PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
I.
Tổng quan về Phát triển bền vững.
1.
Khái niệm.
“Phát triển bền vững” (Sustainable Development) là một trào lưu đã trở thành yêu
cầu quan trọng cần thỏa mãn của quá trình phát triển trên toàn thế giới cũng như ở
mỗi quốc gia. Phát triển bền vững “là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu của hiện
tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau” .
2.
Hoàn cảnh ra đời và phát triển.
Sau đại chiến thế giới II, chủ nghĩa tư bản tự do phát triển mạnh ở các quốc gia
phương Tây, với chiến lược khai thác nhanh nguồn tài nguyên không được tái tạo,
nhằm có được khoản lợi nhuận khổng lồ trong một thời gian ngắn nhất, sự gia tăng
dân số, đặc biệt tại các nước thuộc thế giới thứ III(các nước đang phát triển) đã tiêu
thụ nguồn năng lượng lớn chưa kịp tái tạo. Đây là hai trong số các sự kiện tạo nên
động thái mới trên thế giới đương đại: "Khủng hoảng môi trường tự nhiên, đói
nghèo, và gia tăng khác biệt xã hội". Thực tế này đòi hỏi phải có một sự điều chỉnh
hành vi của con người.
Những ý tưởng hàm ý phát triển bền vững sớm xuất hiện trong xã hội loài người
nhưng phải đến thập niên đầu của thế kỷ XX, những hàm ý này mới phát triển,
chuyển hoá thành hành động và cao hơn là phong trào xã hội. Tiên phong cho các
trào lưu này phải kể đến giới bảo vệ môi trường ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Uỷ ban bảo vệ môi trường Canada được thành lập năm 1915, nhằm khuyến khích
con người tôn trọng những chu kỳ tự nhiên, và cho rằng mỗi thế hệ có quyền khai
thác lợi ích từ nguồn vốn thiên nhiên, nhưng nguồn vốn này phải được duy trì
nguyên vẹn cho những thế hệ tương lai để họ hưởng thụ và sử dụng theo một cách
thức tương tự. Trong báo cáo với nhan đề "Toàn thế giới bảo vệ động vật hoang dã",
tại Hội nghị Paris (Pháp) năm 1928, Paul Sarasin - nhà bảo vệ môi trường Thuỷ Sĩ
đã đề cập đến việc cần phải bảo vệ thiên nhiên.
1
Mối quan hệ giữa bảo vệ thiên nhiên và sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng là mối
quan tâm hàng đầu của các tổ chức quốc tế từ sau đại chiến thế giới II (UNDP,
UNESCO, WHO, FAO, và ICSU). Các tổ chức này đã phối hợp chặt chẽ trong việc
tìm hiểu diễn biến môi trường tự nhiên, từ đó đưa ra chương trình hành động hướng
các quốc gia phát triển theo mô hình bền vững. Năm 1951, UNESCO đã xuất bản
một tài liệu đáng lưu ý với tiêu đề "Thực trạng bảo vệ môi trường thiên nhiên trên
thế giới vào những năm 50". Tài liệu này được cập nhật vào năm 1954 và được coi
là một trong số những tài liệu quan trọng của "Hội nghị về môi trường con người"
(1972) do Liên hiệp quốc tổ chức tại Stockholm (Thuỵ Điển) và cũng được xem như
là "tiền thân" của báo cáo Brunđtland.
Thập kỷ 70, thuật ngữ xã hội bền vững tiếp tục xuất hiện trong các công trình nghiên
cứu của các học giả phương Tây, với công trình của Barry Cômmner "Vòng tròn
khép kín" (1971), Herman Daily "Kinh tế học nhà nước mạnh" (1973) và công trình
"Những con đường sử dụng năng lượng mềm: về một nền hoà bình lâu dài" của
Amory Lovins (1977). Khái niệm phát triển bền vững tiếp tục được đề cập và bổ
sung với những đóng góp quan trọng thể hiện trong các tác phẩm của Maurice
Strong (1972), và Ignacy Sachs (1975). Đặc biệt khái niệm này được đề cập toàn
diện nhất trong công trình của Laster Brown "Xây dựng một xã hội bền vững"
(1981).
Đầu thập niên 80, thuật ngữ phát triển bền vững lần đầu tiên được sử dụng trong
chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình môi trường Liên hiệp quốc
đề xuất, cùng với sự trợ giúp của UNESCO và FAO. Tuy nhiên. khái niệm này chính
thức phổ biến rộng rãi trên thế giới từ sau báo cáo Brundrland (1987). Kể từ sau báo
cáo Brundtland, khái niệm bền vững trở thành khái niệm chìa khoá giúp các quốc
gia xây dựng quan điểm, định hướng, giải pháp tháo gỡ bế tắc các vấn đề trong phát
triển. Đây cũng được xem là giai đoạn mở đường cho "Hội thảo về phát triển và môi
trường của Liên hiệp quốc và Diễn đàn toàn cầu hoá được tổ chức tại Rio de Janeiro
(1992), và Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johannesburg
(2002).
3.
Nội dung của phát triển bền vững.
2
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm
Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng
những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Con đường đi đến phát triển bền vững là giống nhau đối với một nước đã công
nghiệp hóa, đang công nghiệp hóa, một nước đã phát triển, đang phát triển hay chưa
phát triển. mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn
hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia của mình.
Tiến trình phat triển bền vững đòi hỏi sự tiến triển đồng thời của 3 lĩnh vực chính
đó là phát triển về kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đó là quá trình
phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng những quá trình
sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với
cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng,
khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân
tố sinh thái mà còn đi vào các nhân tố chính trị xã hội, con người, nó hàm chứa sự
bình đẳng xã hội, bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ.
Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên
quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền
vững .
