nền kinh tế thị trường, có sự lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng của các công ty kiểm toán, cũng như đã hình thành được đội ngũ KTV hành nghề với số lượng và chất lượng ngày càng nâng cao. Hoạt động của KTĐL đã giúp đẩy nhanh tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam. Dịch vụ kiểm toán độc lập đã có những bước phát triển, thay đổi từ chỉ có dịch vụ kiểm toán BCTC đến nay đã có nhiều dịch vụ khác như dịch vụ tư vấn, dịch vụ đảm bảo khác, dịch vụ kiểm toán hoạt động… Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường cũng như tổ chức hoạt động còn chưa hiệu quả và phù hợp. Vì vậy cần phải có những thay đổi để nâng cao hiệu quả hoạt động của KTĐL xuất phát từ thực tế trên, tác giả chọn đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình là: “Phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những vấn đề lý luận chung về hoạt động KTĐL, trong đó có dịch vụ KTĐL cũng đã được trình bày trong các giáo trình như giáo trình Lý thuyết Kiểm toán của Học viện tài chính, giáo trình Kiểm toán của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, giáo trình Lý thuyết kiểm toán của Đại học Kinh tế quốc dân,…Những giáo trình này, với mục đích cung cấp những kiến thức căn bản về kiểm toán nói chung nên mỗi giáo trình chỉ đưa ra một vài điểm về dịch vụ KTĐL (như các loại hình DNKT, mô hình tổ chức và hoạt động của DNKT, KTV độc lập…). Ngoài ra, những vấn đề đơn lẻ liên quan đến dịch vụ KTĐL như: kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán, hệ thống pháp luật KTĐL, ... đã được các 2 nhà chuyên môn quan tâm, nghiên cứu và bàn đến nhiều trong các hội nghị, hội thảo chuyên môn của Việt Nam và quốc tế; trên các tạp chí chuyên ngành, trên các diễn đàn nghề nghiệp. Ví dụ: - Hà Thị Ngọc Hà (2011), Các giải pháp hoàn thiện, tăng cường kiểm soát chất lưọng công tác kiểm toán báo cáo tài chính các đơn vị có lợi ích công chúng – Đề tài khoa học cấp Bộ. - Nguyễn Thị Khuyên (2014), Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam – Luận văn thạc sỹ. - Trần Thị Quế Chi (2012), Quy chế pháp lý của doanh nghiệp kiểm toán ở Việt Nam – Luận văn thạc sỹ. - Ngô Đức Long (2016), Giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán – Luận văn thạc sỹ. - Ths. Lê Thị Thu Hằng (2016), Tăng cường công tác giám sát tổ chức kiểm toán, KTV trong lĩnh vực chứng khoán – Đề tài khoa học cấp Ủy ban. - Mai Thị Hoàng Minh (2012), Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán trong điều kiện luật kiểm toán đã ban hành và áp dụng - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Đại học kinh tế TP. HCM. Tuy nhiên, các nội dung nghiên cứu được đặt ra một cách riêng lẻ chuyên sâu từng vấn đề, không có một công trình đưa ra cái nhìn tổng quát về sự phát triển cũng như giải pháp nâng cao sự phát triển của dịch vụ kiểm toán. Như vậy trên thực tế, chưa có tài liệu nào, tác giả nào đi sâu nghiên cứu về dịch vụ KTĐL nước ta hiện nay để chỉ ra những mặt được, mặt hạn chế, tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy dịch vụ KTĐL ở Việt Nam phát triển. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 Mục đích: Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng của hoạt động dịch vụ KTĐL, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển dịch vụ này ở Việt Nam. Theo đó nâng cao hoạt động KTĐL ở Việt Nam đáp ứng đòi hỏi của thị trường và nhu cầu hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về KTĐL. - Nghiên cứu tình hình phát triển dịch vụ KTĐL ở một số nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động dịch vụ KTĐL ở Việt Nam hiện nay. - Xây dựng định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ KTĐL ở Việt nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về quá trình phát triển dịch vụ KTĐL từ khi hình thành năm 1991 cho năm 2016 bao gồm các nội dung thể chế, doanh nghiệp kiểm toán, dịch vụ kiểm toán, các biện pháp quản lý