VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN HÀ LÊ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM QUA CÁC CHỈ SỐ
Chuyên ngành: KINH TẾ HỌC
Mã số
: 60.31.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Trần Đình Thiên
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Trần Đình Thiên. Mọi trích dẫn đều được ghi xuất xứ rõ ràng; các
nội dung, dữ liệu trong luận văn này đều là trung thực. Nếu có gì sai sót tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ CÁC CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI ................................................................................................................. 6
1.1. Phát triển con người ...................................................................................... 6
1.2. Thước đo phát triển con người .................................................................... 13
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM QUA
CÁC CHỈ SỐ ...................................................................................................... 31
2.1. Khái quát về con người Việt Nam. ............................................................. 31
2.2 Thành tựu phát triển con người ở Việt Nam qua các chỉ số ........................ 32
2.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế phát triển con người Việt Nam qua các chỉ
số ........................................................................................................................ 41
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỚI ........................................................................... 60
3.1. Quan điểm về phát triển con người ở Việt Nam ......................................... 60
3.2. Một số giải pháp cơ bản thúc đẩy phát triển con người ở Việt Nam giai đoạn tới.
............................................................................................................................ 61
KẾT LUẬN……………………………………………………………………67
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….68
DANH MỤC VIẾT TẮT
UNDP: Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc
HDR: Báo cáo Phát triển con người.
HDRO: Văn phòng báo cáo phát triển con người
VHLKHXHVN: Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam
TCTK: Tổng cục Thống Kê
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH ẢNH
STT
1
Bảng, hình
Bảng 1.1: Giá trị tối đa và tối thiểu các chỉ số thành phần HDI
Trang
15
(trước báo cáo phát triển con người năm 2010)
2
Bảng 1.2: Giá trị tối đa và tối thiểu các chỉ số thành phần HDI
16
(Báo cáo phát triển con người năm 2010)
3
Bảng 2.1: Tỷ lệ hộ nghèo Việt Nam giai đoạn 2001-2014
33
4
Bảng 2.2: Chỉ số HPI của Việt Nam 1997-2009
34
5
Bảng 2.3: Tiếp cận các điều kiện sống cơ bản
35
6
Bảng 2.4: Chỉ số phát triển giới của Việt Nam qua các năm
38
7
Bảng 2.5: Chỉ số HDI và GII của một số quốc gia đông Á và đông
39
nam á
8
Bảng 2.6: Chỉ tiêu thành phần của chỉ số bất bình đẳng giới một số
40
nước trong khu vực năm 2014
9
Bảng 2.7: Thứ hạng HDI của Việt Nam qua các năm
43
10
Bảng 2.8: Giá trị và thứ hạng HDI của một số quốc gia trong khu vực
44
năm 2014
11
Bảng 2.9: Sự chênh lệch thứ bậc thu nhập và thứ bậc HDI của Việt
45
Nam năm 1990-2013
12
Bảng 2.10: Bảng các chỉ tiêu thành phàn của chỉ số giáo dục ở Việt
46
Nam
13
Bảng 2.11: Số năm đi học trung bình của một số quốc gia trong khu
46
vực năm 2014
14
Bảng 2.12: Tuổi thọ bình quân của một số quốc gia trong khu vực
49
năm 2014
15
Bảng 2.13: GNI bình quân đầu người ngang giá sức mua của một số
51
quốc gia trong khu vực năm 2014.
16
Bảng 2.14: Đóng ghóp của các thành tố trong HDI của một số quốc
gia trong khu vực giai đoạn 2000-2014
52
17
Bảng 2.15: Thu nhập bình quân đầu người và chênh lệch thu nhập của
53
Việt Nam
18
Bảng 2.16: Thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng chia theo nguồn
54
thu của nhóm ngũ phân giàu nhất và nhóm nghèo nhất.
19
Bảng 2.17: Hệ số Gini của một số nước trong khu vực.
56
20
Hình 1.1: Đường cong Lorenz
29
21
Hình 2.1: HDI của việt Nam 1990-2014
42
22
Hình 2.2 HDI của Việt Nam và một số nước
44
23
Hình 2.3: Tuổi thọ bình quân của Việt nam qua các năm
58
24
Hình 2.4: GDP(GNI)bình quân đầu người (PPP USD) của Việt Nam
51
qua các năm.
25
Hình 2.5: Hệ số Gini của Việt Nam qua các năm
55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc năm 1990 đã nhấn
mạnh “con người là của cải của mỗi quốc gia”[29, tr.3]. Vào thời điểm đó, nó là
một sự khởi đầu mới mẻ làm thay đổi về cách nhìn nhận về sự phát triển của một
quốc gia. Và thực tế, theo thời gian đã chứng minh, sự đúng đắn về quan điểm phát
triển: hướng tới sự phát triển con người, mục đích cuối cùng của các các quốc gia là
phát triển con người.
Tuy nhiên, quan điểm phát triển con người và bộ chỉ tiêu đo lường phát triển
con người cũng liên tục thay đổi và dần được hoàn thiện. Trước đây, người ta đánh
giá sự phát triển của một quốc gia chủ yếu thông qua GDP, GNP hay GNI bình quân
đầu người, nhưng chỉ số này chưa phản ảnh đầy đủ và chính xác về phúc lợi mà
người dân nhận được. Nó chỉ là một trong những cơ sở, những tiêu chí để đánh giá
trình độ phát triển kinh tế nói chung của một quốc gia. Từ thực tế đó, các chỉ tiêu
khác được hình thành để đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện chính xác phúc lợi con
người nhận được trong quá trình phát triển hay nói cụ thể đó là các chỉ tiêu đánh giá
phát triển con người của một quốc gia. Trong đó, chỉ chỉ số Phát triển con người với
ba chỉ số hợp phần là thu nhập, giáo dục, y tế là một chỉ tiêu tương đối tổng hợp
đánh giá toàn diện phát triển con người. Tuy nhiên nói về phát triển con người không
thể không nói đến các vấn đề về bất bình đẳng giới, bất bình đẳng về phân phối thu
nhập. Bởi thế, Liên hợp quốc đã xây dựng bộ chỉ số bất bình đẳng giới và hệ số đo
bất bình đẳng về phân phối thu nhập. Các nhà nghiên cứu vẫn không ngừng nỗ lực
hoàn thiện các chỉ số, các tiêu chí đánh giá phát triển con người của các Quốc gia.
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam không nằm ngoài xu hướng chung
của thế giới. Lấy con người là trung tâm của sựu phát triển là tôn chỉ. Là mục đích
hành động của Đảng và Nhà nước ta. Điều đó luôn được khẳng định và thực hiện
thông qua các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Luôn đặt mục tiêu phát triển con người lên hàng đầu trong quá trình phát triển.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc đánh giá phát triển con người ở Việt nam
để từ đó có thể đưa ra những quyết sách đúng đắn trong quá trình phát triển, tôi đã
1
chọn đề tài “Phát triển con người ở Việt nam qua các chỉ số” làm luận văn cao học,
chuyên ngành Kinh tế học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử, các nhà triết học đã bàn nhiều đến vấn đề con người. Họ quan
tâm đến khía cạnh xã hội cũng như mục tiêu cuối cùng của sự phát triển là phát triển
con người. Tuy nhiên, đa số các nhà triết học và nhiều trường phái triết học, mặc dù
đề cao con người, nhưng vẫn chưa đặt vấn đề lượng hóa để đo lường sự phát triển
con người trong thực tiễn.
Đến năm 1990, lần đầu tiên Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc
(United Nation Development Programme-UNDP) đưa ra quan điểm và bắt đầu tiến
hành lượng hóa “phát triển con người” (Human development) một cách có hệ thống.
Điều này được thực hiện ngay trong Báo cáo lần đầu tiên về Phát triển Con người.
Người đề xuất và phát triển khái niệm này là kinh tế gia người Pakistan Mahbuh al
Haq. Trong báo cáo này, chỉ số phát triển con người HDI (Human development
Index) được coi là công cụ hữu hiệu để đo lường sự phát triển con người ở các quốc
gia. Kể từ đó đến nay, Báo cáo Phát triển Con người hàng năm (Human
Development Report-HDR) của UNDP được xuất bản để đánh giá những thành tựu
cũng như hạn chế của các Quốc gia trong nỗ lực phát triển con người. Báo cáo cũng
phân tích những cơ hội và thách thức đặt ra, nêu cách nhìn khái quát về sự tiến bộ và
văn minh của nhân loại.
Đây là vấn đề khá mới mẻ, đã được nhiều nhà khoa học ở Việt Nam nghiên
cứu với nhiều góc độ khác nhau:
- Một số nhà khoa học đã nghiên cứu về phát triển con người nhưng chủ yếu
với vai trò là nguồn nhân lực, coi con người là nguồn lực cơ bản của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Có thể nêu một số công trình: “Nghiên cứu con
người, đối tượng và những phương hướng chủ yếu” (2002) do Phạm Minh Hạc và
Hồ Sỹ Quý chủ biên, nhà xuất bản Khoa học xã hội; “con người và phát triển con
người” (2007) Hồ Sỹ Quý, nhà xuất bản Giáo dục; “Phát triển bền vững con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế” (2015) do TS Đào Thị Minh Hương chủ nhiệm.
2
- Cũng có một số nhà khoa học nghiên cứu các khía cạnh khác nhau hay các
chính sách tác động đến phát triển con người như chính sách giáo dục, y tế, chính
sách xóa đói giảm nghèo…từ đó đề ra những giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển con
người trong quá trình phát triển. Có thể kể ra các công trình như: “Xây dựng con
người và phát triển văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế” (2010) do
GS.TS Dương Phú Hiệp làm chủ nhiệm;
- Các Báo cáo phát triển con người do Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã hội Việt
Nam (VHLKHXHVN) chủ trì thực hiện, phối hợp với UNDP từ 2001. Cho đến nay
VHLKHXHVN đã công bố 4 báo cáo phát triền của con người Việt Nam đó là báo
cáo năm 2001, báo cáo năm 2006 (“Phát triển con người Việt nam 1999-2004:
những thay đổi và xu hướng chủ yếu”), báo cáo năm 2011 và báo cáo năm 2015
(“Tăng trưởng vì mọi người”).
Nhìn chung, các nghiên cứu đã khẳng định tầm quan trọng của phát triển con
người trong quá trình phát triển cũng như việc xây dựng hệ thống chính sách có tác
động mạnh mẽ trong quá trình hướng tới mục tiêu phát triển vì con người. Song, do
yêu cầu lý luận cũng như thực tiễn về việc nghiên cứu có hệ thống và đầy đủ về phát
triển con người cũng như những thước đo phát triển con người, từ đó phân tích thực
trạng phát triển con người ở Việt Nam thời gian qua và đưa những giải pháp thúc đẩy
phát triển con người trong thời gian tới. Theo hướng nghiên cứu này tôi đã chọn đề
tài “Phát triển con người ở Việt nam qua các chỉ số” làm luận văn thạc sĩ trên cơ sở
kế thừa các giá trị các công trình đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở bước đầu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
phát triển con người ở Việt nam thông qua các nhóm chỉ số: chỉ số phát triển con
người, chỉ số nghèo đa chiều, chỉ số phát triển giới, chỉ số bất bình đẳng về phân
phối thu nhập, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển con người ở
Việt Nam trong giai đoạn tới.
Nhiệm vụ: Để dạt được mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, Đề tài làm rõ những vấn đề chung về phát triển con người và các thước
đo, chỉ số cơ bản đo lường phát triển con người.
3
Thứ hai, phân tích phát triển con người ở Việt Nam qua các chỉ số, từ đó đánh giá
những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của
những hạn chế đó.
Thứ ba, từ thực trạng về phát triển con người qua các chỉ số đó, đề tài đề xuất
kiến nghị về những giải pháp thúc đẩy phát triển con người ở Việt Nam trong giai
đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề phát triển con người ở
Việt Nam qua các chỉ số.
Việc đánh giá phân tích phát triển con người ở Việt nam này thông qua các
chỉ số như: chỉ số phát triển con người và các chỉ số thành phần; chỉ số nghèo đa
chiều; chỉ số phát triển giới, chỉ số bất bình đẳng về phân phối thu nhập.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu phát triển con
người ở Việt Nam qua bốn thước đo cơ bản là chỉ số phát triển con người (HDI), các
chỉ số đo bất bình giới, Chỉ số nghèo khổ tổng hợp, chỉ số đo bất bình đẳng thu nhập
trong giai đoạn 1990-2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng về phát triển và tiến bộ xã hội,
trong đó có phát triển con người. Bên cạnh đó sử dụng quan điểm, nguyên tắc và hệ
thống tiêu chí đánh giá phát triển con người của Liên Hiệp Quốc để phân tích đánh
giá thực trạng phát triển con người và các vấn đề liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, đối chiếu,
so sánh…để giải quyết mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn trình bày có hệ thống quan điểm về phát triển con người cũng như
tổng hợp các thước đo cơ bản đo lường phát triển con người
4
- Đánh giá thực trạng phát triển con người qua các chỉ số qua các thời kỳ,
cũng như phân tích những thành tựu và những hạn chế còn tồn tại, so sánh với phát
triển con người ở các quốc gia trong khu vực.
- Từ việc phân tích thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp thúc đẩy phát
triển con người ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ quá trình nghiên cứu, học
tập và giảng dạy các vấn đề liên quan đến phát triển con người. Đồng thời các nhà
quản lý có thể tham khảo cho việc đề ra các chính sách phát triển con người ở Việt
nam trong giai đoạn tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương:
- Chương 1: Phát triển con người và các chỉ số phát triển con người
- Chương 2: Thực trạng phát triển con người ở Việt Nam qua các chỉ số
- Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy phát triển con người Ở Việt Nam giai
đoạn tới.
5
Chương 1
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ CÁC CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
1.1. Phát triển con người
1.1.1. Con người
Phạm trù con người đã được nghiên cứu rất nhiều trong mỗi giai đoạn lịch sử
phát triển con người. Mỗi thời điểm, mỗi vùng lãnh thổ các nhà triết học có các quan
niệm khác nhau về con người về bản chất con người. Kế thừa có phê phán và phát
triển trên những quan niệm của những nhà triết học đi trước, triết học Mac-Lê nin có
những nghiên cứu và lý luận về con người một cách đầy đủ hoàn diện và hoàn thiện
hơn. Điểm xuất phát để nghiên cứu con người của triết học Mác là con người trong
hoạt động thực tiễn, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó. Triết học Mác đã đưa ra
các quan niệm khoa học về con người như sau:
* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại con
người. Vì vậy có thể nói: Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người; con người là
một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hóa lâu dài của
môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, điều cần khẳng định, mặt tự nhiên không phải là yếu
tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông
qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
phục vụ đời sống của mình, hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập
quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của
con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Với quan
điểm duy vật biện chứng, có thể thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội,
cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt
sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất
để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang
6
giá trị văn minh loài người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi
tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau
để tạo thành con người, con người tự nhiên-xã hội.
* Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Từ những vấn đề trên, Mác đã rút ra bản chất của con người là tổng hòa những
mối quan hệ xã hội. Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác
nhau: Quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con
người, cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ
xã hội giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả mối quan hệ khác.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C. Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng
trong tác phẩm Luận cương về Phoi ơ bach: “bản chất con người không phải là một
cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”[7, tr .52]. Mác đặc biệt nhấn mạnh
“trong tính hiện thực” khi phân tích bản chất của con người, bởi vì luận điểm xuất
phát của Mác là luận điểm cho rằng xét về thực chất, quá trình hình thành và phát
triển đời sống con người là hoạt động sản xuất, hoạt động thực tiễn của con người.
Còn các quá trình tư tưởng-tinh thần là sự thể hiện của đời sống thực tiễn mang tính
khách quan của con người. Để nhận thức đúng đắn về con người, về bản chất của con
người, mối quan hệ: Tự nhiên-Con người-Xã hội thì phải xem xét con người với tư
cách là tính con người hiện thực, con người với đời sống xã hội hiện thực của nó, với
sự phát triển lịch sử của nó.
Con người là một thực thể hiện thực, thực thể sinh học-xã hội và trong tính
hiện thực ấy, “bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Quan hệ
xã hội đây được hiểu là tổng thể những quan hệ mà con người đã có, đang có và
trong chừng mực nào đó nó còn bao hàm cả những quan hệ trong tương lai. Các quan
hệ xã hội của loài người bao gồm hai loại quan hệ: Quan hệ vật chất (quan hệ sản
xuất) và quan hệ tư tưởng (Quan hệ chính trị, pháp luật, đạo đức…) trong đó quan hệ
cật chất quyết định quan hệ tư tưởng. Bản chất của con người không phải là cái gì
nhất thành bất biến mà luôn vận động phát triển, thích nghi với hoàn cảnh-điều kiện
7
sống và gắn liền với phương thức sản xuất. Chính vì vậy thời đại nào thì sản sinh ra
con người của thời đại ấy.
Khẳng định bản chất xã hội củ con người không có nghĩa là phủ nhận mặt tự
nhiên trong đời sống của con người. Ở con người mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống
nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh học ở con người
cũng mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt
tự nhiên, mặt sinh học ở con người.
* Con người là chủ thể là sản phẩm của lịch sử.
Không có thể giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của thế giới hữu
sinh. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn là chủ thể cỉa lịch sử-xã
hội. Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động tự nhiên,
cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Thế giới loài vật dựa vào điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông
qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, thay đổi tự
nhiên theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử cũng chính là chủ thể sang tạo ra lịch sử của chính bản
than con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm
bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần,
thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với nhu cầu, mục tiêu do con người
đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội và do
đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Bản chất con người luôn luôn vận động biến đổi trong mối quan hệ với điều kiện
lịch sử. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở,
tương ứng với các điều kiện tồn tại của con người. Con người có vai trò tích cực trong tiến
trình lịch sử với tư cách là chủ thể sang tạo. Thông qua đó, bản chất của con người cũng
8
vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử
sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
1.1.2. Khái niệm phát triển con người
Những thập kỷ gần đây, phát triển kinh tế đã trở thành động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sự tiến bộ của nhiều quốc gia trên thế giới. Trước đây, các quốc gia đã đặt mục
tiêu tăng trưởng kinh tế lên hàng đầu và coi tăng trưởng là chìa khóa của mọi sự phát
triển. Xuất phát từ quan điểm đó trong một thời gian dài khi đánh giá về sự phát triển
của mỗi quốc gia hay mỗi cộng đồng người ta thường dựa vào các chỉ số kinh tế như
tốc độ tăng trưởng hay các chỉ số về tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân
Trên thực tế, kinh tế đóng một vai trò quan trọng là một điều không thể phủ nhận. Vì
tăng trưởng kinh tế là cơ sở là điều kiện cần để cải thiện và nâng cao mức sống của
dân cư. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào các chỉ số kinh tế để đánh giá sự phát triển của mỗi
quốc gia hay cộng đồng thì không thể phản ảnh được đầy đủ các mặt trong đời sống xã
hội của con người trong quốc gia hay nói cách khác nó không phản ánh được các phúc
lợi mà con người nhận được trong quá trình phát triển. Vì tăng trưởng kinh tế chỉ bó
hẹp trong quan hệ kinh tế và nhu cầu vật chất, con người còn có nhiều nhu cầu khác
như chăm sóc sức khỏe, học tập hiểu biết, được tiếp cận thông tin, sống cuộc sống
bình đẳng…Xuất phát từ những bất cập đó, những năm cuối thế kỷ XX, các nhà khoa
học trên thế giới bắt đầu nghiên cứu để tìm ra cách tiếp cận mới có thể phản ánh đầy
đủ hơn về sự phát triển. Một trong những cách tiếp cận được cộng đồng quốc tế chấp
nhận và phản ánh khá bao quát và toàn diện về quá trình phát triển đó là cách tiếp cận
dựa vào phát triển con người.
Năm 1990, Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) xuất bản Báo cáo
Phát triển con người (Human Development Report-HDR) với nhan đề “Mục tiêu duy
nhất là đặt lại con người vào trung tâm của sự phát triển”, đánh dấu một bước quan trọng
trong việc khẳng định vai trò của con người trong quá trình phát triền. Trong báo cáo này
đã thể hiện rõ cách nhìn nhận thấu đáo và toàn diện hơn về sự phát triển của các quốc gia,
nhấn mạnh mục đích cuối cùng của sự phát triển là phát triển con người. UNDP đã đưa ra
tuyên ngôn đầy ấn tượng “của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia
9
đó. Và mục đích của phát triển là để tạp ra một môi trường thuận lợi cho phép con người
được hưởng cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh, sang tạo”[29, tr. 3]
UNDP đưa ra khái niệm về phát triển con người trong Báo cáo Phát triển con
người như sau: “Phát triển con người là quá trình nhằm mở rộng sự lựa chọn của quần
chúng” [29, tr. 4]. Về nguyên tắc sự lựa chọn này là vô hạn và có thể thay đổi theo thời
gian. Tuy nhiên ở các cấp độ phát triển, có ba nhu cầu cơ bản: Có cuộc sống khỏe mạnh,
sống trường thọ; được học tập và hiểu biết và có nguồn lực cần thiết cho một mức sống
tốt. Song, phát triển con người không dừng lại đó. Sự lựa chọn của dân chúng được đánh
gái cao bao gồm sự tự do kinh tế, xã hội chính trị để con người có được các cơ hội trở
thành người lao động sang tạo, có năng suất, được tôn trọng cá nhân và được bảo đảm
quyền con người. Như vậy phát triển con người gồm hai mặt: Một là sự hình thành các
năng lực của con người và mặt khác là việc sử dụng các năng lực con người đã tích lũy
được cho các hoạt động kinh tế, xã hội. Như vậy, thì thu nhập không phải là tất cả của
cuộc sống con người, mục đích của cuộc sống con người, mục đích của phát triển là mở
rộng mọi sự lựa chọn của con người chứ không phải thu nhập.
Bên cạnh đó, UNDP cũng phân tích các khía cạnh chủ yếu của phát triển con
người như sau:
Thứ nhất, mục tiêu của sự phát triển là vì con người, là nâng cao mức sống vật
chất và tinh thần một cách hiệu quả toàn diện chứ khôn phải chỉ là sự gia tăng đơn
thuần về của cải vật chất. Ở đây, tăng trưởng kinh tế chỉ là cơ sở là điều kiện cần để
nâng cao cải thiện đởi sống dân cư chứ không phải là mục tiêu cuối cùng của sự phát
triển. Nhìn vào thực tế của các nước trên thế giới, có thể thấy tăng trưởng kinh tế
không đồng nghĩa với việc cải thiện đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân, hay
nói cách khác không hoàn toàn trực tiếp đồng nhất với phát triển con người. Bản thân
tăng trưởng kinh tế chưa hẳn kích thích sự phát triển con người mà vấn đề có ý nghĩa
quyết định là sử dụng các thành quả của tăng trưởng kinh tế đầu tư vào phát triển con
người như thế nào.
Thứ hai, phát triển con người phải được xem xét toàn diện, trên tất cả các mặt,
các lĩnh vực đời sống xã hội. Cách tiếp cận này nhấn mạnh đến việc mở rộng sự lựa
chọn cho con người trong quá trình phát triển trong tất cả lĩnh vực của đời sống - kinh
10
tế, giáo dục, y tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa... chứ không chỉ giới giạn trong một
phạm vi hẹp nào.
Bên cạnh đó, cách tiếp cận toàn diện còn chú ý đến toàn thể người dân tức tất
cả các tầng lớp người không phân biệt chủng tộc, giới tính, giai cấp, tôn giáo,…nó
hướng tới việc tạo ra bình đẳng về cơ hội cho tất cả mọi người, đồng thời quan tâm
đến việc phân bổ nguồn lực công bằng cho toàn thể dân cư. Ngoài ra, còn quan tâm
đến cả những nhóm người dễ bị tổn thương như người nghèo, người tàn tật, người dân
tộc thiểu số, cư dân miền núi…từ đó tạo điều kiện để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu và
đảm bảo bình đẳng với các tầng lớp người khác trong xã hội.
Theo quan điểm phát triển con người toàn diện này, phát triển con người phải
đảm bảo tính bền vững. Điều đó có nghĩa rằng, phát triển ở hiện tại phải đảm bảo
không gây tác động tiêu cực đến các thế hệ tương lai. Đó là sự quan tâm đến lợi ích
của thế hệ này không bỏ qua thế hệ tương lai, đảm bảo các điều kiện cho sự phát triển
thế hệ sau.
Thứ ba, phát triển con người ở đây nhất mạnh đến cơ hội tham gia của tất cả
mọi người vào quá trình phát triển. Tất cả các thành viên trong xã hội đều có cơ hội
tham gia vào các hoạt động, sự kiện và được quyết định các công việc có tác động tới
công việc của họ.
Như vậy, có thể thấy quan điểm về phát triển con người của UNDP là quan
điểm toàn diện đã bao quát được các mặt của sự phát triển con người, quan điểm này
nhấn mạnh cần phải mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho mỗi
người. Với quan điểm này, UNDP đã đưa ra một cách tiếp cận mới về phát triển nói
chung và phát triển con người nói riêng một cách khá chi tiết, trong đó con người được
coi là thước đo đánh giá sự tiến bộ xã hội và là mục tiêu tối thượng mà mỗi quốc gia
mối cộng đồng hướng tới.
Trên cơ sở các quan niệm về phát triển con người đã phân tích, Luận văn quan
niệm: Phát triển con người là quá trình nhằm mở rộng sự lựa chọn cho con người.
Trong đó những nhân tố chủ yếu của quá trình này chính là dẫn tới một cuộc sống
mạnh khỏe, trường thọ, được giáo dục và hưởng thụ một cuộc sống đầy đủ và đảm bảo
11
những vấn đề về bình đẳng giới, bình đẳng thu nhập. Và bên cạnh đó những lựa chọn
khác bao gồm tự do chính trị bảo đảm nhân quyền.
1.1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển con người
Có rất nhiều nhân tố tác động đến phát triển con người của một quốc gia. Tuy
nhiên, trong bối cảnh hiện nay, có thể thấy nổi lên một số nhân tố cơ bản sau:
Một là, trình độ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trình độ phát triển kinh
tế-xã hội là nền tảng quan trọng để nâng cao trình độ phát triển con người của một
quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là điều điện cần, là cơ sở để nâng cao cải thiện đời sống
của cư dân, từ đó nâng cao chất lượng phát triển con người. Hay nói cách khác trình độ
phát triển kinh tế-xã hội là tấm gương phản chiếu chính xác, trung thực mối quan hệ
biện chứng giữa phát triển kinh tế-xã hội và phát triển con người. Kinh tế tăng trưởng
và phát triển tạo điều kiện thuận lợi để phát triển con người, Ngân sách nhà nước nói
chung và nguồn kinh tế dư thừa trong hộ gia đình nói riêng không ngừng tăng lên, con
người có điều kiện đầu tư nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ đó giảm được tỷ lệ
nghèo, đói ở quốc gia
Hai là, Giáo dục và đào tạo, Tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa của liên
hợp quốc đã khẳng định: Giáo dục là của cải nội sinh. Kết quả của giáo dục là nguồn
sức mạnh nội lực của chính bản than mỗi cá nhân nhưng hiệu ứng và tính lan tỏa do
kết quả ấy mang lại thì có tầm vóc toàn xã hội, tạo ra phúc lợi toàn dân. Trí tuệ và
năng lực sáng tạo là yếu tố quyết định trong quá trình phát triển. Do đó, đầu tư cho
giáo dục luôn được coi là “quốc sách hàng đầu”. Sự Phát triển hệ thống giáo dục ở mỗi
quốc gia tác động mạnh mẽ đến sự phát triển nguồn nhân lực phục vụ quá trình phát
triển kinh tế-xã hội của chính mỗi quốc gia. Nếu chất lượng nguồn nhân lực tốt sẽ thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia, khi có tăng trưởng và phát triển
kinh tế thì sẽ thúc đẩy phát triển con người. Bên cạnh đó, khi hệ thống giáo dục tốt,
toàn diện sẽ nâng cao chỉ số giáo dục từ đó nâng cao chỉ số phát triển con người quốc
gia đó. Khi có tri thức con người sẽ có nhận thức đúng đắn các vấn đề về giới từ đó có
thể giảm thiểu bất bình đẳng về giới.
Ba là, hệ thống các chính sách của Nhà nước, ngoài các yếu tố nêu trên, để
nâng cao trình độ phát triển con người, hệ thống các chính sách vĩ mô của Nhà nước
12
như: chính sách y tế và chăm sóc sức khỏe của nhân dân, chính sách liên quan tới phát
triển giới, chính sách về phân phối thu nhập…đều có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
phát triển con người ở mỗi quốc gia. Nếu chính sách chăm sóc sức khỏe tốt sẽ tạo điều
kiện nâng cao thể trạng và chất lượng sống của người dân từ đó nâng cao tuổi thọ bình
quân. Các chính sách phát triển giới được thực thi thì quyền của phụ nữ sẽ được đảm
bảo, khoảng cách giới trong các lĩnh vực chủ yếu như chính trị, kinh tế, lao động và
việc làm, giáo dục, văn hóa và gia đình sẽ được thu hẹp. Bên cạnh đó để đạt được
những thành tựu tốt trong lĩnh vực bảo đảm công bằng trong phân phối thu nhập cũng
cần có những chính sách hướng tới việc phân phối lại thu nhập và của cải và những
chính sách mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn lực cho mọi người trong xã hội.
1.2. Thước đo phát triển con người
Ban đầu, UNDP đã đưa ra các thước đo để do lường phát triển con người gồm
các chỉ số phản ánh các mặt cơ bản của phát triển con người - gồm chỉ số thu nhập, chỉ
số giáo dục và chỉ số y tế. Theo thời gian UNDP đã đưa thêm các chỉ số khác phản ánh
các khía cạnh khác của phát triển con người như khía cạnh nghèo khổ, khía cạnh bất
bình đẳng giới và bất bình đẳng về thu nhập trong quá trình phát triển. Và các chỉ số
được đưa ra là chỉ số nghèo khổ con người (HPI); nghèo khổ tổng hợp (MPI), chỉ số
phát triển giới (GDI), chỉ số bất bình đẳng giới (GII),..j. Những chỉ số này bổ sung một
cách hoàn thiện hơn trong việc đo lường phát triển con người của một quốc gia.
Bên cạnh những chỉ tiêu cơ bản này, Liên hợp quốc có đề cập một số chỉ số
đánh giá các mặt khác như việc làm, môi trường, quyền con người, an ninh con
người…Tuy nhiên do phạm vi nghiên cứu của đề tài, vì vậy trong luận văn này chỉ
phân tích những thước đo cơ bản nhất về phát triển con người: chỉ số phát triển con
người và các chỉ số thành phần; chỉ số nghèo khổ; chỉ số đo bất bình đẳng giới, chỉ
số đo bất bình đẳng thu nhập.
1.2.1. Chỉ số phát triển con người (HDI-Human Development Index)
1.2.1.1 Cơ cấu và ý nghĩa của chỉ số phát triển con người
HDI là chỉ tiêu tổng hợp đo thành tựu trung bình của một quốc gia. HDI xác định
liệu con người có được một cuộc sống trường thọ và khỏe mạnh, được giáo dục và
13
trang bị kiến thức và được hưởng một mức sống tốt hay không. HDI xem xét điều kiện
trung bình của tất cả mọi người trong một quốc gia.
Trên thực tế, HDI chứa đựng ba yếu tố phản ánh tương ứng ba khía cạnh thuộc
về năng lực phát triển của con người, đó là: năng lực tài chính (thu nhập); năng lực trí
lực (giáo dục) và năng lực thể lực (y tế và chăm sóc sức khỏe). Ba yếu tố cấu thành
HDI đã được thống nhất sử dụng từ năm 1990, bao gồm: y tế, chăm sóc sức khỏe (tính
bằng tuổi thọ bình quân); giáo dục (tính theo hai tiêu chí là tỷ lệ người lớn đi học và số
năm đi học trung bình); GNI/người theo PPP được đưa vào HDI phản ánh thu nhập.
1.2.1.2. Cách tính chỉ số HDI
Vì đơn vị đo của mỗi chỉ tiêu không giống nhau, nên điều quan trọng cần tìm ra
một đơn vị đo lường chung cho các mục tiêu kinh tế-xã hội. HDI thiết lập một giới hạn
cận trên cận dưới cho từng khía cạnh. Phương pháp chỉ số là cách thức để quy đổi các
đơn vị đo lường của các tiêu chí bộ phần thành chung.
Trước báo cáo phát triển con người năm 2010, UNDP đã sử dụng phương pháp
trung bình cộng, theo đó HDI là trung bình cộng của ba chỉ số thành phần. Tuy nhiên,
trong báo cáo phát triển năm 2010 đến nay, đi đôi với sự thay đổi một số yếu tố thành
phần trong HDI, phương pháp tính cũng có sự thay đổi phù hợp bảo đảm tính chính
xác hơn của chỉ số này. Và cách tính HDI như sau :
Trước báo cáo năm 2010 :
HDI được tính theo công thức sau:
HDI
Trong đó :
I A I E I IN
3
* IA là chỉ số đo tuổi thọ,
* IE là chỉ số đo tri thức giáo dục. Được đo bằng chỉ số tổng hợp giữa tỉ lệ biết chữ
của người lớn IE1 (2/3 trọng số) và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục IE2 (1/3 trọng số),
* IIN là chỉ số đo mức sống.
Chỉ số tuổi thọ, giáo dục tính theo công thức sau:
IA,E(1,2) =
14
- Xem thêm -