Xét về một mặt khác, phát triển bền vững còn được xem là "tiếng chuông" hay nói
cách khác là "tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương
đại.
Để đạt được phát triển bền vững, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm
quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3
lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
II. Tình hình phát triển bền vững của Việt Nam và thế giới.
3
1.
Tình hình PTBV Trên Thế giới
- Nghèo đói:
Thế giới hiện này còn 1.2 tỷ người có mức thu nhập dưới 1 dola/ngày (24%
dân số thế giới), 2.8 tỷ người dưới 2 dola/ngày (51 %).
Hơn 1 tỷ người ở các nước kém phát triển không có nước sạch và phương tiện
vệ sinh.
- Thất học:
2/3 dân số mù chữ là nữ.
Thế giới vẫn còn 113 triệu trẻ em không được đi học.
-Sức khỏe:
Mỗi năm có 11 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị chết.
1/3 số người chết ở các nước đang phát triển là do nghèo đói.
Mỗi năm có 3 triệu người chết vì HIV/AIDS, trong đó có 0.5 triệu là trẻ em,
mỗi ngày có 8000 người, 10s có 1 người chết.
-Môi trường:
Nhiệt độ trung bình của Trái Đất hiện nay nóng hơn gần 40 độ C so với nhiệt độ
trong kỷ băng hà gần nhất, khoảng 13. 000 năm trước. Tuy nhiên trong vòng 100
năm qua, nhiệt độ trung bình bề mặt Trái Đất tăng khoảng 0, 6-0, 7 độ C và dự
báo sẽ tăng 1, 4-5, 8 độ C trong 100 năm tới.
Hàng năm, khoảng 50 triệu tấn chất thải rắn đổ ra biển gồm đất, cát, rác thải, phế
liệu xây dựng, chất phóng xạ... Bên cạnh đó, rò rỉ dầu, sự cố tràn dầu của các tàu
thuyền thường chiếm 50% nguồn ô nhiễm dầu trên biển.
4
1. 000. 000 chim biển, 100. 000 thú biển và rựa biển bị chết do bị vướng hay
bị nghẹt thở bởi các loại rác plastic.
30-50% lượng CO2 thải ra từ quá trình đốt các nhiên liệu hóa thạch bị đại
dương hấp thụ, việc thay đổi nhiệt độ sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu
CO2 của các phiêu sinh thực vật và sau đó làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái.
60% các rạn san hô đang bị đe dọa bởi việc ô nhiễm.
60% bờ biển Thái Bình Dương và 35% bờ biển Đại Tây Dương đang bị xói
mòn với tốc độ 1m/ năm
2.
Tình hình PTBV ở VN:
Về Kinh tế :
Kinh tế tăng trưởng nhanh và theo chiều rộng. Tiềm lực kinh tế còn yếu. Số nợ hiện
nay của Việt Nam so với các nước khác chưa thuộc loại cao và chưa tới giới hạn
nguy hiểm. Song số nợ đó đang tăng lên nhanh chóng và sẽ có nguy cơ đe doạ tính
bền vững của sự phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn vay chưa được sử dụng
có hiệu quả.
Mô hình tiêu dùng : Sao chép lối sống tiêu thụ của các nước phát triển, trong đó có
nhiều điều không có lợi cho việc tiết kiệm tài nguyên và phát triển bền vững. Khai
thác cạn kiệt tài nguyên quý hiếm nhằm đáp ứng nhu cầu xa xỉ của một số người
diễn ra phổ biến.
Về xã hội:
-Đầu tư của Nhà nước cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng
-Một hệ thống luật pháp đã được ban hành đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn và
phù hợp hơn với yêu cầu.
-Đời sống nhân dân ở cả thành thị và nông thôn đã được cải thiện.
- Các chỉ tiêu xã hội được cải thiện hơn rất nhiều. Chỉ số phát triển con người (HDI)
của Việt Nam đã tăng từ 0,611 năm 1992 lên 0,682 năm 1999. Xếp hạng HDI trong
số 162 nước, Việt Nam đứng thứ 120 năm 1992; thứ 101 năm 1999 và thứ 109 trên
175 nước vào năm 2003.
5
- Về chỉ số phát triển giới (GDI), năm 2003 Việt Nam được xếp thứ 89 trong trong
tổng số 144 nước. Phụ nữ chiếm 26% tổng 14 số đại biểu Quốc hội, là một trong 15
nước có tỷ lệ nữ cao nhất trong cơ quan quyền lực của Nhà nước.
Về môi trường:
-Xét về độ an toàn của môi trường, Việt Nam đứng cuối bảng trong số các nước
ASEAN, và xếp thứ 98 trên tổng số 117 nước đang phát triển. Việt Nam đã có nhiều
nỗ lực nhằm khắc phục những hậu quả môi trường do chiến tranh để lại. Nhiều
chính sách quan trọng về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường đã được xây dựng và thực hiện trong những năm gần đây.
-Nội dung bảo vệ môi trường đã được đưa vào giảng dạy ở tất cả các cấp học trong
hệ thống giáo dục quốc dân.
III. Mục Tiêu của phát triển bền vững ở Việt Nam và thế giới.
1.
Mục tiêu phát triển bền vững của thế giới :
1.1 Mục tiêu tổng quát của PTBV : là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu
có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã
hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý
và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
1.2 Mục tiêu phát triển bền vững của Thế Giới giai đoạn 2015 – 2030:
Các mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals - SDGs) đề cập
đến một thỏa thuận của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững tổ chức tại
Rio de Janeiro vào tháng Sáu năm 2012 (Rio + 20), để phát triển một loạt các mục
tiêu phát triển quốc tế trong tương lai. Với 17 mục tiêu và 169 chỉ tiêu cụ thể :
6
Hình 1.1. 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.
Mục tiêu 1: Xóa nghèo dưới mọi hình thức, ở mọi nơi
Đến năm 2030, xoá bỏ hoàn toàn nghèo đói cho tất cả mọi người ở mọi nơi,
hiện nay được tính là những người có mức sống dưới 1,25 USD một ngày.
Đến năm 2030, giảm ít nhất một nửa tỷ lệ nam giới, phụ nữ và trẻ em ở mọi lứa
tuổi đang sống nghèo khổ ở tất cả cấp độ theo định nghĩa quốc gia.
Triển khai các biện pháp và hệ thống bảo trợ xã hội thích hợp toàn quốc cho tất
cả mọi người, bao gồm cả những người dưới đáy xã hội, và đến năm 2030 sẽ bao
phủ được cả nhóm người nghèo và người dễ bị tổn thương.
Đến năm 2030, đảm bảo rằng tất cả nam giới và phụ nữ, đặc biệt là những
người nghèo và những người dễ bị tổn thương, có quyền bình đẳng về các nguồn lực
kinh tế cũng như có khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản, quyền sở hữu và kiểm
soát đất đai và các hình thức tài sản khác, quyền thừa kế, quyền tiếp cận tài nguyên
7
thiên nhiên, công nghệ mới phù hợp và các dịch vụ tài chính, bao gồm cả tài chính
vi mô.
Đến năm 2030, xây dựng khả năng chống chọi cho người nghèo và những
người dễ bị tổn thương, giảm thiểu sự tổn thương của họ trước những sự kiện cực
đoan liên quan đến khí hậu và những cú sốc về kinh tế, xã hội và môi trường và
những thảm họa.
Đảm bảo huy động đáng kể các nguồn lực từ nhiều nguồn khác nhau, thông
qua tăng cường hợp tác phát triển, để có thể đưa ra các biện pháp thỏa đáng và có
khả năng dự đoán cho các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước kém phát
triển, để thực thi các chính sách và chương trình xóa nghèo ở mọi khía cạnh.
Thiết lập những khung chính sách ở cấp độ quốc gia, vùng và quốc tế, dựa vào
các chiến lược phát triển vì người nghèo và nhạy cảm về giới, để hỗ trợ đầu tư trong
các hoạt động xóa đói giảm nghèo.
Mục tiêu 2: Xóa đói, đảm bảo an ninh lương thực và cải thiện dinh dưỡng, phát
triển nông nghiệp bền vững.
Đến năm 2030, xóa đói và đảm bảo tất cả mọi người, đặc biệt là những người
nghèo và những người dễ bị tổn thương, bao gồm cả trẻ sơ sinh, được tiếp cận với
nguồn thức ăn đầy đủ, dinh dưỡng và an toàn trong cả năm.
Đến năm 2030, xóa bỏ tất cả các loại hình suy dinh dưỡng, bao gồm cả mục
tiêu toàn cầu đã đề ra cho năm 2025 về xóa còi xương và suy giảm thể chất ở trẻ em
dưới 5 tuổi, giải quyết nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ em gái vị thành niên, phụ nữ
mang thai và cho con bú, người lớn tuổi.
Đến năm 2030, tăng gấp đôi năng suất nông nghiệp và thu nhập của những
người sản xuất lương thực ở quy mô nhỏ, đặc biệt là phụ nữ, những người nghèo
khổ, các gia đình nông dân, những người chăn gia súc và ngư dân, bằng cách đảm
bảo sự tiếp cận an toàn và công bằng tới nguồn đất đai, các nguyên liệu đầu vào và
các nguồn tài nguyên năng suất khác, kiến thức, các dịch vụ tài chính, thị trường và
cơ hội cho lao động giá trị gia tăng và phi nông nghiệp.
Đến năm 2030, đảm bảo hệ thống sản xuất lương thực bền vững và thực hiện
những tập quán nông nghiệp vững chắc để tăng năng suất và sản xuất, giúp duy trì
hệ sinh thái, tăng cường khả năng sản xuất để thích nghi với biến đổi khí hậu, thời
8
tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt và các thảm họa khác và dần dần cải thiện chất lượng
đất.
Đến năm 2020, duy trì sự đa dạng về gen của các loại hạt giống, cây trồng và
các loài động vật đã được nuôi và thuần chủng và cả những loài hoang dã liên quan,
thông qua các ngân hàng hạt giống và cây trồng được quản lý và đa dạng hóa ở cấp
quốc gia, vùng và quốc tế, thúc đẩy sự tiếp cận và chia sẻ lợi ích công bằng phát
sinh từ việc sử dụng các nguồn tài nguyên gen và kiến thức truyền thống liên quan
như đã được thỏa thuận quốc tế.
Tăng cường đầu tư, thông qua đẩy mạnh hợp tác quốc tế, cho các lĩnh vực như
cơ sở hạ tầng ở vùng nông thôn, nghiên cứu nông nghiệp và các dịch vụ khuyến
nông, phát triển công nghệ và ngân hàng gen cây trồng và vật nuôi để tăng năng suất
nông nghiệp ở các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước kém phát triển.
Sửa đổi và ngăn chặn các rào cản thương mại và các biến tướng của thị trường
nông sản thế giới, bằng cách loại bỏ tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu nông sản
và các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu có tác động tương tự với nhiệm vụ của vòng đàm
phán Doha.
Thực hiện các biện pháp bảo đảm cho thị trường thực phẩm và các thị trường
phái sinh hoạt động hoàn chỉnh, tiếp cận thông tin thị trường kịp thời, bao gồm cả
thông tin về dự trữ lương thực, để hạn chế biến động cực đoan về giá thực phẩm.
Mục tiêu 3: Đảm bảo cuộc sống khỏe mạnh và nâng cao phúc lợi cho tất cả mọi
người ở mọi lứa tuổi.
Đến năm 2030, giảm tỷ lệ tử vong ở người mẹ trên toàn cầu xuống dưới
70/100.000 ca sinh sống.
Đến năm 2030, chấm dứt trường hợp tử vong có thể phòng ngừa ở trẻ sơ sinh
và trẻ em dưới 5 tuổi. Tất cả các quốc gia tập trung giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh
xuống mức thấp nhất là 12/ 1000 ca sinh sống và tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi là
25/1000 ca sinh sống.
Đến năm 2030, chấm dứt các đại dich HIV/AIDS, lao phổi, sốt rét và các bệnh
nhiệt đới bị lãng quên, chống lại các bệnh về gan, các bệnh liên quan đến nước và
các bệnh truyền nhiễm khác.
9
Đến năm 2030, giảm 1/3 tỷ lệ tử vong sớm từ các bệnh không lây nhiễm thông
qua phòng ngừa và điều trị và tăng cường sức khỏe tinh thần và phúc lợi.
Tăng cường phòng ngừa và điều trị việc lạm dụng thuốc, bao gồm lạm dụng
thuốc gây nghiện và sử dụng đồ uống có cồn gây hại cho sức khỏe.
Đến năm 2020, giảm một nửa số ca tử vong và bị thương trên toàn cầu do tai
nạn giao thông gây ra.
Đến năm 2030, đảm bảo việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
và tình dục trên toàn cầu, bao gồm kế hoạch hóa gia đình, thông tin và giáo dục, và
đưa vấn đề sức khỏe sinh sản vào các chiến lược và chương trình của quốc gia.
Đạt được bảo hiểm y tế trên toàn cầu, bao gồm cả bảo hiểm rủi ro tài chính, tất
cả mọi người có thể tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu có chất lượng,
các loại thuốc và vắcxin an toàn, hiệu quả, chất lượng với giá cả hợp lý.
Đến năm 2030, giảm đáng kể số lượng tử vong và bệnh tật gây ra do các chất
hóa học và không khí độc hại, do ô nhiễm đất và nguồn nước.
Đẩy mạnh việc thực thi Công ước khung về Kiểm soát thuốc lá của Tổ chức Y
tế Thế giới tại tất cả các quốc gia một cách phù hợp.
Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển các loại thuốc và vắc-xin chữa các bệnh dich
truyền nhiễm và không truyền nhiễm đang gây ảnh hưởng chủ yếu ở các nước đang
phát triển, cho phép mọi người có thể tiếp cận các loại thuóc và vắcxin thiết yếu với
giá cả phải chăng, phù hợp với tuyên bố Doha về hiệp định TRIPs (Hiệp định về các
khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ) và Sức khỏe cộng
đồng, khẳng định quyền của các nước đang phát triển được sử dụng đầy đủ các điều
khoản của Hiệp định TRIPs có tính đến sự linh hoạt để bảo vệ sức khỏe cộng đồng,
và đăc biệt là cho phép tất cả mọi người tiếp cận tới các loại thuốc.
Tăng đáng kể tài chính/chi tiêu cho sức khỏe và việc tuyển dụng, phát triển,
đào tạo và duy trì nguồn nhân lực y tế ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở các
nước kém phát triển và những Quốc đảo nhỏ đang phát triển.
Tăng cường năng lực cho các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, về
cảnh bảo sớm, giảm thiểu rủi ro và quản lý rủi ro y tế quốc gia và toàn cầu.
10
Mục tiêu 4: Đảm bảo giáo dục chất lượng, rộng mở và công bằng và nâng cao
cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.
Đến năm 2030, đảm bảo rằng tất cả các trẻ em trai và trẻ em gái hoàn thành
giáo dục bậc tiểu học và trung học cơ sở miễn phí, công bằng và chất lượng, cho kết
quả học tập phù hợp và hiệu quả.
Đến năm 2030, đảm bảo tằng tất cả các trẻ em gái và trẻ em trai được tiếp cận
giáo dục/phát triển từ sớm có chất lượng, được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và giáo
dục mầm non để có thể sẵn sàng bước vào bậc tiểu học.
Đến năm 2030, đảm bảo cho tất cả phụ nữ và nam giới được tiếp cận bình đẳng
giáo dục kỹ thuật, dạy nghề có chất lượng với giá cả phải chăng, bao gồm cả giáo
dục đại học.
Đến năm 2030, tăng đáng kể số lượng thanh thiếu niên và người trưởng thành
có tay nghề cao, bao gồm cả tay nghề kỹ thuật và dạy nghề để tham gia lực lượng
lao động, kinh doanh và có việc làm phù hợp.
Đến năm 2030, xóa bỏ chênh lệch về giới trong giáo dục và đảm bảo tiếp cận
công bằng tới tất cả các bậc giáo dục và đào tạo dạy nghề cho những người dễ bị tổn
thương, bao gồm người khuyết tật, người bản địa và trẻ em ở trong những hoàn cảnh
dễ bị tổn thương.
Đến năm 2030, đảm bảo rằng tất cả thanh thiếu niên và một lượng lớn những
người trưởng thành, cả phụ nữ và nam giới, đều biết chữ và số.
Đến năm 2030, đảm bảo rằng tất cả những người đi học đều thu được kiến thức
và các kỹ năng cần thiết để thúc đẩy phát triển bền vững, bằng cách thông qua giáo
dục về phát triển bền vững và lối sống bền vững, về nhân quyền, bình đẳng giới,
thúc đẩy một nền văn hóa hòa bình và không bạo lực, công dân toàn cầu và đánh giá
cao sự đa dạng về văn hóa và đóng góp của văn hóa đối với phát triển bền vững.
Xây dựng và cải tiến cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục cho trẻ em, người
khuyết tật và nhạy cảm về giới, cung cấp môi trường học an toàn, phi bạo lực, rộng
mở và hiệu quả cho tất cả mọi người.
Đến năm 2020, mở rộng đáng kể số lượng học bổng toàn cầu cho các nước
đang phát riển, đặc biệt là cho các nước kém phát triển và các Quốc đảo nhỏ đang
phát triển và các nước Châu Phi, để có thể tiếp cận giáo dục ở trình độ cao hơn, bao
11
gồm cả đào tạo dạy nghề và công nghệ thông tin và truyền thông, các chương trình
kỹ thuật, kỹ sư và khoa học, ở các nước phát triển và đang phát triển khác.
Đến năm 2030, tăng đáng kể đội ngũ giáo viên có chất lượng, thông qua hợp
tác quốc tế về đào tạo giáo viên ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở các nước
kém phát triển và các Quốc đảo nhỏ đang phát triển.
Mục tiêu 5: Đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em
gái.
Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái ở mọi
nơi.
Loại bỏ tất cả các hình thức bạo lực đối với tất cả phụ nữ và trẻ em gái trong
các lĩnh vực công cộng và tư nhân, bao gồm mua bán người và lạm dụng tình dục và
các loại hình bóc lột khác.
Loại bỏ tất cả các tập quán có hại, chẳng hạn như ép buộc kết hôn đối với trẻ
em, kết hôn sớm và làm tổn thương bộ phận sinh dục nữ.
Công nhận và coi trọng dịch vụ chăm sóc và công việc trong nước không được
trả lương thông qua việc cung cấp các dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và các chính
sách bảo trợ xã hội, đẩy mạnh chia sẻ trách nhiệm trong hộ gia đình và gia đình phù
hợp ở mỗi quốc gia.
Đảm bảo phụ nữ có quyền tham gia đầy đủ và hiệu quả, bình đẳng về cơ hội
lãnh đạo ở tất cả các cấp, được đưa ra các quyết định trong đời sống chính trị, kinh
tế và công cộng.
Đảm bảo tiếp cận chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản và quyền
sinh sản trên phạm vi toàn cầu phù hợp với Chương trình hành động của Hội nghị
quốc tế về Dân số và Phát triển và Nền tảng hành động Bắc Kinh và các văn bản kết
quả của hội nghị đánh giá.
Cam kết trao quyền bình đẳng cho phụ nữ về tiếp cận các nguồn lực kinh tế,
cũng như là quyền sở hữu và kiểm soát đất đai và các hình thức sở hữu bất động sản
khác, các dịch vụ tài chính, thừa kế và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phù hợp
với luật quốc gia.
12
Tăng cường sử dụng các công nghệ cho phép, đặc biệt là công nghệ thông tin
và truyền thông để thúc đẩy việc trao quyền cho phụ nữ.
Thông qua và tăng cường chính sách và pháp luật có hiệu lực cho việc thúc đẩy
bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái ở tất cả các cấp.
Mục tiêu 6: Đảm bảo sự sẵn có và quản lý bền vững nguồn nước và cải thiện
các điều kiện vệ sinh cho tất cả mọi người.
Đến năm 2030, đạt được tiếp cận công bằng và phổ cập nguồn nước uống an
toàn và có thể chi trả được cho tất cả mọi người.
Đến năm 2030, đạt được điều kiện vệ sinh và cải thiện điều kiện vệ sinh đầy đủ
và công bằng và xóa bỏ dịch tiêu chảy, chú ý đặc biệt tới các nhu cầu của phụ nữ và
trẻ em gái và những người dễ bị tổn thương.
Đến năm 2030, cải thiện chất lượng nước và giảm thiểu ô nhiễm, loại bỏ và
giảm thiểu việc đưa các chất hóa học và vật liệu độc hại ra môi trường, giảm một
nửa tỷ lệ nước thải chưa được xử lý và tăng cường tái chế và tái sử dụng an toàn trên
toàn cầu.
Đến năm 2030, tăng cường việc sử dụng nước hiệu quả ở tất cả các khu vực và
đảm bảo cung cấp nước sạch đến những vùng khan hiếm nước và giảm đáng kể số
người thiếu nước sử dụng.
Đến năm 2030, thực hiện quản lý tài nguyên nước tích hợp ở tất cả các cấp, bao
gồm cả thông qua hợp tác xuyên biên giới một cách phù hợp.
Đến năm 2020, bảo vệ và khôi phục hệ sinh thái liên quan đến nước, bao gồm
núi, rừng, các vùng đất ngập nước, sông, các tầng ngậm nước và hồ.
Đến năm 2030, mở rộng hợp tác quốc tế và hỗ trợ xây dựng năng lực cho các
nước đang phát triển trong các hoạt động và chương trình liên quan đến nước và các
vấn đề vệ sinh, bao gồm khai thác nước từ thiên nhiên, khử muối, sử dụng nước hiệu
quả, xử lý nước thải, các công nghệ tái chế và tái sử dụng nước.
Hỗ trợ và nâng cao sự tham gia của các cộng đồng địa phương trong việc cải
thiện quản lý nước và các điều kiện vệ sinh.
13
Mục tiêu 7: Đảm bảo việc tiếp cận năng lượng với giá cả hợp lý, tin cậy, bền
vững và hiện đại cho tất cả mọi người.
Đến năm 2030, đảm bảo tiếp cận phổ cập các dịch vụ năng lượng đáng tin cây,
hiện đại với giá cả phải chăng.
Đến năm 2030, tăng cường chia sẻ nguồn năng lượng có thể tái tạo trong cơ
cấu năng lượng toàn cầu.
Đến năm 2030, tăng gấp đôi tỷ lệ cải thiện hiệu quả năng lượng toàn cầu.
Đến năm 2030, tăng cường hợp tác quốc tế để tạo điều kiện tiếp cận công nghệ
và nghiên cứu năng lượng sạch, bao gồm năng lượng có thể tái tạo, hiệu quả năng
lượng và công nghệ nhiên liệu hóa thạch tiên tiến và sạch hơn, thúc đẩy đầu tư vào
cơ sở hạ tầng năng lượng và công nghệ năng lượng sạch.
Đến năm 2030, mở rộng cơ sở hạ tầng và cải tiến công nghệ để cung cấp các
dịch vụ năng lượng hiện đại và bền vững cho tất cả mọi người ở các nước đang phát
triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, các quốc đảo nhỏ đang phát triển, các
quốc gia đang phát triển không có biển, cùng với các chương trình hỗ trợ tương ứng.
Mục tiêu 8: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn, rộng mở và bền vững, tạo
việc làm đầy đủ và năng suất và công việc tốt cho tất cả mọi người.
Duy trì tăng trưởng kinh phù hợp với tình hình tài chính quốc gia, đặc biệt mức
tăng trưởng GDP phải ít nhất 7% /năm đối với những nước kém phát triển.
Đạt được hiệu suất kinh tế ở các mức độ cao hơn thông qua đa dạng hóa, cải
tiến và đổi mới công nghệ, bao gồm cả việc tập trung vào các khu vực giá trị gia
tăng cao và cần nhiều lao động.
Thúc đẩy các chính sách định hướng phát triển để hỗ trợ các hoạt động sản
xuất, tạo việc làm tốt, kinh doanh, sáng tạo và đổi mới, và khuyến khích thành lập và
phát triển các doanh nghiệp vi mô, doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua cả việc tiếp
cận các dịch vụ tài chính.
Xuyên suốt qua năm 2030, cải thiện dần dần hiệu quả tiêu thụ và sản xuất tài
nguyên toàn cầu, và cố gắng tách rời tăng trưởng kinh tế với suy thoái môi trường,
phù hợp với khung chương trình 10 năm về tiêu thụ và sản xuất bền vững, trong đó
các nước phát triển đi tiên phong.
14
Đến năm 2030, đạt được viêc làm đầy đủ và năng suất và công việc tử tế cho
tất cả phụ nữ và nam giới, bao gồm cả công việc cho những người trẻ và những
người khuyết tật, và trả lương bình đẳng cho những công việc có cùng giá trị.
Đến năm 2020, giảm đáng kể tỷ lệ người trẻ không có việc làm, không được
giáo dục và đào tạo.
Có các biện pháp tức thì và hiệu quả để xoá bỏ cưỡng bức lao động, chấm dứt
chế độ nô lệ hiện đại và buôn bán người và xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất, bao gồm tuyển dụng và sử dụng trẻ em làm binh lính, và đến năm 2025,
chấm dứt toàn bộ các hình thức lao động trẻ em.
Bảo vệ quyền lao động và tạo môi trường làm việc an toàn và đảm bảo cho tất
cả người lao động, bao gồm cả lao động nhập cư, đặc biệt là phụ nữ nhập cư, và
những người trong tình thế lao động bấp bênh.
Đến năm 2030, sửa đổi và thực thi các chính sách để thúc đẩy du lịch bền vững
nhằm tạo ra việc làm và quảng bá văn hóa và các sản phẩm địa phương.
Tăng cường năng lực của các định chế tài chính trong nước để khuyến khích và
mở rộng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm và tài chính cho tất cả mọi người.
Tăng viện trợ thương mại hỗ trợ cho các nước đang phát triển, đặc biêt là
những nước kém phát triển, thông qua việc đẩy mạnh Khung hợp tác hỗ trợ kỹ thuật
thương mại liên quan tới các nước kém phát triển.
Đến năm 2020, phát triển và thực hiện chiến lược toàn cầu cho lao động trẻ và
thực thi Hiệp ước Việc làm toàn cầu của Tổ chức Lao động quốc tế.
Mục tiêu 9: Xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc, đẩy mạnh công nghiệp hóa rộng
mở và bền vững, khuyến khích đổi mới.
Phát triển cơ sở hạ tầng vững chắc, chất lượng, đáng tin cậy và bền vững, bao
gồm cơ sở hạ tầng khu vực và xuyên biên giới, để hỗ trợ phát triển kinh tế và đời
sống con người, tập trung vào tiếp cận hợp lý và công bằng cho tất cả mọi người.
Thúc đẩy công nghiệp hóa rộng mở và bền vững, và đến năm 2030, tăng đáng
kể thị phần lao động của ngành công nghiệp và tỷ trọng của công nghiệp trong tổng
sản phẩm quốc nội, phù hợp với tình hình tài chính quốc gia, và tăng gấp đôi thị
phần này ở các nước kém phát triển.
15
Tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính, bao gồm cả tín dụng hợp
lý, cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ trong ngành công nghiệp và các doanh nghiệp
khác, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, và gia tăng sự hội nhập của các doanh
nghiệp này trong chuỗi giá trị và thị trường.
Đến năm 2030, nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang bị thêm cho các ngành công
nghiệp để phát triển bền vững, gia tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, và ứng dụng
nhiều hơn các công nghệ sạch và thân thiện với môi trường cùng với quá trình công
nghiệp hóa, với sự tham gia của các quốc gia phù hợp với khả năng tương ứng của
mỗi nước.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, cải tiến khả năng công nghệ của các khu vực
công nghiệp ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, và đến năm
2030, khuyến khích đổi mới và tăng đáng kể tỉ lệ lao động (trong 1 triệu người)
tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển và tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát
triển ở cả lĩnh vực công và tư nhân.Tạo điều kiện cho phát triển cơ sở hạ tầng vững
chắc và bền vững ở các nước đang phát triển thông qua hỗ trợ tài chính, công nghệ
và kỹ thuật cho các nước Châu Phi, những nước kém phát triển, những nước đang
phát triển không có biển và các Quốc đảo nhỏ đang phát triển.
Hỗ trợ phát triển công nghệ trong nước, nghiên cứu và đổi mới ở các nước
đang phát triển, bao gồm việc đảm bảo môi trường chính sách thuận lợi, đa dạng hóa
công nghiệp và giá trị gia tăng cho hàng hóa.
Đến năm 2020, đẩy mạnh tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông và cố
gắng cung cấp dịch vụ Internet phổ cập với giá cả hợp lý ở các nước kém phát triển.
Mục tiêu 10: Giảm bất bình đẳng trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia.
Đến năm 2030, dần dần đạt được và duy trì tốc độ tăng trưởng thu nhập ở mức
cao hơn mức trung bình quốc gia cho 40% dân số có thu nhập thấp nhất.
Đến năm 2030, trao quyền và thúc đẩy hòa nhập xã hội, kinh tế và chính trị cho
tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, giới tính, khuyết tật, chủng tộc, sắc tộc,
nguồn gốc, tôn giáo, kinh tế và các tình trạng khác.
Đảm bảo cơ hội bình đẳng và giảm thiểu những bất công về kết quả, bao gồm
việc loại bỏ các đạo luật, các chính sách và tập quán phân biệt đối xử và thúc đẩy
luật pháp, các chính sách và các hành động thích hợp trong vấn đề này.
16
Có các chính sách, đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền lương và bảo trợ xã
hội, và dần dần đạt được sự bình đẳng hơn.
Cải thiện quy định và quản lý các thị trường và thể chế tài chính toàn cầu và
tăng cường thi hành những quy định này.
Đảm bảo tăng cường đại diện và tiếng nói cho các quốc gia đang phát triển
trong việc đưa ra quyết định trong các tổ chức kinh tế quốc tế và các định chế tài
chính toàn cầu để tạo ra được những định chế hiệu quả, đáng tin cậy, có trách nhiệm
và hợp pháp hơn.
Tạo thuận lợi cho mọi người di cư và di chuyển được thuận lơi, an toàn, thường
xuyên và có trách nhiệm, thông qua việc thực hiện các chính sách di cư có kế hoạch
và được quản lý tốt.
Thực hiện quy tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát
triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, phù hợp với các hiệp định của Tổ chức
Thương mại thế giới.
Khuyến khích hỗ trợ phát triển chính thức và các dòng vốn, bao gồm đầu tư
trực tiếp nước ngoài, cho các nước có nhu cầu vốn lớn, đặc biệt là các nước kém
phát triển, các nước Châu Phi, các quốc đảo nhỏ và các nước đang phát triển không
có biển, phù hợp với các kế hoạch và chương trình quốc gia.
Đến năm 2030, giảm thiểu các chi phí giao dịch kiều hối xuống mức 3% và xóa
bỏ hành lang chuyển tiền với chi phí cao hơn 5%.
Mục tiêu 11: Xây dựng các đô thị và các khu dân cư rộng mở, an toàn, vững
chắc và bền vững.
Đến năm 2030, đảm bảo cho tất cả mọi người được tiếp cận dịch vụ nhà ở và
các dịch vụ cơ bản đầy đủ, an toàn với giá cả hợp lý và nâng cấp các khu nhà ổ
chuột.
Đến năm 2030, tất cả mọi người có thể được tiếp cận các hệ thống giao thông
an toàn, giá cả hợp lý, dễ tiếp cận và bền vững, cải thiện an toàn đường bộ, mở rộng
giao thông công cộng, đặc biệt chú ý đến những nhu cầu của những người dễ bị tổn
thương, phụ nữ, trẻ em, những người khuyết tật và những người lớn tuổi.
17
Đến năm 2030, đẩy mạnh đô thị hóa rộng mở và bền vững, thúc đẩy khả năng
tham gia, quy hoạch và quản lý khu dân cư tích hợp và bền vững ở tất cả các quốc
gia.
Tăng cường nỗ lực để bảo vệ các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới.
Đến năm 2030, giảm thiểu số lượng người chết và những người bị ảnh hưởng
và giảm đáng kể những thiệt hại về kinh tế liên quan trực tiếp đến tổng sản phẩm
quốc nội toàn cầu gây ra bởi thiên tai bao gồm cả thiên tai liên quan đến nước, với
trọng tâm là bảo vệ người nghèo và những người trong những hoàn cảnh dễ bị tổn
thương.
Giảm thiểu các tác động của môi trường lên mỗi người ở các thành phố, bao
gồm cả chú ý đặc biệt đến chất lượng không khí và quản lý rác thải đô thị.
Đến năm 2030, cung cấp quyền sử dụng các không gian công cộng xanh, an
toàn, rộng mở và có thể sử dụng được, đặc biệt là cho phụ nữ và trẻ em, những
người lớn tuổi và những người khuyết tật.
Hỗ trợ sự liên kết tích cực về kinh tế, xã hội và môi trường giữa các khu đô thị,
ven đô thị và nông thôn bằng cách tăng cường quy hoạch phát triển của quốc gia và
khu vực.
Đến năm 2020, tăng đáng kể số lượng các thành phố và các khu định cư, áp
dụng và thực hiện các chính sách theo hướng hòa nhập, hiệu quả về tài nguyên, giảm
nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu, vững vàng trước các thiên tai, phát triển và
thực hiện, phù hợp với Khung giảm nhẹ thiên tai Sendai giai đoạn 2015-2030, quản
lý rủi ro thiên tai toàn diện ở tất cả các cấp.
Hỗ trợ các nước kém phát triển trong việc xây dựng các toà nhà bền vững và có
khả năng chống chọi bằng các nguyên vật liệu của các nước đó thông qua hỗ trợ về
tài chính và kỹ thuật
Mục tiêu 12: Đảm bảo các mô hình tiêu dùng và sản xuất bền vững.
Thực hiện khung 10 năm cho các chương trình về tiêu dùng và sản xuất bền
vững, tất cả các quốc gia cùng hành động với sự lãnh đạo của các nước phát triển, có
tính đến sự phát triển và khả năng của các nước đang phát triển.
18
Đến năm 2030, đạt được quản lý bền vững và sử dụng hiệu quả các nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
Đến năm 2030, giảm một nửa tỷ chất thải thực phẩm bình quân đầu người trên
toàn cầu ở cả cấp bán lẻ và tiêu dùng và giảm hao hụt thực phẩm trong chuỗi sản
xuất và cung ứng, bao gồm cả hao hụt sau thu hoạch.
Đến năm 2020, quản lý các chất hóa học và chất thải ra môi trường lành mạnh
thông qua vòng đời của chúng, phù với với các khung quốc tế đã thỏa thuận, và
giảm đáng kể lượng thải ra không khí, nước và đất để giảm đến mức tối nhiểu những
tác động ngược lại vào môi trường và sức khỏe của con người.
Đến năm 2030, giảm đáng kể sự sản sinh chất thải thông qua phòng ngừa, giảm
thiểu, tái chế và tái sử dụng.
Khuyến khích các công ty, đặc biệt là các công ty lớn và xuyên quốc gia, ứng
dụng những tập quán bền vững và tích hợp thông tin bền vững vào chu kỳ báo cáo
của mình.
Khuyến khích mua sắm công bền vững, phù hợp với các chính sách và ưu tiên
của mỗi quốc gia.
Đến năm 2030, đảm bảo mọi người ở mọi nơi có được thông tin và nhận thức
về phát triển bền vững và lối sống hòa hợp với thiên nhiên.
Hỗ trợ các nước đang phát triển tăng cường năng lực khoa học và kỹ thuật của
mình để thực hiện các mô hình tiêu dùng và sản xuất bền vững hơn.
Xây dựng và thực hiện các công cụ để giám sát các tác động của phát triển bền
vững đối với du lịch bền vững, tạo thêm nhiều việc làm và thúc đẩy văn hóa và các
sản phẩm địa phương.
Hợp lý hóa các khoản trợ cấp nhiên liệu hóa thạch không hiệu quả gây ra tiêu
dùng lãng phí bằng cách loại bỏ những biến dạng thị trường, phù hợp với tình hình
tài chính quốc gia, bao gồm việc tái cấu trúc hệ thống thuế và loại bỏ dần những
khoản trợ cấp có hại, nếu có, để phản ánh được những tác động của chúng tới môi
trường, có tính đến các nhu cầu và điều kiện cụ thể của các nước đang phát triển và
giảm đến mức tối thiểu những tác động bất lợi có thể có tới sự phát triển của các
nước này như một biện pháp để bảo vệ người nghèo và các cộng đồng bị ảnh hưởng.
19
Mục tiêu 13: Có biện pháp khẩn cấp để chống lại biến đổi khí hậu và các tác
động của nó.
Tăng cường khả năng phục hồi và thích ứng với các hiểm họa liên quan đến khí
hậu và thiên tai ở tất cả các quốc gia.
Tích hợp các biện pháp biến đổi khí hậu vào các chính sách quốc gia, chiến
lược và quy hoạch.
Cải thiện giáo dục, nâng cao nhận thức và khả năng của con người và các thể
chế về giảm nhẹ rủi ro thiên tai, thích ứng, giảm nhẹ tác động và cảnh báo sớm.
Thực hiện cam kết trong Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí
hậu đã được đồng ý bới các bên tham gia là các nước phát triển để đạt được mục tiêu
cùng huy động được 100 tỷ USD hàng năm cho đến năm 2020 từ tất cả các nguồn để
giải quyết nhu cầu của các nước đang phát triển trong bối cảnh những biện pháp
giảm nhẹ có ý nghĩa và minh bạch trong việc thực hiện và vận hành đầy đủ Quỹ Khí
hậu Xanh thông qua vốn của quỹ này càng sớm càng tốt.
Thúc đẩy các cơ chế để nâng cao năng lực quản lý và quy hoạch thay đổi liên
quan đến khí hậu hiệu quả ở các nước đang phát triển và các quốc đảo nhỏ đang phát
triển, bao gồm việc tập trung vào phụ nữ, người trẻ tuổi và các cộng đồng địa
phương và những người bị gạt ra ngoài lề.
Mục tiêu 14: Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và các nguồn tài
nguyên biển cho phát triển bền vững.
Đến năm 2025, ngăn chặn và giảm đáng kể ô nhiễm biễn ở mọi hình thức, cụ
thể là từ các hoạt động trên đất liền, bao gồm các mảnh vỡ trên biển và ô nhiễm dinh
dưỡng.
Đến năm 2020, quản lý bền vững và bảo vệ các hệ sinh thái biển và ven biển để
tránh những tác động ngược, bằng cách tăng cường khả năng tự phục hồi của các hệ
sinh thái này, và có biện pháp phục hồi để giữ cho các đại dương lành mạnh và hữu
ích.
Giảm đến mức tối thiểu và giải quyết những tác động của axit hóa đại dương,
thông qua tăng cường hợp tác khoa học ở tất cả các cấp.
20
- Xem thêm -