chất lượng dịch vụ… Luận văn cũng nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về dịch vụ KTĐL, quản lý nhà nước về dịch vụ này từ đó đưa ra các quan điểm, giải pháp để phát triển dịch vụ KTĐL ở Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng; các phương pháp cụ thể là: phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh... để nghiên cứu và phân 4 tích trên cơ sở đó giải quyết các nhiệm vụ và đưa ra các giải pháp phát triển dịch vụ KTĐL ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về KTĐL. Làm rõ thực trạng dịch vụ KTĐL ở Việt Nam, chỉ ra được những kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động dịch vụ này. Đưa ra được các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình phát triển dịch vụ KTĐL ở Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ kiểm toán độc lập Chương 2: Thực trạng dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt nam 5 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ kiểm toán độc lập 1.1.1 Khái niệm kiểm toán, kiểm toán độc lập, dịch vụ kiểm toán và phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập Trong tiến trình phát trình kinh tế - xã hội, con người luôn quan tâm đến việc quản lý và điều hành hoạt động để đạt được hiệu quả cao. Những thông tin thu nhận được từ các nguồn cung cấp khác nhau nếu có liên quan đến hoạt động của đơn vị đều được quan tâm, xem xét sử dụng đặc biệt là các thông tin về tài chính, kế toán. Các thông tin được cung cấp có thể chứa đựng những rủi ro, sai sót do các nguyên nhân khách quan và chủ quan từ người cung cấp. Theo nhu cầu đòi hỏi, kiểm toán đã ra đời để phục vụ yêu cầu quản lý, trong đó hiện nay KTĐL là một hoạt động rất phát triển trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động kiểm đã có lịch sử phát triển lâu dài và gắn với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của loài người. Để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của xã hội, những lĩnh vực và loại hình kiểm toán khác nhau đã lần lượt hình thành, đi vào hoạt động. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế, từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, ở La Mã cổ đại đã có sự xuất hiện một số hình thức của hoạt động thẩm định, đánh giá thông tin. Kiểm toán có gốc từ latin là “audit”, từ “auditing” có nguồn gốc từ động từ “audive” có nghĩa là “nghe”. Hình ảnh của kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra tình hình tài sản, hầu hết được thực hiện bằng cách người ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập “nghe” rồi sau đó chấp nhận thông qua việc chứng thực. 6 Có nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán, nhưng định nghĩa hiện được chấp nhận rộng rãi tại các giáo trình "Kiểm toán" như sau: Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập. Theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) "Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về kiểm toán báo cáo tài chính”. Đối với quản lý tài sản, tài chính công thì kiểm toán là một công cụ để quản lý và được thực hiện bởi cơ quan kiểm toán nhà nước. Đối với việc đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, lợi ích của chủ sở hữu vốn, các chủ nợ, lợi ích và yêu cầu của Nhà nước từ những thông tin được cung cấp, xác thực thì KTĐL đã được ra đời. Đây là dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức kinh doanh, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Theo khái niệm KTĐL tại Luật kiểm toán độc lập 2011 thì “Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán.” [18, Điều 5] Từ những khái niệm trên có thể hiểu dịch vụ KTĐL là công việc kiểm toán được thực hiện bởi các KTV chuyên nghiệp, độc lập làm việc trong các DNKT. Kiểm toán độc lập là loại hình dịch vụ nên chỉ được thực hiện khi khách hàng có yêu cầu và đồng ý trả phí dịch vụ thông qua việc ký kết hợp đồng kinh tế. 7 Trong luận văn này, phát triển dịch vụ KTĐL được hiểu là: (i) quá