Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển công nghiệp văn hóa kinh nghiệm của nhật bản và bài học cho việt nam...

Tài liệu Phát triển công nghiệp văn hóa kinh nghiệm của nhật bản và bài học cho việt nam

.PDF
88
1132
76

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THU THỦY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA: KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC HÀ NỘI, 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THU THỦY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA: KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế học Mã số : 60.31.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN DUY DŨNG HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Duy Dũng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) trong đề tài mã số V1.2-2012.12. Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực, bảm đảm tính khách quan, khoa học và có xuất xứ rõ ràng. Tác giả Luận văn Phạm Thu Thủy LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã tận tình giảng dạy, trang bị những kiến thức quý báu và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành khóa học. Đặc biệt, em xin được bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Duy Dũng, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, người đã quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình em thực hiện và hoàn thành được đề tài nghiên cứu. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Lãnh đạo và toàn thể cán bộ Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á và những người thân đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn này. Mặc dù luận văn đã hoàn thành, nhưng chắc vẫn còn những hạn chế nhất định. Em kính mong nhận được ý kiến đóng góp chỉ bảo của các thầy giáo, cô giáo để luận văn của em được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thu Thủy MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA .......................... 9 1.1. Khái niệm về công nghiệp văn hóa ............................................................... 9 1.2. Quy trình sáng tạo và phân phối các sản phẩm công nghiệp văn hóa .............. 15 1.3. Vai trò của phát triển công nghiệp văn hóa ................................................ 17 1.4. Những yếu tố tác động đến sự phát triển của công nghiệp văn hóa ........... 20 1.5. Xu hướng phát triển công nghiệp văn hóa trên thế giới.............................. 23 Chƣơng 2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA Ở NHẬT BẢN28 2.1. Chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp văn hóa của Chính phủ Nhật Bản .. 28 2.2. Thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản ............................. 32 2.3. Vai trò của phát triển công nghiệp văn hóa đối với nền kinh tế Nhật Bản . 43 2.4. Những vấn đề tiếp tục đặt ra đối với phát triển công nghiệp văn hóa Nhật Bản ................................................................................................ 49 Chƣơng 3. PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA Ở VIỆT NAM VÀ GỢI Ý GIẢI PHÁP TỪ KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN ..................................... 52 3.1. Thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay .............. 52 3.2. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam .................................................................................................................... 67 3.3. Gợi ý giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam từ kinh nghiệm Nhật Bản ............................................................................................................. 69 KẾT LUẬN ..............................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................78 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt Công nghiệp văn hóa CNVH DCAJ Digital Content Association of Japan Hiệp hội nội dung số Nhật Bản DCMS Department for Culture Media & Sport Bộ Văn hóa, truyền thông và thể thao GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội IFPI The International Federation of the Liên đoàn Công nghiệp thu âm Phonographic Industry quốc tế Ministry of Economy, Trade and Bộ Kinh tế, Thương mại và Industry Công nghiệp METI NXB RIAJ Nhà xuất bản The recording Industry Association of Hiệp hội thu âm Nhật Bản Japan TCMN UNCTAD UNESCO Thủ công mỹ nghệ United Nations Conference on Trade and Hội nghị Liên hợp quốc về Development Thương mại và Phát triển United Nations Educational Scientific Tổ chức Giáo dục, Khoa học và and Cultural Organization Văn hóa của Liên hiệp quốc DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Cơ cấu các ngành công nghiệp văn hóa Nhật Bản ..................................... 33 Biều đồ 2.1: Xu hướng doanh thu của công nghiệp nội dung số .............................. 34 Biểu đồ 2.2 : Biến động doanh thu từ Manga từ năm 2004 – 2013 .......................... 36 Biều đồ 2.3: Doanh thu xuất khẩu công nghiệp Anime ............................................ 38 sang thị trường nước ngoài........................................................................................ 38 Bảng 2.2: Giá trị gia tăng và số lượng nhân công ..................................................... 48 Biểu đồ 2.4: Trung bình giá trị đóng góp trên từng nhân công................................. 49 trong các ngành công nghiệp..................................................................................... 49 Bảng 3.1: Đầu tư, nguồn vốn, cơ sở hạ tầng Ngân sách cấp cho các đoàn nghệ thuật Trung ương ................................................................................................................ 56 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày một gia tăng như hiện nay, “công nghiệp văn hóa” đã cho thấy sức mạnh tổng hợp của sự giao thoa giữa “kinh tế” và “văn hóa”. Thực tiễn phát triển công nghiệp văn hóa ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, tỉ trọng GDP mà các ngành công nghiệp văn hóa đem lại cho nền kinh tế nhiều khi còn vượt trội hơn so với nhiều ngành kinh tế truyền thống, tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp văn hóa hằng năm cao hơn ngành công nghiệp dịch vụ, sản xuất. Công nghiệp văn hóa được nhiều nước xác định như một lĩnh vực kinh tế chủ chốt, tạo ra ưu thế cạnh tranh, thúc đẩy sự đổi mới, cũng như tạo sự cân bằng, đa dạng hơn cho nền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy, công nghiệp văn hóa có khả năng góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, đồng thời khai thác tiềm năng kinh tế dồi dào trong vốn văn hóa truyền thống của mỗi quốc gia như di sản văn hóa vật chất và tinh thần, cảnh quan thiên nhiên, phong tục tập quán bản địa, đặc biệt là sức sáng tạo của văn nghệ sĩ cũng như quần chúng nhân dân. Việt Nam có 54 dân tộc anh em với kho tàng văn hóa truyền thống phong phú, đa dạng; bởi thế chúng ta cần phải biết tận dụng những tài sản quý báu này để phát triển đất nước, hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa. Nếu được phát huy thế mạnh vốn có, công nghiệp văn hóa có thể sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, đề cao lòng yêu nước, góp phần chống lại sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai, xây dựng chuẩn mực văn hóa quốc dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Cho đến nay, công nghiệp văn hóa ở Việt Nam phát triển khá chậm chạp. Nhận thức về bản chất và tầm quan trọng của lĩnh vực này vẫn còn chưa đầy đủ. Hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ văn hóa còn ở giai đoạn phát triển sơ khai chưa thích ứng tốt với cơ chế thị trường và dễ bị tổn thương trước sự cạnh tranh ngày một khốc liệt với các sản phẩm công nghiệp văn hóa nhập ngoại. Để tăng cường nội lực và tốc độ phát triển cho công nghiệp văn hóa trong nước thì ngoài việc tăng cường đầu tư, cải thiện hệ thống 1 chính sách, việc học hỏi kinh nghiệm phát triển của các nước đi trước để rút ra những bài học có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Trong khu vực Đông Á, Nhật Bản là một trong những quốc gia đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực phát triển công nghiệp văn hóa. Hiện nay công nghiệp văn hóa với các lĩnh vực nổi trội như phim hoạt hình, truyện tranh, game.. được chính phủ xếp ngang hàng cùng với những ngành công nghiệp trụ cột là công nghiệp chế tạo ô tô và công nghiệp điện tử, thể hiện sự kỳ vọng của Chính phủ Nhật Bản đối với những đóng góp to lớn của ngành này đối với nền kinh tế. Ngoài những nguồn lợi đến từ các sản phẩm văn hóa, ngành công nghiệp văn hóa còn tác động tới sự phát triển của các ngành công nghiệp sản xuất, xuất khẩu và dịch vụ khác. Bằng cách truyền tải cảm hứng, hình thành tình yêu, lòng mến mộ đất nước con người Nhật Bản, các sản phẩm văn hóa đã gián tiếp trở thành đòn bẩy kích cầu tiêu dùng hiệu quả các sản phẩm, hàng hóa Nhật Bản. Việt Nam và Nhật Bản có mối quan hệ giao lưu ngày càng phát triển, là đối tác chiến lược của nhau. Việt Nam và Nhật Bản tuy trình độ phát triển kinh tế có khác biệt nhưng về mặt văn hóa lại có nhiều nét tương đồng. Nhiều bài học phát triển mà Nhật Bản đã đi qua vẫn còn nguyên giá trị tham khảo với Việt Nam. Cũng vì vậy, việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản trong phát triển công nghiệp văn hóa là rất cần thiết và sẽ có giá trị rất thiết thực đối với Việt Nam. Chính vì vậy, học viên chọn “Phát triển công nghiệp văn hóa: Kinh nghiệm của Nhật Bản và bài học cho Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Những công trình nghiên cứu về lý luận chung công nghiệp văn hóa Trong số các công trình nghiên cứu về những vấn đề lí luận công nghiệp văn hóa đã công bố không thể không kể đến một số công trình nổi bật như Creative Industries của Jennifer Radbourne (2004) thuộc Queensland University, Austrlia. Trong công trình này, công nghiệp văn hóa được coi là “những hoạt động áp dụng sự sáng tạo, kỹ năng và sở hữu trí tuệ để sản xuất và phân phối các sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa xã hội và văn hóa”. Cuốn Bound to Lead: The Changing Nature of 2 American Power và (2005) “Soft Power: The Means To Success In World Politics” của tác giả Joseph Nye (1990), Nhà xuất bản PublicAffairs, Basic Books, New York khẳng định văn hóa được coi là nguồn “sức mạnh mềm” của một quốc gia, cùng với các ý tưởng chính trị và chính sách. Đặc biệt năm 2007, UNESCO đã đưa ra đưa ra thống kê và những nhận định tổng quát về tình hình phát triển công nghiệp văn hóa trên thế giới trong cuốn Statistics on Cultural Industries: Framework for the Elaboration of National Data Capacity Building Projects, UNESCO Asia and Pacific Regional Bureau for Education, Bangkok. Công trình này đã đưa ra khái niệm khái niệm rất đáng chú ý về công nghiệp văn hóa “ngành công nghiệp văn hoá là những ngành công nghiệp sản xuất sản lượng mỹ thuật và sáng tạo hữu hình hay vô hình, và là những ngành có tiềm năng tạo ra của cải và thu nhập thông qua việc khai thác các tài sản văn hoá và sản xuất các hàng hoá và dịch vụ dựa trên tri thức”. Tại Nhật Bản, việc nghiên cứu các vấn đề lí luận công nghiệp văn hóa cũng có rất nhiều công trình đáng chú ý tập trung vào những vấn đề lí luận như xác định khái niệm công nghiệp văn hóa và những chuyển biến trong nội hàm khái niệm do sự biến đổi của thực tiễn phát triển công nghiệp văn hóa. Ngoài một số ít ý kiến đồng quan điểm với Frederic P Miller, Agnes F Vadome, John McBrewster trong tác phẩm “Công nghiệp văn hóa” (Culture Industry) cho rằng công nghiệp văn hóa với sự sản xuất hàng loạt các sản phẩm văn hóa đã và đang làm “đại chúng hóa” và “méo mó” văn hóa bác học; phần đông học giả Nhật Bản trong các công trình nghiên cứu của mình đều chia sẻ quan điểm rằng công nghiệp văn hóa với việc sản xuất hàng loạt đã trở thành sản phẩm văn hóa đại chúng không thể thiếu trong thời hiện đại, là một ngành kinh tế quan trọng có ý nghĩa cả về mặt văn hóa và chính trị. Tại Việt Nam, từ những năm thập niên đầu thế kỷ XXI, lí luận về công nghiệp văn hóa đã từng bước được chú ý nghiên cứu; đặc biệt đã xuất hiện một số nghiên cứu về chủ đề này được xuất bản dưới dạng các giáo trình. Điển hình như cuốn “Một số nghiên cứu bước đầu về kinh tế học văn hoá” - Lê Ngọc Tòng (NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2004), “Các ngành công nghiệp văn hóa”- Phạm Bích 3 Huyền, Đặng Hoài Thu (NXB Lao Động, 2014) hay “Diện mạo và triển vọng của xã hội Tri thức”- Nguyễn Văn Dân (NXB Chính Trị Quốc Gia, 2015).... 2.2. Những công trình nghiên cứu về công nghiệp văn hóa Nhật Bản Trong số các công trình nghiên cứu về chủ đề này mà học viên có điều kiện tham khảo, phải kể đến nhà nghiên cứu Goto Kazuko. Trong công trình “Chính sách công cộng của văn hóa nghệ thuật” xuất bản năm 1996 và “Chính sách văn hóa” xuất bản năm 2001, ông đã phân tích vai trò của văn hóa, cũng như những thay đổi trong chính sách văn hóa của Chính phủ Nhật Bản. Trong công trình “Toàn cầu hóa và chính sách văn hóa” (グローバル化する文化政策)(2009), Tsuyoshi Kusa Shobo đã dành riêng chương 8 để bàn về chính sách phát triển ngành công nghiệp văn hóa của Nhật Bản, coi đây là ngành kinh tế trụ cột. Nghiên cứu chính sách đối với công nghiệp văn hóa của Nhật Bản cũng là chủ đề thường xuyên được các học giả quan tâm. Công nghiệp nội dung số là một lĩnh vực trọng tâm giành được nhiều sự quan tâm nhất. Lĩnh vực nội dung số ra đời dựa trên nền tảng phát triển kỹ thuật số hóa và mạng internet, sử dụng tài nguyên thông tin nhằm phục vụ quá trinh sáng tác, phát triển, phân phối, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm văn hóa trên phạm vi toàn cầu. Trong luận văn “Toward Sustainable Grouth of Content Industry” Yutaka Shigenobu đã chỉ rõ tầm quan trọng, ý nghĩa kinh tế, văn hóa và ngoại giao của công nghiệp nội dung số và những thảo luận nhằm đưa ngành công nghiệp này hướng theo con đường phát triển ổn định. Tác giả Kawashima Nobuko với tác phẩm “Lý luận về công nghiệp nội dung số: Kinh tế, luật pháp và quản lý văn hóa sáng tạo” đã quan tâm sâu sắc đến sự phát triển của lĩnh vực công nghiệp nội dung số trong thế kỷ XXI và những vấn đề chính sách quản lí sự phát triển của ngành công nghiệp đặc biệt này, ông đã phân tích những khuynh hướng phát triển của công nghiệp văn hóa, nhất là công nghiệp nội dung số. Trên cơ sở đó chỉ ra những hướng chiến lược trong chính sách của Chính phủ Nhật Bản đối với việc phát trỉên lĩnh vực công nghiệp đặc biệt này. Đáng chú ý, trong những năm gần đây, hàng năm, Bộ Kinh tế công nghiệp Nhật Bản, Cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) và các cơ quan hữu quan của Chính phủ đều có những báo cáo nghiên 4 cứu, đánh giá rất sát thực trạng phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa trong nước cũng như của các đối thủ cạnh tranh quốc tế như công nghiệp văn hóa của Mỹ, Anh, Hàn Quốc. Ở Việt Nam, về mảng đề tài nghiên cứu công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản, đến những năm 2000 mới bắt đầu có những bài viết ít nhiều đề cập đến chủ đề này tập trung ở các nhà nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, đặc biệt là của Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á. Đáng chú ý là từ năm 2009, đã có một số công trình nghiên cứu quốc tế ít nhiều liên quan đến lĩnh vực công nghiệp văn hóa của các nước Đông Bắc Á, trong đó có Nhật Bản, nhất là chiến lược đào tạo nhân tài cho sự phát triển của công nghiệp văn hóa của Nhật Bản; chiến lược gia tăng ảnh hưởng tới Châu Á của Nhật Bản qua chiến lược “Cửa ngõ Châu Á” (Đề tài cấp Nhà nước: “Sự phát triển về văn hóa và con người của một số nước Đông Á- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” do GS. Đỗ Tiến Sâm Viện Nghiên cứu Trung Quốc làm chủ nhiệm), chuyên đề cấp Viện về “Chính sách công nghiệp văn hóa của Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ XXI – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” do Ths. Hạ Thị Lan Phi (2010). Đáng chú ý là đã có những nghiên cứu được công bố dưới dạng sách chuyên khảo hoặc các bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á như: “Sự phát triển công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản và Hàn Quốc”- Phạm Hồng Thái (chủ biên, 2015) NXB Khoa Học Xã Hội; “Đối sách các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á về sự gia tăng quyền lực mềm” của tác giả Hoàng Minh Lợi; “Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa của Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ XXI” của tác giả Hạ Lan Phi, đăng rải rác trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á các năm từ 2011 đến nay... 2.3. Những công trình nghiên cứu về công nghiệp văn hóa của Việt Nam Ở Việt Nam, sự phát triển của công nghiệp văn hóa còn là một lĩnh vực mới mẻ. Mặc dù khoảng 10 năm trở lại đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã bắt đầu đề cập tới các chủ đề liên quan đến công nghiệp văn hóa nhưng chưa thực sự có những công trình nghiên cứu có tính toàn diện. Trong các năm từ 2008 - 2010, Viện Văn hóa Nghệ thuật bắt đầu có tổ chức một số cuộc hội thảo do tài trợ của tổ 5 chức nước ngoài về nhu cầu phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Từ năm 2008, đã bắt đầu thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Thành phố và cấp Bộ đề cập tới mảng đề tài công nghiệp văn hóa tại Việt Nam như đề tài nghiên cứu khoa học cấp Thành phố: “Nghiên cứu sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa của Thủ đô Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội – 01 X-12/01-2006-3) do PGS.TS. Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm. Năm 2010, đã có đề tài cấp thành phố “Công nghiệp văn hóa ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” do TS. Nguyễn Thị Hương thuộc Viện Văn hóa và Phát triển - Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm. Nhìn chung, việc nghiên cứu công nghiệp văn hóa ở nước ta qua những công trình trên vẫn chỉ dừng lại ở việc bàn thảo bước đầu, còn nghiên cứu về ngành công nghiệp này của Nhật Bản thì hầu như còn rất khiêm tốn, mới chỉ dừng lại ở khái quát về tình hình phát triển một số ngành của lĩnh vực công nghiệp văn hóa của quốc gia này. Như vậy có thể thấy, đây vẫn là mảng nghiên cứu chưa được đề cập đến một cách đầy đủ và có hệ thống, chưa đem lại cái nhìn đầy đủ và toàn diện về sự phát triển của ngành công nghiệp đặc biệt này ở Nhật Bản, quốc gia đang có mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam. Việc nghiên cứu quá trình phát triển công nghiệp văn hóa của Nhật Bản, đánh giá những thành tựu, ý nghĩa kinh tế và chính trị- văn hóa của nó và rút ra những bài học cũng như gợi mở xây dựng chính sách phát triển ngành công nghiệp này ở nước ta hiện nay là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lí luận về công nghiệp văn hóa, luận văn làm rõ những thành tựu và hạn chế của công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản, từ đó rút ra một số kinh nghiệm cho sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. 3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ một số vấn đề lí luận về công nghiệp văn hóa 6 - Phân tích quá trình phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản, trong đó làm rõ chính sách của chính phủ Nhật Bản đối với sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa - Đánh giá thành tựu và hạn chế của các ngành công nghiệp văn hóa Nhật Bản - Làm rõ thực trạng công nghiệp văn hóa Việt Nam và kinh nghiêm của Nhật Bản, từ đó đưa ra những gợi ý về phát triển lĩnh vực này ở nước ta. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Công nghiệp văn hóa Nhật Bản và Công nghiệp văn hóa Việt Nam 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển của công nghiệp văn hóa Nhật Bản chủ yếu từ khía cạnh kinh tế. Công nghiệp văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, trong khuôn khổ cho phép của một luận văn cao học, học viên tập trung phân tích một số lĩnh vực quan trọng nhất của công nghiệp văn hóa là các ngành công nghiệp nội dung số. Trong quá trình phân tích thực trạng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của Nhật Bản, Luận văn tập trung giai đoạn từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Để rút ra được những bài học cho Việt Nam, Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa của Việt Nam trong giai đoạn từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986) đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Sử dụng phương pháp phân tích so sánh để xem xét đánh giá vai trò của công nghiệp văn hóa đối với nền kinh tế Nhật Bản, thực trạng của công nghiệp văn hóa Việt Nam. - Sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê đánh giá dựa trên tư liệu từ các nguồn sách, báo, website và hội thảo để làm rõ nội dung nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Trên cở sở làm rõ một số vấn đề lí luận liên quan đến công nghiệp văn hóa, Luận văn đã phân tích chính sách của Chính phủ Nhật Bản trong lĩnh vực phát triển công nghiệp văn hóa; đồng thời đánh giá, làm rõ thực trạng, ý nghĩa, vai trò của công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản chủ yếu về phương diện kinh tế trong 7 những năm từ 2000 đến nay. Trên cơ sở đó, Luận văn phân tích thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam hiện nay và đưa ra một số gợi mở nhằm xây dựng các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trong thời gian tới. - Kết quả nghiên cứu luận văn là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu giảng dạy và xây dựng chính sách phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương 8 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA 1.1. Khái niệm về công nghiệp văn hóa 1.1.1. Công nghiệp văn hóa là gì Sự phát triển của các nền kinh tế tri thức và sự hiện đại hóa không ngừng của mạng lưới công nghệ thông tin đã cho phép con người dễ dàng toàn cầu hóa việc chia sẻ tri thức cũng như cảm xúc. Từ đây, hàng loạt sản phẩm văn hóa, nghệ thuật đã được sản xuất với khối lượng gia tăng và chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa ngày càng lớn của công chúng vượt lên mọi rào cản về địa lý. Sự bùng nổ của các sản phẩm văn hóa cũng như những tác động đa chiều của nó đến sự phát triển của nhiều quốc gia khiến cho người ta buộc phải thừa nhận vị trí trọng tâm của văn hóa trong một xã hội phát triển, coi văn hóa là mục đích, động cơ của sự phát triển cũng như là công cụ sắc bén để điều tiết xã hội... Từ đó, khái niệm công nghiệp văn hóa cũng trở thành một đề tài được quan tâm và bàn luận. Trước hết, cần phải khẳng định công nghiệp văn hoá xuất hiện từ thực tế vận động của sáng tạo văn hoá trở thành hoạt động sản xuất xã hội. Các sản phẩm văn hóa ban đầu được tạo ra đơn thuần để thỏa mãn nhu cầu sáng tạo cá nhân cũng như thể hiện cái tôi của người nghệ sỹ. Vì thế, về bản chất, nói đến sản phẩm văn hóa là nói đến những sáng tạo nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân, giàu tính độc đáo, đơn nhất, nó thể hiện cái tôi và toát lên khí chất và sự kiêu hãnh của người tạo ra nó. Khoảng nửa đầu thế kỷ XX, bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu sáng tạo cá nhân, các sản phẩm văn hóa manh nha được sử dụng như một loại hàng hóa để trao đổi, mua bán nhằm trang trải cuộc sống. Dần dần, lượng cung- cầu các sản phẩm này ngày càng tăng dẫn đến quy luật cạnh tranh tất yếu; từ đó đòi hỏi sự phát triển, thay đổi không ngừng của phương thức sản xuất cũng như sự kết hợp với khoa học công nghệ. Để bán được nhiều hơn, các sản phẩm văn hóa buộc phải đại chúng hơn, thích nghi được với thị hiếu của số đông người tiêu dùng. Vì thế, dần có sự chuyển mình âm thầm về bản chất của các sản phẩm văn hóa mà ở đó tính đơn lẻ cá biệt 9 trong những tác phẩm nghệ thuật không còn được đề cao, thay vào đó là tính đại trà, dễ thích nghi với nhiều đối tượng người tiêu dùng. Các sản phẩm văn hóa được ra đời hàng loạt kiểu này ban đầu được xem như một bước thụt lùi của sáng tạo văn hóa, là một biến thể méo mó, làm mất “chất” những sản phẩm văn hóa nguyên bản lúc ban đầu. Bởi vậy, khi khái niệm công nghiệp văn hóa lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1930 đã gây ra nhiều tranh cãi. Bản thân Theodor Adorno, một lý luận gia người Đức, người được cho là cha đẻ khai sáng ra thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa” ban đầu cũng quan niệm công nghiệp văn hóa giống như một cỗ máy sản xuất hàng loạt các sản phẩm văn hóa theo một tiêu chuẩn cố định và lôi kéo quần chúng vào một xã hội tiêu thụ và thụ hưởng văn hóa một cách thụ động [27, tr.9]. Thậm chí nhiều nhà văn hóa cho rằng công nghiệp văn hóa sẽ làm hạn chế tính tự do sáng tạo và cảm thụ con người. Nhiều quan điểm cùng thời cũng cho rằng công nghiệp văn hóa là biến tướng của dây chuyền sản xuất sản phẩm văn hóa hàng loạt nhằm “tẩy não”, lôi kéo quần chúng nhằm phục vụ cho các mục đích riêng của chủ nghĩa tư bản. Hay có quan điểm e ngại rằng công nghiệp văn hóa thực chất là sự “ xâm lăng văn hóa”, “áp đặt giá trị” đến từ các cường quốc công nghệ cao, có khả năng thống lĩnh thị trường tiêu thụ văn hóa. Một số nhà nghiên cứu thì cho rằng “ kinh tế” và ”văn hóa” là hai đường thẳng song song không hề có điểm chung, môt bên là giá trị vật chất, một bên là tinh hoa tâm hồn, áp đặt kinh tế và văn hóa vào cùng một phạm trù sẽ làm tầm thường hóa, vật chất hóa các giá trị văn hóa. Thực ra, những quan điểm nhấn mạnh vào mặt tiêu cực của công nghiệp văn hóa như trên không phải là vô căn cứ, nhất là khi hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm văn hóa là các hoạt động hoàn toàn vị kinh tế. C.Mác đã từng phê phán việc biến văn hóa thành sản phẩm công nghiệp phục vụ cho lợi ích kinh tế của giai cấp tư sản. Cho đến ngày nay, đây cũng vẫn là một mảng tối của công nghiệp văn hóa [19, tr.28-31]. Tuy nhiên, ngoài những khía cạnh tiêu cực, không thể phủ nhận công nghiệp hóa văn hóa đem lại rất nhiều tác động tích cực, bởi bản thân văn hóa có khả năng 10 tác động mạnh mẽ đến đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và phức tạp của xã hội. Sự phát triển của công nghiệp văn hóa góp phần tạo nên quá trình đa dạng hóa và dân chủ hóa về tri thức cho xã hội, đồng thời truyền bá sâu rộng những thông tin về nhiều lĩnh vực văn hóa, khuyến khích sáng tạo và bảo tồn văn hóa. Cùng với xu hướng hội nhập quốc tế cũng như tiến bộ của khoa học công nghệ, công nghiệp văn hóa dần dần thể hiện vai trò là “một tài sản chiến lược trong chính sách ngoại giao”, “một công cụ hữu hiệu cho tăng trưởng, đổi mới kinh tế” và là “yếu tố quan trọng trong thương mại và cạnh tranh quốc tế”. Ngày nay, “công nghiệp văn hóa” vẫn là một khái niệm mở, chưa có một định nghĩa thống nhất nào về thuật ngữ này. Cũng thật dễ hiểu bởi khó có thể đem một phạm trù trừu tượng như văn hóa ra để “định tính”, “định lượng”. Tuy vậy, khái niệm “công nghiệp văn hóa” được sử dụng rộng rãi nhất cho đến nay là của UNESCO đưa ra vào năm 2007. Đây là định nghĩa nhận được sự ủng hộ của các nhà nghiên cứu và quản lý nói chung, lĩnh vực văn hóa nói riêng “Công nghiệp văn hóa là các ngành sản xuất ra những sản phẩm vật thể và phi vật thể về nghệ thuật và sáng tạo, có tiềm năng thúc đẩy việc tạo ra của cải và thu nhập thông qua việc khai thác những giá trị văn hóa và sản xuất những sản phẩm và dịch vụ đưa vào tri thức (kể cả những giá trị văn hóa hiện địa và truyền thống. Điểm chung nhất của các ngành công nghiệp văn hóa là nó sử dụng tính sáng tạo, tri thức văn hóa và văn hóa” (UNESCO, 2007) [18, tr.16-22]; đơn giản hơn có thể hiểu “công nghiệp văn hóa” là “ngành công nghiệp biến các thành quả sáng tạo văn hóa thành hàng hóa thỏa mãn nhu cầu đa dạng của đại chúng…. Đặc trưng của công nghiệp văn hóa là dựa trên quá trình sáng tạo văn hóa và ứng dụng khoa học- công nghệ cao…. Sản phẩm công nghiệp văn hóa có sự kết hợp chặt chẽ giữa giá trị kinh tế và giá trị văn hóa, có sức lan tỏa không bị hạn chế bởi giới hạn biên giới, quốc gia.” 1.1.2. Một số khái niệm liên quan Trong những năm gần đây, khi ngành công nghiệp văn hóa ngày càng được phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới thì thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” cũng được đề cập trong nhiều nghiên cứu hay các văn bản pháp quy. Song song với đó, 11 có một số thuật ngữ khác cũng xuất hiện phổ biến và đôi khi được sử dụng thay thế cho thuật ngữ “công nghiệp văn hóa”. Đó là các thuật ngữ “công nghiệp sáng tạo” (The Creative Industries) và “công nghiệp nội dung số” (The Content Industries). Mặc dù các thuật ngữ này có liên quan và cùng chung một phạm trù sáng tạo nhưng bản chất vẫn có những sắc thái khác nhau cả về mặt ngữ nghĩa và nội hàm. - Công nghiệp sáng tạo Thuật ngữ “Công nghiệp sáng tạo“ xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng những năm 1990 tại Anh và Úc. Chính phủ Anh định nghĩa các ngành công nghiệp sáng tạo là : “Những ngành công nghiệp có nguồn gốc từ sự sáng tạo, kỹ năng và tài năng cá nhân, có khả năng tạo ra của cải và việc làm thông qua việc tạo ra và khai thác các sở hữu trí tuệ” (Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể thao Vương quốc Anh, 1997). Năm 1997, Chính phủ Anh đã xác định danh mục các ngành công nghiệp sáng tạo bao gồm 13 ngành là quảng cáo, kiến trúc, thịt trường nghệ thuật, đồ cổ, thủ công, thiết kế, thiết kế thời trang, điện ảnh và video, phần mềm giải trí tương tác, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phần mềm và các dịch vụ máy tính, truyền hình và phát thanh. Mười năm sau, năm 2007, các ngành này được xác định lại bao gồm 11 lĩnh vực: Quảng cáo, Kiến trúc, Thị trường nghệ thuật và đồ cổ, Thủ công, Thiết kế, Thiết kế thời trang, Phim, video và nhiếp ảnh, Âm nhạc, nghệ thuật thị giác và nghệ thuật biểu diễn, Xuất bản, Phần mềm, các trò chơi má tính và xuất bản điện tử, Truyền hình và phát thanh [28, tr.34] Tương tự, các học giả Úc cũng định nghĩa: “Các ngành công nghiệp sáng tạo là những hoạt động áp dụng sự sáng tạo, kỹ năng và sở hữu trí tuệ để sản xuất và phân phối các sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa xã hội và văn hóa”[32, tr.71] Như vậy, công nghiệp văn hóa dựa trên sự sáng tạo và tạo ra các giá trị mới. Theo các định nghĩa ở trên thì nguyên liệu đầu vào của các ngành công nghiệp sáng tạo là sự sáng tạo, kỹ năng, tài năng cá nhân và các sở hữu trí tuệ. Các nguyên liệu này được khai thác, sản xuất và tạo ra các sản phẩm có ý nghĩa xã hội và văn hóa. Các sản phẩm đầu ra là những giá trị sáng tạo và sở hữu trí tuệ mới. 12 Từ những định nghĩa trên, có thể thấy nếu như “công nghiệp văn hóa” nhấn mạnh đến các ngành công nghiệp đa dạng có tính sáng tạo bắt nguồn từ những di sản, tri thức truyền thống và các yếu tố nghệ thuật sáng tạo, thì “công nghiệp sáng tạo” nhấn mạnh vào sự sáng tạo cá nhân, sự đổi mới, cách tân, những kĩ sảo, kỹ năng trong việc khám phá tính đa dạng của tri thức. Như vậy, nói đến “ công nghiệp văn hóa”, đặc tính “ văn hóa” và yếu tố truyền thống thường được nhấn mạnh hơn đặc tính” sáng tạo”. “Công nghiệp sáng tạo” có trọng tâm là các ngành công nghiệp văn hóa nhưng không bị giới hạn bởi những ngành này; nghĩa là “ Công nghiệp sáng tạo” hàm nghĩa rộng hơn, có thể bao gồm các ngành kinh tế ít mang nội hàm văn hóa nhưng nặng tính sáng tạo như thiết kế công nghiệp, thiết kế phần mềm, báo chí... nhấn mạnh hơn vào các hoạt động có tính sáng tạo và hữu ích. Nói một cách khác, “công nghiệp văn hóa” là một bộ phận của “ công nghiệp sáng tạo” - Công nghiệp nội dung số Công nghiệp nội dung số là một lĩnh vực trọng tâm trong phạm trù công nghiệp văn hóa, ra đời dựa trên nền tảng phát triển kỹ thuật số hóa, và mạng internet; sử dụng tài nguyên thông tin nhằm phục vụ quá trình sáng tác, phát triển, phân phối, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm văn hóa trên phạm vi toàn cầu. Các sản phẩm của công nghiệp nội dung số thường thuộc phạm trù văn hóa giải trí và có sức lan tỏa vô cùng manh mẽ như điện ảnh, ca nhạc, truyện tranh, phim hoạt hình, nghệ thuật biểu diễn, game, show truyền hình, nhân vật sự kiện...Với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin, công nghiệp nội dung số luôn đi đầu bắt kịp hay thậm chí là tạo ra các sản phẩm mang tính định hướng cho các trào lưu của giới trẻ. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, ngành công nghiệp nội dung số trong thời gian tới sẽ ngày càng khẳng định vài trò to lớn đối với sự phát triển đời sống kinh tế- xã hội song hành với sự phát triển của công nghệ thông tin và internet. Vì vậy, đầu tư phát triển công nghiệp nội dung số là một việc làm cần thiết, là một sự chuẩn bị sẵn sàng cho xây dựng nền kinh tế tri thức. Hiện nay ở Nhật Bản, khi nói đến công nghiệp văn hóa, người ta chú trọng tới lĩnh vực công nghiệp nội dung số nhiều hơn. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan