VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THỊ MINH HẢI
PHÁT TRIỂN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CÁC XÃ,
THỊ TRẤN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN UYÊN,
TỈNH LAI CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THỊ MINH HẢI
PHÁT TRIỂN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CÁC XÃ,
THỊ TRẤN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN UYÊN,
TỈNH LAI CHÂU
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60310201
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN XUÂN CƯỜNG
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ
Chính trị học “Phát triển cán bộ lãnh đạo các xã, thị trấn từ thực tiễn huyện Tân
Uyên, tỉnh Lai Châu” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Hà Nội, ngày 22 tháng 7 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Bùi Thị Minh Hải
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN CÁN BỘ LÃNH
ĐẠO CẤP XÃ ............................................................................................................7
1.1. Một số khái niệm ..............................................................................................7
1.2. Chủ trương của Đảng về công tác cán bộ; chiến lược phát triển con người,
nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam ......................................................17
1.3. Chiến lược, kế hoạch phát triển cán bộ của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Lai
Châu; công tác cán bộ trên địa bàn huyện Tân Uyên ............................................21
1.4. Nô ̣i dung công tác phát triể n đô ̣i ngũ cán bộ ..................................................24
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN CÁN BỘ CẤP XÃ
HUYỆN TÂN UYÊN TỈNH LAI CHÂU ..............................................................30
2.1. Khái quát về đă ̣c điể m, tình hình kinh tế- xã hội huyê ̣n Tân Uyên, tỉnh Lai
Châu .......................................................................................................................30
2.2. Đánh giá thực trạng cán bộ cấp xã huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu ..............32
2.3. Khảo sát ý kiến đánh giá của các đối tượng khác nhau về năng lực và phẩm
chất của cán bộ cấp xã của huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu..................................40
2.4. So sánh thực trạng cán bộ cấp xã huyện Tân Uyên với các huyện, thành phố
thuộc tỉnh Lai Châu ...............................................................................................44
2.5. Đánh giá thực trạng công tác phát triể n cán bộ cấp xã huyê ̣n Tân Uyên, tỉnh
Lai Châu ................................................................................................................46
Chương 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁN
BỘ CẤP XÃ HUYỆN TÂN UYÊN TỈ NH LAI CHÂU........................................52
3.1. Đinh
̣ hướng phát triể n đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyê ̣n Tân Uyên, tỉnh Lai
Châu. ......................................................................................................................52
3.2. Giải pháp phát triển cán bộ cấp xã trên địa bàn huyện Tân Uyên tỉnh Lai
Châu trong những năm tiếp theo ...........................................................................57
3.3. Bài học kinh nghiệm trong phát triển cán bộ xã trên địa bàn huyện Tân Uyên
tỉnh Lai Châu .........................................................................................................68
3.4. Kiến nghị ........................................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................73
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CCB
Cựu chiến binh
CQĐT
Chưa qua đào tạo
CĐ
Cao đẳng
ĐH
Đại học
ĐTNCS
Đoàn Thanh niên cộng sản
HND
Hội Nông dân
HĐND
Hội đồng nhân dân
KT-XH
Kinh tế - xã hội
LHPN
Liên hiệp phụ nữ
MTTQVN
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
NXB
Nhà xuất bản
UBND
Ủy ban nhân dân
TC
Trung cấp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kế t quả điề u tra tình hình số lươ ̣ng, cơ cấ u giới trong cán bộ cấp xã
huyê ̣n Tân Uyên tỉnh Lai Châu .................................................................................33
Bảng 2.2: Kế t quả điề u tra, khảo sát trình đô ̣ chuyên môn cán bộ cấp xã huyện Tân
Uyên tỉnh Lai Châu ...................................................................................................35
Bảng 2.3: Điều tra về chuyên ngành đào tạo và hệ đào tạo ......................................36
Bảng 2.4: Kế t quả điề u tra, khảo sát trình đô ̣ lý luâ ̣n chính tri ̣ - hành chính cán bộ
cấp xã huyê ̣n Tân Uyên, tỉnh Lai Châu .....................................................................38
Bảng 2.5: Kết quả điề u tra, xếp loại cán bộ cấp xã huyê ̣n Tân Uyên, tỉnh Lai Châu
năm 2015 ...................................................................................................................39
Bảng 2.6: Kết quả điều tra, khảo sát ý kiến đánh giá về phẩm chất và năng lực của
cán bộ cấp xã .............................................................................................................41
Bảng 2.7. Biểu thống kê chất lượng cán bộ cấp xã trên địa bàn tỉnh Lai Châu ........45
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhiều lần nói về vị trí, vai trò của người cán bộ. Người căn dặn “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc” [33, tr. 269] “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém” [33, tr. 273]. Tư tưởng đó của người đã chỉ đường cho Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
KT-XH trong các giai đoạn lịch sử.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện, hội nhập
quốc tế sâu rộng, xây dựng đất nước theo mục tiêu giàu mạnh, dân chủ, văn minh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn và
bước đầu đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế phát triển vượt bậc, văn hóa
xã hội và đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên, quốc
phòng an ninh được giữ vững, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được khẳng định.
Có được kết quả trên là sự đóng góp tích cực, không thể thiếu của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và sự lãnh đạo có hiệu lực, hiệu quả của Đảng và
quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Việc xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay là một bộ phận không thể tách rời của chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI,
XII của Đảng.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bản chất của Đảng, của Nhà
nước, của chế độ được thể hiện trực tiếp, cụ thể, rõ nét từ đội ngũ cán bộ cơ sở.
Trong quá trình phát triển của dân tộc ta, làng, xã là nơi hội tụ và bảo lưu các giá trị
văn hóa, tinh thần, vật chất của dân tộc; nơi trực tiếp tổ chức, vận động nhân dân
thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc phát
triển, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo
1
cán bộ cấp xã nói riêng có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ chuyên
môn cao, có tâm huyết, nhiệt tình với công việc là nhiệm vụ thường xuyên và có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Là điều kiện tiên quyết, quyết định sự thành công sự
nghiệp đổi mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Bước đổi mới và hội nhập
quốc tế, với việc xây dựng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mở rộng quan hệ với các nước… thì
việc xây dựng cấp cán bộ cấp xã vững mạnh về mọi mặt càng có ý nghĩa quan trọng
hơn bao giờ hết.
Với tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chiến lược, chủ
trương để phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ
cấp xã nói riêng một cách đúng đắn, phù hợp.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định,
trong giai đoạn 2011-2015 “ Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
được chú trọng và đạt kết quả quan trọng”, tuy nhiên chúng ta vẫn còn đối mặt với
“tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi, một số
mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm”, bởi vậy
để phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới thì công tác cán bộ, đặc biệt là công
tác cán bộ ở cơ sở có một vị trí cực kỳ quan trọng.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân huyện Tân Uyên, công tác phát triển đội ngũ cán bộ cấp xã trong
huyện đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện, cơ bản đáp ứng được nhiệm vụ, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên từ thực tiễn đội ngũ
cán bộ nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại
hạn chế như trình độ đào tạo còn chắp vá, năng lực lãnh đạo điều hành còn hạn chế
chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Là một cán bộ nhiều năm công tác tại Phòng Nội vụ, với chức năng tham
mưu cho Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện trong công tác cán bộ của huyện. Đặc
biệt tác giả đang theo học lớp đào tạo Thạc sỹ ngành Chính trị học tại Học viện
Khoa học xã hội. Vì vậy tác giả chọn đề tài “Phát triển cán bộ cấp xã, thị trấn từ
2
thực tiễn huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong
muốn xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã huyện Tân Uyên ngày càng vững mạnh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, khoa học lãnh đạo quản lý tuy còn non trẻ, song nó đã có
những thành tựu đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý xã
hội ngay từ cơ sở trong những điều kiện cụ thể, tương ứng với tình hình phát
triển KT-XH của đất nước. Trong lĩnh vực nhân tố lãnh đạo, quản lý, những
năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận cũng như đề ra được
các giải pháp lãnh đạo, quản lý có hiệu quả trong việc phát triển đội ngũ cán
bộ cấp xã.
Có nhiều công trình khoa học, các luận văn thạc sĩ, cử nhân nghiên
cứu về bộ máy chính quyền cấp xã trong đó có bàn về đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã. Đáng chú ý là các công trình sau đây: Giáo sư Hồ Văn Thông:
"Tình hình các tổ chức chính trị ở nông thôn nước ta" được in trong cuốn
sách "Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay", tập 2, NXB Tư tưởng
văn hóa, Hà Nội 1991; Lê Đình Chếch: "Về nhà nước xã hội chủ nghĩa và
công tác cán bộ chính quyền cấp xã ở Hải Hưng", Luận văn thạc sĩ triết học,
Hà Nội, 1994; Nguyễn Thị Hải: "Về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã ở Thái Bình trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước",
Hà Nội, 2001.
Trong điều kiện cải cách hành chính Nhà nước, vấn đề đội ngũ cán bộ
cấp xã được đặc biệt quan tâm. Một số đề tài khoa học, công trình nghiên cứu
đề cập trực tiếp đến vấn đề này và hoàn chỉnh hơn. Chẳng hạn: Phó giáo sư,
tiến sĩ Bùi Tiến Quý "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta", NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000; Tiến sĩ Thang Văn Phúc và tiến sĩ Chu Văn Thành đồng chủ biên:
"Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã" của Viện Khoa học Tổ
chức Nhà nước, Ban Tổ chức Cán bộ chính phủ, NXB Chính trị quốc gia, Hà
3
Nội, 2000; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên "Các giải pháp thúc đẩy cải
cách hành chính ở Việt Nam" của Học viện Hành chính Quốc gia, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu và giáo sư Hồ Văn
Thông chủ biên: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" của Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Thạc sĩ
Phạm Đức Thăng: "Mấy suy nghĩ về việc củng cố tổ chức Đảng và chính
quyền cấp xã hiện nay", Thông tin Chính trị học, số 1(8/2001); Tiến sĩ
Nguyễn Văn Sáu và Giáo sư Hồ Văn Thông chủ biên: "Thực hiện quy chế dân
chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Phó giáo sư,
tiến sĩ Nguyễn Đăng Dung: "Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương",
NXB Đồng Nai, 1997; Nguyễn Khắc Bộ, Nâng cao năng lực quản lý nhà nước
của chính quyền cơ sở, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 3/2006; Mạc Minh Sản
(2006), Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức chính quyền cấp xã,
Quản lý Nhà nước; Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới hoàn thiện bộ máy nhà nước
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội; …
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đề cập vấn đề đội ngũ cán bộ
của chính quyền cấp xã nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ
thống dưới góc độ một luận văn khoa học về giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ cấp
xã ở huyện Tân Uyên. Tuy nhiên, trong các công trình đã được công bố, có những
nội dung liên quan đến đề tài sẽ được tác giả luận văn tham khảo có kế thừa, chọn
lọc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về cán bộ cấp xã ở huyện Tân
Uyên, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần phát triển cán bộ
cấp xã ở huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
- Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn về các biện pháp phát triển đội ngũ cấp xã
huyện Tân Uyên tỉnh Lai châu (Bí thư, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy; Chủ tịch Hội
đồng nhân dân (HĐND), Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND), các Phó Chủ tịch
HĐND, UBND và các Trưởng đoàn thể các cán bộ cấp xã.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ cấp xã trong huyện. Rút ra
một số bài học kinh nghiệm; đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ cấp
xã huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu.
4. §ối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ cấp xã gồm: Bí thư, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các Phó Chủ tịch HĐND,
UBND; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trưởng các đoàn thể các
cán bộ cấp xã huyện Tân Uyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ cấp xã của huyện Tân Uyên
giai đoạn hiện nay; các giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ cấp xã giai đoạn 2016 2020.
Không gian: các cán bộ cấp xã trên địa bàn huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ tài liệu, dữ liệu và
phương pháp phân tích, tổng hợp thông tin từ dữ liệu, tài liệu. Ngoài ra, đề tài thông
qua việc quan sát, điều tra, xin ý kiến và phỏng vấn các chuyên gia và đối tượng liên
quan để làm rõ đề tài của mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng, bổ sung lý thuyết khoa học ngành Chính trị học để làm rõ
vấn đề khoa học và thực tiễn trong xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ cấp xã,
qua từng khâu cụ thể trong công tác cán bộ như: Đánh giá cán bộ; Quy hoạch cán
bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; điều động, luân chuyển cán bộ; bố trí, sử dụng cán
bộ và thực hiện chính sách cán bộ.
5
Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu khảo sát thực tế tại huyện Tân
Uyên tỉnh Lai Châu, qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận của
khoa học chính trị học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu thực trạng đội ngũ cán bộ cấp xã trên địa bàn huyện Tân
Uyên tỉnh Lai Châu, đề tài làm rõ những kết quả đạt được những hạn chế yếu kém
trong công tác cán bộ từ đó đề xuất giải pháp nhằm phát triển đội ngũ cán bộ cấp xã
đủ về số lượng, mạnh về chất lượng trong giai đoạn tiếp theo.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được chia làm 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác phát triển cán bộ cấp xã huyện Tân Uyên,
tỉnh Lai Châu.
- Chương 2: Thực trạng công tác phát triển cán bộ cấp xã huyện Tân Uyên,
tỉnh Lai Châu.
- Chương 3: Quan điểm, ®Þnh hướng, biện pháp phát triển cán bộ cấp xã
huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN
CÁN BỘ CẤP XÃ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Cán bộ; cán bộ cấp xã
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008: Cán bộ là công dân Việt Nam, được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước (Luật cán bộ, công chức năm 2008).
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính
trị - xã hội (Luật Cán bộ, công chức năm 2008).
Cán bộ cấp xã bao gồm các chức danh cụ thể sau:
Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt
động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
1.1.2. Phát triển và phát triển đội ngũ
Theo từ điển tiếng Việt: “Phát triển là biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng,
thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”.
Theo quan điểm Triết học: “Phát triển là quá trình vận động đi lên của sự
vật hiện tượng, trong đó có sự gia tăng từ ít thành nhiều, từ thấp thành cao, từ đơn
7
giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn nữa…” [39, Tr. 88].
Ta hiểu rằng, đội ngũ nhân lực trong một tổ chức có thể hiểu là nguồn nhân
lực của tổ chức đó, cho nên để nhận biết khái niệm phát triển đội ngũ, chúng ta phải
xuất phát từ khái niệm phát triển nguồn nhân lực.
Hiện nay trên thế giới đang tồn tại khá nhiều định nghĩa về phát triển nguồn
nhân lực.
Nadler &Nadler cho rằng phát triển nguồn nhân lực và giáo dục, đào tạo
(theo nghĩa rộng) là những thuật ngữ có cùng nội hàm. Hai tác giả này định nghĩa
“phát triển nguồn nhân lực là làm tăng kinh nghiệm học được trong một khoảng
thời gian xác định để tăng cơ hội nâng cao năng lực thực hiện công việc”.
Liên hiệp quốc thì nghiêng về sử dụng khái niệm phát triển nguồn nhân lực
theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống
Đứng trên quan điểm xem “con người là nguồn vốn - vốn nhân lực”,
tác giả Yoshihara Kunio cho rằng: “Phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động
đầu tư nhằm tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát
triển KT-XH của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân
Như vậy, nguồn nhân lực đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay, khi nền kinh tế thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền kinh tế thị trường
sang nền kinh tế tri thức thì nguồn lực con người trở thành động lực chính cho sự
phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực, tại Đại hội lần
thứ VIII, Đảng ta đã nhấn mạnh: đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển chung của nhiều nước trên thế giới. Đó
cũng là con đường tất yếu của nước ta để đi đến mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải
có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và trở thành động lực thực
8
sự của sự phát triển. Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng là một
nhiệm vụ tất yếu của Việt Nam trong thời kỳ mới.
Phát triển nguồn nhân lực là khái niệm được hiểu ở góc độ hoàn thiện và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và điều chỉnh hợp lý số lượng nguồn nhân lực.
Để có thể phát triển được nguồn nhân lực, xét từ góc độ vĩ mô của nền kinh tế, phải
có các cơ chế chính sách tác động vào nguồn nhân lực. Như vậy, có thể hiểu khái
niệm phát triển nguồn nhân lực như sau: “Phát triển nguồn nhân lực xã hội là tổng
thể các cơ chế chính sách và biện pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực xã hội (trí tuệ, thể chất, phẩm chất tâm lý - xã hội) và điều chỉnh hợp lý về
cơ cấu nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn cụ thể”.
Với quan điểm trên, nội hàm khái niệm phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
- Về mục tiêu, phát triển nguồn nhân lực là hoàn thiện và nâng cao năng lực
lao động và năng lực sáng tạo của nguồn lực con người cho phù hợp với công việc
trong hiện tại và thích ứng với sự đổi mới trong tương lai.
- Về tính chất, phát triển nguồn nhân lực là một quá trình mang tính
liên tục và chiến lược nhằm nâng cao năng lực về nguồn lực của con người.
- Về nội dung, phát triển nguồn nhân lực bao gồm: hợp lý hóa quy mô, cơ
cấu nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, phát triển
nguồn nhân lực về chất lượng (trên cả ba phương diện thể lực, trí lực và tâm lực) là
nội dung trọng yếu:
Trí lực là năng lực của trí tuệ, quyết định phần lớn khả năng lao động sáng
tạo của con người. Trí tuệ được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn lực
con người bởi tất cả những gì thúc đẩy con người hành động tất nhiên phải thông
qua đầu óc của họ. Khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ trở thành yêu cầu quan
trọng nhất của việc phát huy nguồn lực con người. Phát triển về trí lực còn được
hiểu là hoàn thiện về năng lực chuyên môn, kỹ năng xử lý công việc, trình độ chính
trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của mỗi giai đoạn.
Thể lực là trạng thái sức khoẻ của con người, là điều kiện đảm bảo cho con
người phát triển, trưởng thành một cách bình thường, hoặc có thể đáp ứng được
9
những đòi hỏi về sự hao phí sức lực, thần kinh, cơ bắp trong lao động. Trí lực ngày
càng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực, song sức mạnh trí
tuệ của con người chỉ có thể phát huy được lợi thế trên nền thể lực khoẻ mạnh.
Chăm sóc sức khoẻ là một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, tạo tiền đề phát huy có hiệu quả tiềm năng con người.
Tâm lực: còn được gọi là phẩm chất tâm lý- xã hội, chính là tác
phong, tinh thần - ý thức trong lao động như: tác phong công nghiệp (khẩn
trương, đúng giờ...), có ý thức tự giác cao, có niềm say mê nghề nghiệp
chuyên môn, sáng tạo, năng động trong công việc; có khả năng chuyển đổi công
việc cao thích ứng với những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ và quản lý. Tóm lại,
cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài trí lực và thể lực, còn phải tính đến
phẩm chất đạo đức, nhân cách con người. Phát triển nhân cách, đạo đức đem lại cho
con người khả năng thực hiện tốt các chức năng xã hội, nâng cao năng lực sáng tạo
của họ trong hoạt động thực tiễn xã hội. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực, ngoài
việc quan tâm nâng cao mặt bằng và dân trí, nâng cao sức khoẻ cho mỗi con người,
cho cộng đồng xã hội, thì cần coi trọng xây dựng đạo đức, nhân cách, lý tưởng cho
con người.
- Về biện pháp, phát triển nguồn nhân lực được hiểu là quá trình thực hiện
tổng thể các chính sách và biện pháp thu hút, duy trì và đào tạo mang tính chất “đầu
tư chiến lược” cho nguồn lực con người
1.1.3. Hệ thống chính trị cơ sở và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
1.1.3.1. Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở
Khi nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Cách tiếp cận thứ nhất, xem xét hệ thống chính trị cơ sở như một hệ thống
về mặt tổ chức và chức năng của các bộ phận hợp thành: tổ chức Đảng, chính quyền
(Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân (Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) ở xã,
phường, thị trấn. Mỗi bộ phận hợp thành hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trò và
chức năng khác nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
10
Cách tiếp cận thứ hai, không chỉ về mặt tổ chức pháp lý mà còn bao gồm cả
các yếu tố thể hiện bản chất của hệ thống chính trị nói chung và những điều kiện
đảm bảo cho các bộ phận của hệ thống đó vận hành. Ở nghĩa này, hệ thống chính trị
cơ sở được hiểu theo tính chất của việc thực hiện dân chủ cơ sở, thể hiện quyền lực
của nhân dân. Cách tiếp cận này đòi hỏi phải nghiên cứu những vấn đề như: quyền
dân chủ trong bầu cử, chất vấn đại biểu Hội đồng nhân dân, những việc dân được
biết, được bàn và thực hiện kiểm tra; tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân,
đại biểu Hội đồng nhân dân; vai trò của tổ chức Đảng, Mặt trận và các đoàn thể
trong việc phát huy quyền dân chủ của người dân; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân
trong việc đảm bảo và thực hiện quyền dân chủ của dân.
Việc nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở theo nội dung dân chủ cho thấy
mối liên hệ bên trong của hệ thống, từ đó đi đến nhận thức: củng cố, nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn không chỉ là vấn đề về tổ chức
pháp lý, mà còn là vấn đề cơ chế thực hiện dân chủ. Có như vậy mới tạo ra động lực
thực sự thúc đẩy sự phát triển của cơ sở.
Qua phân tích những cách tiếp cận trên, có thể hiểu: "Hệ thống chính trị cơ sở
là toàn bộ các thiết chế chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân
dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với
nhau nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở"
1.1.3.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở
Hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, nên nó mang đặc điểm chung của toàn bộ hệ thống. Tuy
nhiên, ngoài những đặc điểm chung, xét khía cạnh địa vị pháp lý và thực tế thì hệ
thống chính trị cơ sở còn có những đặc trưng riêng như:
Thứ nhất, là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam, gần với cộng
đồng dân cư nhất, do vậy tổ chức và hoạt động mang tính tự quản cao.
Đặc điểm này vừa mang tính thể chế, vừa mang tính thực tế. Với tư cách là
đặc điểm mang tính thể chế, đó là mong muốn, là mục đích của tất cả các chế độ.
Nó là cấp gần dân nhất và thể hiện rõ nhất tính nhân dân. Nhà nước xác định cấp xã
11
là một cấp chính quyền, song khác với các cấp chính quyền trên nó, Nhà nước cho
phép nhân dân trong xã tự lựa chọn những người xứng đáng lãnh đạo chính quyền
thông qua bầu cử. Nếu được bầu thì một cá nhân trở thành cán bộ chính quyền, cán
bộ đảng và đoàn thể. Khi không được tái cử, thì người đó trở lại làm công dân bình
thường. Nhà nước không đảm bảo công việc cho người thất cử. Với đặc điểm này,
có thể nói cấp xã là mắt khâu trung gian, là bước chuyển tiếp giữa chế độ tự quản
làng xã sang chế độ nhà nước đầy đủ.
Thứ hai, cơ sở là cấp tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cuối
cùng có được thực hiện hay không, thực hiện như thế nào, hiệu quả ra sao lại phụ thuộc
phần lớn ở cơ sở. Vì vậy, cần phải nhận thức rõ rằng cơ sở là cấp thấp nhất, nhưng
không vì thế kém quan trọng nhất. Ngược lại, xét theo khía cạnh thực thi mọi đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì đây lại là cấp quan trọng nhất. Thông qua cơ
sở các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước mới được cụ thể hóa vào trong đời
sống của cộng đồng dân cư.
Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ biên chế
được hưởng sinh hoạt phí thấp nhất, có đội ngũ cán bộ biến động nhất, ít tính
chuyên nghiệp nhất, trực tiếp chịu sự chi phối của nhân dân.
Là cấp thấp nhất nên tổ chức bộ máy đơn giản nhất và biên chế được hưởng
sinh hoạt phí ít nhất. Theo các quy định hiện hành, hệ thống chính trị cơ sở được
biên chế và hưởng sinh hoạt phí không quá 25 người. Phần lớn đội ngũ cán bộ, nhất
là cán bộ chủ chốt không phải được tuyển dụng biên chế cố định mà họ được giữ
các vị trí đó thông qua lá phiếu bầu cử của nhân dân. Cho nên, nếu có năng lực,
hoàn thành tốt nhiệm vụ, được nhân dân tín nhiệm thì sẽ có cơ hội tái cử ở nhiệm kỳ
tiếp theo, ngược lại khi hết nhiệm kỳ nhân dân sẽ bầu người khác thay thế. Tâm lý
không ổn định cũng chính là nguyên nhân dẫn đến đội ngũ cán bộ cơ sở biến động
thường xuyên và ít được chuyên môn hóa, ít được đào tạo cơ bản và bản thân họ
cũng có tâm lý ngại học tập nâng cao trình độ theo xu hướng "quan nhất thời, dân
vạn đại". Phần lớn những người được đào tạo bài bản cả về chuyên môn nghiệp vụ
12
và lý luận chính trị lại muốn tìm cách thoát ly khỏi cơ sở.
Thứ tư, cấp cơ sở có bộ máy đơn giản nhất nhưng không phải là đơn giản nhất
trong vận hành bộ máy, bởi vì, đây là cấp mà các mối quan hệ về dòng họ, văn hóa
làng xã có thể tác động mạnh nhất, ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ nội bộ trong tổ
chức và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị nơi đây.
Ở cấp xã đã có và hiện cũng chưa hết tình trạng "chi bộ họ ta". Tình trạng
thành viên cấp ủy được phân bổ theo dòng họ, theo cánh, theo làng vẫn còn. Quan
hệ anh em, họ hàng, chú bác... trong Đảng ủy, giữa các cán bộ xã không phải hiếm.
Mặt khác lại bị chi phối, ràng buộc bởi truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống
làng xã. Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ trong nội bộ tổ chức. Có khi vì
quan hệ họ hàng, thân tộc mà nể nang, e dè, né tránh đấu tranh. Ngược lại, có khi vì
quan hệ dòng họ mà đấu tranh phe cánh kịch liệt, vượt quá mức cần thiết làm ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Do
đó, phải hết sức chú ý khắc phục tư tưởng dòng họ, bè phái, lợi dụng chức quyền
theo kiểu "một người làm quan cả họ được nhờ".
Thứ năm, cơ sở là cấp đầu tiên đối mặt với những tâm tư, nguyện vọng,
những yêu cầu bức xúc của dân chúng; với những mâu thuẫn, thậm chí cả những
xung đột nảy sinh trong đời sống dân cư.
Sự đúng, sai trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đoàn thể được
thể hiện trực tiếp ở cơ sở, cả về phương thức thực thi lẫn sự phù hợp hay không phù
hợp của đường lối với lợi ích của nhân dân. Vì vậy, khi thực hiện các chính sách
trong cuộc sống quần chúng nhân dân sẽ phản ánh chân thực nhất mức độ phù hợp
của đường lối chính sách; cấp đầu tiên nhận được sự phản ánh này chính là cơ sở cấp được xem là gần dân nhất, mang tính nhân dân rõ rệt nhất.
Tóm lại, những đặc điểm trên của hệ thống chính trị cơ sở phản ánh một mặt
sự thống nhất của cả hệ thống chính trị được tổ chức, hoạt động theo tính thống nhất
về mục tiêu và nguyên tắc. Mặt khác, cũng phản ánh nhiều mâu thuẫn, có loại mâu
thuẫn biện chứng của sự phát triển, có loại mâu thuẫn hình thức triệt tiêu sự phát
triển. Vì vậy, cần phải phát hiện mâu thuẫn, có những giải pháp cụ thể để xử lý mâu
thuẫn một cách hợp lý, cụ thể nhằm đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở,
13
đáp ứng vị trí, vai trò quan trọng cần phải có của nó trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3.3. Vai trò của hệ thống chính quyền cơ sở
Trải qua gần 30 năm đổi mới đất nước, Đảng và nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu có ý nghĩa to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên,
kết quả đạt được không giống nhau giữa các tỉnh, huyện, vùng miền, địa phương.
Nhiều địa phương vẫn được xem là vùng chậm phát triển so với sự phát triển chung
của cả nước. Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó có nguyên nhân do chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của hệ thống chính
trị cơ sở nên chưa phát huy tối đa chức năng, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của hệ
thống chính trị nơi đây. Vì vậy, muốn đổi mới hệ thống chính trị cơ sở, trước hết
phải đổi mới nhận thức về vai trò của cơ sở, để từ đó hành động đúng đắn trong
thực hiện nhiệm vụ ở địa phương, cụ thể:
Thứ nhất, cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân; là cấp thấp nhất trong các
cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền nhà nước, nhưng lại là nền tảng của chế độ,
nền móng của tòa nhà; nếu cơ sở suy yếu, rệu rã là khởi đầu sự suy yếu của chế độ.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nền tảng của mọi công tác
là cấp xã" [33, tr.456] và "Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi" [32, tr.372]. Nước lấy dân
làm gốc, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân và sự phát triển của xã hội thì trước
hết phải dồn sức chăm lo cho sự bền vững của cơ sở, từ cơ sở; làm cho hệ thống
chính trị ở cơ sở phải thực sự là hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân. Do
"quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [32, tr.698], nên có dân thì có tất cả, mất
dân thì mất tất cả. Tính thời sự bức xúc và tầm quan trọng chiến lược, lâu dài của cơ
sở và hệ thống chính trị cơ sở bắt nguồn trực tiếp và sâu xa từ thực tiễn ấy. Khẳng
định vai trò của cơ sở cũng là khẳng định nguyên lý về vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong hoạt động sáng tạo lịch sử.
Thứ hai, cơ sở là nơi diễn ra cuộc sống của dân, nơi chính quyền và các đoàn
thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình.
Nếu dân chủ là "dân là chủ" và "dân làm chủ" theo quan điểm Hồ Chí Minh,
14
- Xem thêm -