trình hình thành, phát triển của dịch vụ KTĐL trong một khoảng thời gian bao gồm sự thay đổi về số lượng doanh nghiệp; số lượng, chất lượng, doanh thu của dịch vụ KTĐL; cũng như những sự thay đổi trong quản lý nhà nước về dịch vụ này, (ii) Đồng thời cũng đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm thay đổi theo hướng tích cực các nội dung trên, đóng góp có lợi cho dịch vụ KTĐL nói riêng cũng như ngành KTĐL nói chung. Theo thông lệ trên thế giới cũng như ở Việt Nam thì các dịch vụ kiểm toán, gồm kiểm toán BCTC, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành, kiểm toán BCTC vì mục đích thuế và công việc kiểm toán khác (khoản 1 Điều 40 Luật kiểm toán độc lập). Trong đó: Kiểm toán BCTC là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán [18, khoản 9 Điều 5] Kiểm toán tuân thủ là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến về việc tuân thủ pháp luật, quy chế, quy định mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện [18, khoản 10 Điều 5] Kiểm toán hoạt động là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến về tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của một bộ phận hoặc toàn bộ đơn vị được kiểm toán [18, khoản 11 Điều 5] 8 Ngoài các dịch vụ KTĐL trên, DNKT còn cung cấp các dịch vụ liên quan khác như tư vấn, tài chính, kế toán, thuế, dịch vụ kiểm toán thông tin tương lai, các dịch vụ bảo đảm khác… 1.1.2 Phân loại kiểm toán và phân biệt kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước, và kiểm toán nội bộ Căn cứ vào mục đích, kiểm toán có thể phân thành 3 loại: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, và kiểm toán BCTC. Trong khi đó nếu căn cứ vào hình thức tổ chức, kiểm toán có 3 loại: Kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước, và kiểm toán nội bộ. Cụ thể về 3 loại kiểm toán này như sau: - KTĐL là hoạt động dịch vụ tư vấn được tiến hành bởi các kiểm toán viên thuộc DNKT. Quan hệ giữa các chủ thể kiểm toán (KTV/tổ chức kiểm toán và đơn vị được kiểm toán) là quan hệ hợp đồng, đơn vị được kiểm toán trả phí dịch vụ theo thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán. Các KTV độc lập là những người có đủ các tiêu chuẩn theo quy định pháp luật về hành nghề kiểm toán và phải tuân thủ Chuẩn mực kiểm toán trong quá trình hành nghề. KTĐL chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán BCTC, thực hiện các dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán. Ngoài ra, theo yêu cầu cụ thể của khách hàng, KTV độc lập còn thực hiện các dịch vụ khác như kiểm toán báo cáo quyết toán giá trị công trình xây dựng cơ bản hoàn thành, kiểm toán theo các khoản mục yếu tố riêng lẻ.…. Hoạt động KTĐL là hoạt động kiểm toán phổ biến ở các nước có nền kinh tế phát triển, vì thế hoạt động kiểm toán nói chung thường được coi là hoạt động KTĐL. Trong hoạt động KTĐL thì kiểm toán BCTC là chủ yếu, theo đó đề cập về kiểm toán tức là kiểm toán độc lập BCTC. - Nếu KTĐL là hoạt động dịch vụ và thu phí thì kiểm toán nhà nước lại là công việc kiểm toán do cơ quan KTNN tiến hành theo luật định và không 9 thu phí kiểm toán. Nội dung kiểm toán chủ yếu là kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách luật lệ và các chế độ của Nhà nước và đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của nhà nước. Cơ quan KTNN là một tổ chức trong bộ máy quản lý của Nhà nước. Kiểm toán viên Nhà nước là các công chức của nhà nước. Kiểm toán nhà nước nhận xét, đánh giá và xác nhận việc chấp hành các chính sách, chế độ tài chính, kế toán ở đơn vị. Bên cạnh đó KTNN còn có quyền góp ý và yêu cầu các đơn vị được kiểm toán sửa chữa sai phạm và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, hoàn thiện các chính sách, chế độ về quản lý tài chính, kế toán… - Kiểm toán nội bộ Là loại kiểm toán do các KTV nội bộ của đơn vị tiến hành theo yêu cầu của Giám đốc doanh nghiệp hoặc thủ trưởng đơn vị. Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế thì kiểm toán nội bộ là bộ phận kiểm soát trong đơn vị, thực hiện kiểm tra vì lợi ích của đơn vị này. Trong số các công việc thực hiện, chủ yếu gồm kiểm tra, đánh giá và kiểm soát tính thích đáng và hiệu quả của các hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ. Chức năng của kiểm toán nội bộ bao gồm kiểm tra, xác nhận và đánh giá. Nội dung kiểm toán có thể một số hoặc các nội dung như kiểm toán BCTC; kiểm toán báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên; kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Trên thực tế phạm vi của kiểm toán nội bộ thay đổi và tuỳ thuộc vào qui mô, cơ cấu của đơn vị cũng như yêu cầu của các nhà quản lý doanh nghiệp. - Mặc dù 3 loại kiểm toán trên có sự khác nhau nhất định về chủ thể tiến hành kiểm toán, về phạm vi và đối tượng kiểm toán, về phương thức tiến hành, về tính chất, địa vị pháp lý nhưng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, cụ thể: 10 Thứ nhất, cả ba đều là kiểm toán, là hoạt động kiểm tra, đánh giá và xác nhận độ tin cậy của thông tin kinh tế tài chính do kế toán tổng hợp và cung cấp. Thứ hai, các loại kiểm toán đều tiến hành theo những quy trình và những phương pháp tương đối giống nhau. Nếu có sự khác biệt chỉ là những công việc cụ thể, những cách thức cụ thể trên các đối tượng kiểm toán có tính chất quy mô hoạt động khác nhau. Trong quy trình kiểm toán, hoạt động kiểm toán nhà nước rất quan tâm kế hoạch tổng thể trong một năm và thực hiện các kiến nghị của kiểm toán Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước quan tâm nhiều hơn đến những bất hợp lý, những khiếm khuyết của cơ chế và chính sách quản lý kinh tế - tài chính và luôn đề xuất các ý kiến, các giải pháp để hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi các quy định pháp lý, các chế độ, chính sách và cơ chế quản lý. Ngược lại, KTĐL lại quan tâm đến chiến lược dài hạn cho việc tạo uy tín với khách hàng và phát triển khách hàng, quan tâm ý kiến tư vấn thỏa mãn yêu cầu của khách hàng trong việc nâng cao chất lượng quản lý. KTĐL và kiểm toán nội bộ quan tâm nhiều hơn tới việc giúp doanh nghiệp tuân thủ luật pháp nhưng vận dụng và áp dụng chính sách, chế độ có lợi nhất cho doanh nghiệp. Thứ ba, các loại hình kiểm toán có thể sử dụng kết quả kiểm toán của nhau mặc dù có sự khác nhau về phạm vi và đối tượng kiểm toán trong trường hợp cần thiết. Phạm vi kiểm toán của kiểm toán Nhà nước rất rộng, mỗi năm Kiểm toán Nhà nước chỉ kiểm toán được một số lượng nhất định các đơn vị. Trong những trường hợp cần thiết, Kiểm toán Nhà nước có thể thuê dịch vụ KTĐL. Thứ tư, hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, mọi quy trình nghiệp vụ đều được công khai, minh bạch, mọi hoạt động đều được kiểm tra và kiểm soát một các chặt chẽ sẽ là 11 vòng bảo vệ trong hoạt động tài chính của các tổ chức tài chính nhà nước, của các doanh nghiệp. Đồng thời giúp cho hoạt động kiểm toán Nhà nước và KTĐL tiến hành nhanh chóng và chính xác hơn. 1.1.3 Vai trò của dịch vụ kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường Như đã trình bày ở trên, kiểm toán sinh ra từ nhu cầu cần có một tổ chức trung gian có tính chuyên môn cao, độc lập và khách quan với đơn vị được kiểm toán để xác minh tính trung thực và hợp lý của các thông tin tài chính, để từ đó rút ngắn khoảng cách giữa doanh nghiệp, tổ chức cung cấp với đối tượng sử dụng thông tin. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của dịch vụ KTĐL thể hiện nhiều mặt, cụ thể như sau: Thứ nhất, tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của đơn vị và sự phản ánh của nó trong BCTC (gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bao cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh BCTC). Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, một số chủ doanh nghiệp muốn che dấu các phần yếu kém hoặc khuyếch trương kết quả kinh doanh của mình trên BCTC. Trái lại những người quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp lại đòi hỏi sự trung thực chính xác của bản BCTC đó. Vì thế cần có sự kiển tra xác nhận của người thứ ba. KTV độc lập những người cung cấp dịch vụ theo nguyên tắc bắt buộc và có đủ năng lực uy tín với cả chủ doanh ngiệp và người quan tâm đến bản BCTC. Cụ thể : - Các cơ quan Nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước căn cứ vào BCTC đã được kiểm toán để xem xét các 12 doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn nhà nước đầu tư để hoạt động kinh doanh có đem lại hiệu quả không, có phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước hay không. Cơ quan thuế sẽ căn cứ vào BCTC đã được kiểm toán để tính và thu thuế trừ khi có nghi vấn mới kiểm tra lại. Về nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, các doanh nghiệp thường muốn nộp ít để chiếm chiếm dụng phần thếu phải nộp Nhà nước nên họ sẽ khai tăng các khoản chi phí để làm giảm lợi nhuận và như thế thuế phải nộp sẽ ít đi. Tuy nhiên nếu được kiểm toán thì sai phạm này sẽ bị phát hiện và điều chỉnh. - Các cổ đông góp vốn kinh doanh hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp tuy không có trình độ để kiểm tra kỹ lưỡng bản BCTC, do đó khi có trên tay bản BCTC đã được KTV độc lập xác nhận là trung thực hợp lý thì họ có thể yên tâm ăn chia lợi tức và quyết định tiếp tục đầu tư hoặc không đầu tư vào doanh nghiệp đó. - Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay vốn cũng phải nắm chắc tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng để quyết định cho vay, thu hồi vốn hoặc không cho vay. KTV sẽ giúp ngân hàng hoặc những người cho vay làm việc đó. - Trong quan hệ kinh doanh các khách hàng có thể phát sinh những khoản nợ. Tuy nhiên nếu có BCTC của người mua hàng được KTV kiểm tra xác nhận là tốt thì người bán sãn sàng chấp nhận. Ngược lại xác nhận là tình hình tài chính khó khăn thì người mua khó có thể mua được hàng khi chưa có tiền. - Trong kinh tế thị trường người lao động có quyền lựa chọn nơi làm việc ổn định và có mức thu nhập cao. Bản BCTC của một doang nghiệp làm ăn có lãi được KTV xác nhận sẽ hấp dẫn được ngươì lao động cố chuyên môn trình độ và năng lực. 13 Những nhà đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi một BCTC được kiểm toán xác nhận về tình hình kinh doanh của của doanh nghiệp mà họ dự định đầu tư.Từ đó sẽ giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư nếu nhìn thấy được sự minh bạch, ổn định. - Các nhà quản trị doang nghiệp và các nhà quản lý khác cũng cần thông tin trung thực không chỉ riêng trên các bảng khai tài chính để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý, chỉ đạo và điều hành các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý. Những thông tin đó chỉ có được thông qua kiểm toán. Thứ hai, góp phần làm lành mạnh hóa các mối quan hệ tài chính. Hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) và hoạt động tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức ngày càng phức tạp, đa dạng bởi các quan hệ tài chính với lợi ích của con người. Để phản ánh được tất cả các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh các doanh nghiệp sử dụng nhiều phương pháp kỹ thuật rất đặc thù (như phương pháp chứng từ, phương pháp tổng hợp cân đối, phương pháp tài khoản, phương pháp tính giá…). Do đó, thông qua dịch vụ kiểm toán, khi phát hiện sai sót, KTV kiến nghị, thông báo cho các doanh nghiệp sửa chữa, khắc phục, tư vấn giúp doanh nghiệp, tổ chức quản lý và SXKD hiệu quả. Hoạt động kiểm toán không chỉ góp phần hoàn thiện công tác tài chính, kế toán cho doanh nghiệp nói riêng mà còn khắc phục, ngăn ngừa, hạn chế những hành vi không tuân thủ pháp luật và các quy định để tránh được những sai sót, góp phần minh bạch thông tin tài chính, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính. Thứ ba, tư vấn nghiệp vụ và góp phần nâng cao hiệu quả quản lý. Ngoài chức năng xác nhận thông tin tài chính, kiểm toán còn có chức năng tư vấn cho các đơn vị được kiểm toán nhằm phát hiện, ngăn ngừa và khắc 14 phục kịp thời các sai sót, hạn chế rủi ro. Điều này phát huy rất tốt ở các đơn vị thực hiện kiểm toán thường xuyên. Trong điều kiện hiện nay, khi hệ thống pháp lý đang trong quá trình hoàn chỉnh, kinh nghiệm, các doanh nghiệp kinh doanh trong bối cảnh cơ chế thị trường phức tạp, cạnh tranh gay gắt thì việc ổn định, duy trì kỷ cương, kinh doanh hiệu quả và phát triển đúng hướng là điều mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng mong muốn. Chính vì vậy, họ phải cố gắng sử dụng đồng bộ và hiệu quả các công cụ quản lý, đặc biệt là kiểm toán. Thông qua dịch vụ KTĐL, các KTV sẽ phát hiện ra các sai phạm, những yếu kém, hạn chế, để từ đó đưa ra các kiến nghị giúp nhà quản trị tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại trong quá trình kinh doanh. Những nhận xét của KTV sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót, lãng phí hoặc vi phạm pháp luật do cố ý hay vô ý để xử lý kịp thới hay ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro hay phát hiện ra thế mạnh những tiềm năng tài chính nội tại có trong doanh nghiệp. Ngoài ra, khi sử dụng dịch vụ KTĐL sẽ bảo vệ quyền lợi cho những người có liên quan và sử dụng thông tin của đơn vị được kiểm toán như: Chính phủ, cổ đông, ngân hàng, nhà đầu tư… và cũng rất hữu ích cho chính các nhà quản lý đơn vị được kiểm toán. Trong nền kinh tế thị trường, sự chi phối, ràng buộc lẫn nhau giữa các chủ thể làm cho các bên có liên quan quan tâm đến thông tin của đối tác, đặc biệt là thông tin tài chính. Các thông tin này cần được kiểm tra bởi KTV độc lập để tạo niềm tin cho những người sử dụng thông tin. 1.1.4 Các nhân tố tác động đến phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập Có nhiều nhân tố tác động đến sự phát triển dịch vụ KTĐL như: hành lang pháp lý, quy mô và nhu cầu của thị trường, lực lượng hành nghề, hội nghề 15 nghiệp về kiểm toán, cũng như chất lượng dịch vụ kiểm toán… Trong phạm vi luận văn này sẽ đưa ra 3 nhân tố chính tác động đến sự phát triển dịch vụ KTĐL như sau: Thứ nhất, đó là nhu cầu và yêu cầu từ thị trường đối với dịch vụ kiểm toán. Trong nền kinh tế kế hoạch thì thị trường không có đỏi hỏi về dịch vụ kiểm toán độc lập, nhà nước thực hiện kiểm tra, kiểm toán thông qua các cơ quan thanh, kiểm tra, kiểm toán của nhà nước. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế thị trường thì nhu cầu về minh bạch thông tin tài chính là rất lớn, nó có thể là nhu cầu bắt buộc phải thực hiện kiểm toán độc lập và cũng có thể do doanh nghiệp tự thấy cần phải có kiểm toán để lành mạnh hóa tình hình tài chính cũng như công bố thông tin một cách trung thực. Do vậy, phát triển dịch vụ KTĐL đi liền với nhu cầu của thị trường khi kinh tế có sự phát triển, nhiều quan hệ kinh tế trên thị trường. Thứ hai, một trong những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển dịch vụ là hành lang pháp lý cho việc thực hiện dịch vụ. Nó bao gồm các quy định của nhà nước về điều kiện kinh doanh, thành lập doanh nghiệp và các chuẩn mực hành nghề khi cung cấp dịch vụ. Các quy định về điều kiện kinh doanh, thành lập doanh nghiệp là những quy định bước đầu thành lập doanh nghiệp, đi vào hoạt động, và biện pháp quản lý nhà nước. Mặc dù đây là những quy định thể hình thành doanh nghiệp nhưng nếu quá chặt chẽ, không phù hợp với thực tế thì sẽ ảnh hướng xấu đến sự phát triển của DNKT. Các quy định về chuẩn mực kiểm toán là những quy định về dịch vụ KTĐL mà DNKT được cung cấp, cũng như cách thức thực hiện. Đây chính là biểu hiện của sự phát triển, thay đổi của của chính dịch vụ kiểm toán. Hiện nay chuẩn mực kiểm toán có thể áp dụng theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế hoặc mỗi quốc gia tự ban hành dự trên chuẩn mực quốc tế. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan