Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng...

Tài liệu Phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông cửu long hiện nay

.PDF
208
688
67

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THANH HIẾU PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS Mã số: 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS VÕ VĂN THẮNG Hà Nội, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sĩ Triết học “Phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu trong Luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. NGHIÊN CỨU SINH Huỳnh Thanh Hiếu LỜI CẢM ƠN Sau 3 năm học tập tại Học viện Khoa học Xã hội, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới quý thầy, cô, Ban Giám đốc, Khoa triết học thuộc Học viện; quý cơ quan ban, ngành, quý đồng nghiệp, các nhà khoa học ở các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long; Ban Giám hiệu, quý đồng nghiệp Trường Chính trị tỉnh Hậu Giang và gia đình, bạn bè tôi đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi hỗ trợ, giúp đỡ và khuyến khích tôi trong suốt thời gian nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS, TS Võ Văn Thắng đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu hoàn thành Luận án. Xin trân trọng cảm ơn! NGHIÊN CỨU SINH Huỳnh Thanh Hiếu MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 7 1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về nông dân, nông thôn mới và vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới .................................................................... 7 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long............................................... 13 1.3. Các công trình nghiên cứu về giải pháp phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long........................................................ 16 1.4. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết .......................................... 20 Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ........... 24 2.1. Các khái niệm cơ bản ......................................................................................... 24 2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta từ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến mô hình nông thôn mới hiện nay ............................................................... 46 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG............................................................................................................................ 57 3.1. Đặc điểm tình hình của Đồng bằng sông Cửu Long tác động đến việc phát huy vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn ........................................................ 57 3.2. Thành tựu và hạn chế của việc phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long ............................................................................. 67 3.3. Một số vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát huy vai trò nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay ........................... 106 Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG................................................................................................... 115 4.1. Một số quan điểm ................................................................................................. 115 4.2. Một số giải pháp tiếp tục phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long ............................................................. 126 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 148 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 150 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 156 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. CNH, HĐH : công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2. NTM : Nông thôn mới 3. HTCT : Hệ thống chính trị 4. ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long 5. GS, TS : Giáo sư Tiến sĩ 6. PGS, TS : Phó Giáo sư Tiến sĩ 7. TS : Tiến sĩ 8. ThS : Thạc sĩ 9. ND : nông dân 10. NDĐBSCL : nông dân Đồng bằng sông Cửu Long MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X), Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương đã ban hành các kết luận về một số nội dung trong Nghị quyết, bao gồm: Đề án An ninh lương thực quốc gia; Đề án Chương trình Xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới (NTM) cấp xã; Đề án về Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM và xây dựng giai cấp nông dân (ND). Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, ngày 28/10/2008, xác định “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới” và Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020, gồm 11 nội dung, với 19 tiêu chí. Tiếp tục thực hiện chiến lược xây dựng NTM, Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh thêm nhiều nhiệm vụ xây dựng NTM, như: Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với đô thị và bố trí các điểm dân cư; Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường; Triển khai chương trình xây dựng NTM phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam; Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động…[13; 197,198]. Quá trình phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM thời gian qua đã tiếp tục khẳng định vị thế và tầm quan trọng là trung tâm sản xuất và chế biến nông, thủy sản, lương thực, thực phẩm lớn nhất Việt Nam của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đến năm 2010, ĐBSCL đã đạt và vượt chỉ tiêu 21 triệu tấn lương thực mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra và đóng góp gần 20% GDP của đất nước. Trong những năm gần đây, ĐBSCL đóng góp 50% sản lượng lúa, 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 70% sản lượng trái cây của cả nước. Sản xuất thủy sản chiếm hơn 70% sản lượng của cả nước và đóng góp khoảng 80% lượng xuất khẩu; hằng năm cung cấp 1 khoảng 52% sản lượng thủy sản đánh bắt và gần 67% sản lượng thủy sản nuôi trồng, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Tuy nhiên, qua thực tế việc phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM, phát triển kinh tế-xã hội ở ĐBSCL những năm gần đây cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy thực sự hiệu quả nguồn lực ND nông thôn, cho nên, kinh tế ĐBSCL vẫn là khai thác và chịu ảnh hưởng từ tiềm năng nông nghiệp-tự nhiên là chủ yếu. Việc trồng lúa, cây ăn trái hay nuôi tôm, cá xuất khẩu ở ĐBSCL còn nặng tính tự phát. Thế mạnh về gạo và thủy sản vẫn chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, chưa trở thành nền tảng để thúc đẩy, đưa kinh tế các tỉnh trong khu vực phát triển nhanh như yêu cầu đặt ra. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp quy mô còn nhỏ, manh mún; chất lượng thấp, bảo quản sau thu hoạch còn nhiều bất cập, gây hao hụt lớn và ảnh hưởng đến chất lượng nông sản, hàng nông nghiệp xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, chưa xây dựng được những thương hiệu mạnh và khả năng cạnh tranh chưa cao. Mặc dù, ĐBSCL luôn được xem là vùng đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước, song đời sống của ND ở đây luôn bị đe dọa bởi điệp khúc “được mùa, rớt giá”, “được giá, thất mùa”. ND hiện vẫn nghèo và còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc Khmer và những hộ ND sinh sống ở những vùng sản xuất bị nhiễm phèn và ngập mặn. Khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng. Lợi nhuận từ chính nông, thuỷ sản do ND sản xuất ra thu được rất thấp, dù sản lượng nông nghiệp được xuất khẩu có chiều hướng ngày càng tăng; trong quá khứ và hiện nay, ĐBSCL vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề đặt ra ở nhiều lĩnh vực, như: vấn đề ruộng đất (quy hoạch, đền bù, giải tỏa chưa hợp lý, thỏa đáng); việc xây dựng các mô hình phát triển nông nghiệp, nông thôn (mô hình Nông trường Sông Hậu) còn nhiều ý kiến trái chiều; tình hình lợi dụng quan hệ dân tộc-tộc người của các thế lực thù địch (đồng văn, đồng chủng của người Khmer ở các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang của Việt Nam và người Campuchia, có liên quan đến vấn đề địa-chính trị);… điều này đe doạ trực tiếp đến tính bền vững của sự phát triển ngành nông nghiệp, ổn định nông thôn và phát triển giai cấp ND. Bên cạnh đó, hiện nay các văn bản thể hiện chủ trương, quan điểm chỉ đạo, lãnh đạo xây dựng NTM còn nằm ở phạm vi vĩ mô, cái chung áp dụng cho toàn quốc, ít chú ý đến đặc thù riêng của từng địa phương, từng vùng, khu vực, điều này gây khó khăn rất lớn cho địa phương khi áp dụng, cũng như khó khăn cho Trung ương khi đánh giá, 2 xét đạt chuẩn; đồng thời, sau hơn 4 năm triển khai thực hiện, Trung ương và một số địa phương ở ĐBSCL có tổ chức nhiều đợt sơ, tổng kết, song đến nay chưa có công trình nghiên cứu độc lập nào về việc phát huy vai trò ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL, do vậy còn nhiều yếu tố chưa được làm rõ, như: vai trò chủ thể của ND vùng ĐBSCL trong xây dựng NTM được biểu hiện như thế nào?; so với thành tựu đạt được, những vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát huy vai trò ND trong nâng cao chất lượng xây dựng NTM là gì?; những yếu tố, điều kiện nào có tác động lớn đến việc phát huy vai trò chủ thể của ND tham gia xây dựng NTM ở ĐBSCL?; những quan điểm gì cần quán triệt cũng như những giải pháp nào sát hợp với việc phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL cần thực hiện?… tất cả những vấn đề trên là yêu cầu quan trọng về mặt lý luận và khoa học cần phải được giải quyết. Từ những thành tựu, khó khăn và những vấn đề đặt ra nêu trên, tác giả nhận thấy rằng, nghiên cứu một cách khoa học, đầy đủ về việc “Phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” là yêu cầu cấp thiết và giữ vị trí quan trọng nhất đối với mục tiêu xây dựng NTM, phát triển kinh tế-xã hội, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho ND không chỉ riêng của ĐBSCL, mà còn tác động, ảnh hưởng đến các tỉnh, thành phía Nam và có ý nghĩa chiến lược đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn của cả nước. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích của luận án Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục phát huy tốt hơn vai trò của ND trong xây dựng NTM. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án cần thực hiện các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu lý luận về ND; nông thôn; NTM; vai trò của ND trong xây dựng NTM và phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL. - Phân tích thực trạng phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL. - Xác định và phân tích những vấn đề đặt ra cần giải quyết để việc phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM được tốt hơn; 3 - Luận chứng và xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Thực tiễn quá trình xây dựng NTM, trong đó tập trung vào các đối tượng tham gia phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL có phạm vi rất rộng, tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn, luận án chỉ tập trung nghiên cứu việc phát huy vai trò của NDĐBSCL trong việc tham gia thực hiện 19 tiêu chí trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL từ năm 2010 đến năm 2015. Đề xuất các giải pháp có giá trị đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận của luận án Luận án được thực hiện dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam về ND, nông thôn và NTM. Đồng thời, luận án sử dụng những kết quả nghiên cứu về ND, nông thôn, NTM và phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL của các nhà nghiên cứu trước đó. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án Đề tài sử dụng các phương pháp: Hệ thống hóa, phương pháp phân tích định tính qua sử dụng phần mềm SPSS, và các phương pháp nghiên cứu định tính khác. Phương pháp hệ thống hóa: Sử dụng các dữ liệu thứ cấp để tiến hành các bước phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chứng với thực tiễn… để tổng kết và khái quát các lý thuyết và thực tiễn về xây dựng NTM, về vai trò của ND trong xây dựng NTM và phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM; đánh giá thực trạng phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL; đồng thời đề xuất các giải pháp tiếp tục phát huy tốt hơn vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL trong giai đoạn tới. Phương pháp phân tích định tính thông qua việc sử dụng phần mềm SPSS: Trong luận án, tác giả sử dụng kết quả phân tích của phần mềm SPSS 16.0 (dữ liệu sơ cấp) nhằm củng cố và xác định các phân tích định tính của luận án về các vấn đề: vai trò của ND trong xây dựng NTM; những thuận lợi, hạn chế và nguyên nhân của việc 4 phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM; những giải pháp cần thiết, cấp bách để nâng cao hiệu quả phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM. Phương pháp nghiên cứu định tính: Được thực hiện qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ quản lý Chương trình xây dựng NTM ở các tỉnh và cán bộ lãnh đạo ở các xã xây dựng NTM về xây dựng NTM và việc phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL, mục đích nhằm xác định và bổ sung, hoàn chỉnh các quan điểm đánh giá, kết luận trong luận án. 5. Đóng góp mới của luận án Sau khi hoàn thành, luận án sẽ có những đóng góp mới cơ bản sau: - Luận án đã xác định và phân tích rõ các nội dung cơ bản thể hiện vai trò và nội dung phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL. - Luận án đã phân tích làm rõ những mặt mạnh và điểm hạn chế, cũng như nguyên nhân của quá trình phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL hiện nay. - Luận án đã phân tích chỉ rõ những vấn đề cấp bách đặt ra cần giải quyết để tiếp tục phát huy tốt hơn vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL. - Luận án đã đề xuất được hệ thống các giải pháp cần thiết để tiếp tục phát huy tốt hơn vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL giai đoạn 2016-2020. - Luận án có thể dùng làm cứ liệu khoa học cho các địa phương tham khảo để hoạch định chính sách phù hợp nhằm phát huy hiệu quả vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án - Luận án góp phần làm rõ hơn mối quan hệ biện chứng giữa nông nghiệp - ND - nông thôn trong quá trình xây dựng NTM hiện nay; đồng thời làm rõ vai trò của nhân tố chủ quan - chủ thể chính của ND - trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL. - Luận án góp phần làm rõ nguyên tắc gắn lý luận xây dựng NTM với thực tiễn phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM; đồng thời, xuất phát từ thực tiễn phát huy vai trò ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL để bổ sung, điều chỉnh lý luận thông qua việc xây dựng các nguyên tắc cơ bản làm căn cứ phương pháp luận cho việc xây 5 dựng các giải pháp cụ thể nhằm phát huy tốt hơn vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án - Luận án chỉ rõ những biến đổi trong đời sống vật chất, tinh thần của ND sau quá trình quán triệt lý luận xây dựng NTM vào việc phát huy vai trò của ND trong xây dựng NTM ở ĐBSCL, từ đó tạo cơ sở tiền đề, điều kiện kinh tế-xã hội để khẳng định tính đúng đắn, tính hiệu quả, mức độ thành công, khả năng huy động, khả năng đáp ứng ý chí, nguyện vọng của ND,… của những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong quá trình xây dựng NTM. Từ thực tiễn - Luận án làm rõ những vấn đề thực tiễn liên quan đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của ND và xác định những yêu cầu thực tiễn đặt ra sau quá trình phát huy vai trò của ND xây dựng NTM, làm hình thành một cách khái quát tồn tại xã hội, cơ sở hạ tầng, giúp nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân ĐBSCL trong việc phát huy vai trò của ND trong tham gia xây dựng NTM. - Kết quả của Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy các môn khoa học lý luận, khoa học xã hội và nhân văn trong các trường chính trị, viện, trường cao đẳng, đại học ở ĐBSCL hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm phần mở đầu, 4 chương, 11 tiết, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Vấn đề ND, vai trò ND, nông thôn và NTM cũng như vai trò của ND trong xây dựng NTM đã và đang là nội dung chính trị-xã hội mang tính cấp thiết trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng NTM trên cả nước hiện nay, trong đó việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, ND, nông thôn ở ĐBSCL giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong tiến trình này. Từ cuối năm 2010, các tỉnh, thành ĐBSCL đã huy động các nguồn lực bắt tay vào phục vụ cho mục tiêu xây dựng NTM. Đến nay, có nhiều công trình (chủ yếu đăng trên báo, tạp chí, hội thảo khoa học) nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến việc phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL. Chúng tôi tham khảo và khái quát dưới các góc độ sau: 1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về nông dân, nông thôn mới và vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về nông thôn mới Các quan điểm đề cập nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của xây dựng NTM được trình bày trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, chúng tôi khái quát ở một số quan điểm cơ bản sau: Về ý nghĩa, nội dung và tầm quan trọng của xây dựng NTM đã được nhiều tác giả đề cập đến trong quyển sách Xây dựng nông thôn mới -Những vấn đề lý luận và thực tiễn của Phó Giáo sư, Tiến sĩ (PGS, TS) Vũ Văn Phúc chủ biên. Quyển sách gồm các bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan trung ương, các địa phương, các ngành, các cấp về xây dựng NTM, mà trong đó, các tỉnh, thành ĐBSCL cũng đã và đang tham gia thực hiện. Đề cập về ý nghĩa của xây dựng NTM, PGS, TS Vũ Văn Phúc khẳng định “Xây dựng nông thôn là quá trình lịch sử hàng ngàn năm nay của dân tộc ta… việc xây dựng NTM đáp ứng được mong ước của nhân dân và thỏa mãn các yêu cầu, mục tiêu chiến lược xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020” [35;12]. Tác giả Hồ Xuân Hùng khẳng định chức năng cơ bản của NTM phải tập trung ở ba nội dung quan trọng, là: sản xuất nông nghiệp, giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc và chức năng sinh thái [35;34]. Cũng có cùng quan điểm trên, song theo Tiến sĩ (TS) Phạm Tất Thắng, NTM có thể khái quát theo năm nội dung cơ 7 bản “Thứ nhất, đó là làng, xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; thứ hai, sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; thứ ba, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân nông thôn ngày càng nâng cao; thứ tư, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn; thứ năm, xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ” [35;52]. Đồng thời, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Xây dựng nông thôn mới các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long-cơ sở khoa học và thực tiễn”, do sự phối hợp tổ chức của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ, Học viện Chính trị khu vực IV và Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn, tại thành phố Cần Thơ, tháng 10/2012, cũng đã có nhiều bài viết phân tích sâu, rộng các vấn đề liên quan đến xây dựng NTM ở ĐBSCL. Trong đó, các tác giả đều khẳng định vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của xây dựng NTM ở ĐBSCL, và nhấn mạnh đến việc vận dụng các tiêu chí xây dựng NTM ở ĐBSCL phải chú ý đến đặc điểm riêng có của ĐBSCL. Trong nghiên cứu của mình, TS Phạm Hùng khẳng định “Xây dựng NTM phải gắn chặt với đặc điểm của từng vùng và nằm trong tổng thể chung trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước” [14;01] và “xây dựng NTM ở ĐBSCL góp phần thực hiện mục tiêu phát triển thành vùng kinh tế trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa và thủy sản của cả nước…” [18; 02]. Đồng thời, TS Hà Văn Tác cũng nêu quan điểm: “Quá trình xây dựng NTM hiện nay ở nước ta là một cuộc vận động cách mạng to lớn và có ý nghĩa sâu sắc, toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội … Vùng ĐBSCL gồm 13 tỉnh, thành từ Long An đến Cà Mau, có rất nhiều điểm khác biệt so với các vùng khác ở nước ta. Vì vậy, khi tiến hành xây dựng NTM nơi đây phải đặc biệt quan tâm đến những điều kiện riêng của nó” [18; 32]. PGS, TS Nguyễn Văn Sánh tham gia nêu thêm lưu ý: “việc xây dựng xã NTM tùy thuộc rất nhiều vào đặc điểm kinh tế-xã hội, tài nguyên và văn hóa từng địa phương và từng vùng. Vì thế phân tích điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức. Từ đó đề xuất giải pháp cần cải tiến nhằm thực hiện chương trình xây dựng NTM tại vùng ĐBSCL thành công hơn thì rất cần thiết” [18;64]. Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL-30 năm nhìn lại”, do Thành ủy thành phố Cần Thơ, Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ và Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức tại thành phố Cần Thơ, ngày 19/5/2014. Tại Hội thảo, các học giả đã nghiên cứu sâu sắc cả về lý luận lẫn thực 8 tiễn quá trình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL trong 30 năm vừa qua, đặc biệt trong nhiều bài viết, các tác giả khẳng định mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ và vai trò của NTM đối với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Tham gia trong Hội thảo, PGS, TS Võ Văn Thắng khẳng định: “xây dựng NTM là một trong những nội dung, nhiệm vụ và là thành tố quan trọng, quyết định đối với việc thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” [19; 203] và những thành tựu đạt được của quá trình xây dựng NTM ở các tỉnh ĐBSCL vừa qua “đã góp phần đắc lực thúc đẩy phát triển mọi mặt kinh tế-xã hội, trong đó nổi trội nhất là thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương; củng cố niềm tin của nhân dân vùng ĐBSCL đối với mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ngày một vững chắc hơn” [19; 207]. Nhấn mạnh tầm quan trọng của xây dựng NTM, PGS, TS Vũ Văn Phúc yêu cầu: “Coi việc xây dựng NTM vừa là mục tiêu, yêu cầu của phát triển bền vững, vừa là nhiệm vụ cấp bách, là chủ trương có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và mang tính nhân văn sâu sắc” [19; 15]. Cũng trong Hội thảo này, TS Hồ Cao Việt khái quát một cách sâu sắc, cụ thể mục tiêu, ý nghĩa, tầm quan trọng cũng như yêu cầu cần thiết của quá trình xây dựng NTM, tác giả chia sẻ: “Xây dựng NTM ở Việt Nam thực chất là một mô hình nhằm cải thiện đời sống kinh tế-xã hội ở vùng nông thôn, giảm khoảng cách giàu-nghèo ngày càng lớn giữa nông thôn và thành thị, dựa trên cơ sở những đầu tư từ chính phủ và nguồn lực nội tại của địa phương” [19; 308]. Tại Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM khu vực ĐBSCL, tổ chức trong các ngày 24 - 25/02/2014 tại tỉnh Hậu Giang, trong Báo cáo tóm tắt của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nêu bật những ưu điểm và hạn chế của quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL, từ đó chỉ rõ các vấn đề đặt ra mà các tỉnh ĐBSCL cần lưu tâm trong thời gian tới. Đặc biệt, Bộ NN&PTNT đã trình bày một số kiến nghị đối với Chính phủ nhằm tạo những điều kiện thuận lợi phù hợp hơn với đặc thù vùng ĐBSCL, đó là các vấn đề: chính sách đặc thù cho phát triển hạ tầng thiết yếu, phát triển nông nghiệp và bố trí sắp xếp dân cư; 9 chỉ đạo một số Bộ ngành liên quan xây dựng và thực hiện các chương trình đặc thù cho vùng [4]. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long Các quan điểm đề cập đến vai trò của ND trong xây dựng NTM được trình bày trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, chúng tôi khái quát ở một số quan điểm cơ bản sau: Tại Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM khu vực ĐBSCL, tổ chức trong các ngày 24-25/02/2014 tại tỉnh Hậu Giang, trong Báo cáo Tham luận của Ban Chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh Hậu Giang đã rút ra bài học kinh nghiệm khẳng định vai trò quan trọng của ND trong xây dựng NTM, báo cáo khẳng định: “Biết kế thừa và phát huy rất nhiều bài học kinh nghiệm thành công từ các chương trình mục tiêu, các phong trào quần chúng trước đây để vận dụng sáng tạo vào xây dựng NTM. Trong đó có bài học xuyên suốt đó là: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” [4]. Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL-30 năm nhìn lại”, do Thành ủy thành phố Cần Thơ, Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ và Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức tại thành phố Cần Thơ, ngày 19/5/2014. Trong đó, PGS, TS Vũ Văn Phúc khẳng định: “CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp của toàn dân, từng hộ gia đình ND vừa là chủ thể vừa là đối tượng CNH, HĐH” [19; 15]. Còn theo TS Nguyễn Thị Thu Nga và Trần Thị Phương Huỳnh, “Hơn ở đâu hết, bài học to lớn mà phong trào xây dựng NTM ở ĐBSCL đạt được trong thực tiễn nhận thức và hành động của hệ thống chính trị (HTCT) cơ sở và người ND đó là bài học phải dựa vào sức dân, lấy dân làm gốc” [19; 307]. Cùng quan điểm đó, ThS Trịnh Xuân Thắng nhấn mạnh: “Người ND là chủ thể chính trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, là lực lượng lao động đông đảo nhất trong nguồn nhân lực ngành nông nghiệp” [19; 435]. Ngoài ra, khi bàn đến giải pháp để ND thoát nghèo, ThS Hồng Quân chia sẻ: “… để có một chính sách giá cả nông nghiệp vì ND, thì rất cần có sự tham gia của ND khi xây dựng, thực thi và đánh giá tác động của chính sách này” [19; 473]. 10 Tại Hội thảo khoa học: “Xây dựng nông thôn mới các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long-cơ sở khoa học và thực tiễn”, do sự phối hợp tổ chức của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ, Học viện Chính trị khu vực IV và Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn, tại thành phố Cần Thơ, tháng 10/2012, ThS Trần Văn Huấn đã nhấn mạnh: “Vai trò chủ thể của ND trong xây dựng NTM văn minh, hiện đại được thể hiện là chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch xây dựng NTM; chủ động, sáng tạo xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn; trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; tích cực, sáng tạo trong xây dựng và giữ gìn đời sống văn hóa-xã hội, môi trường ở nông thôn; là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính trị-xã hội vững mạnh, đảm bảo an ninh trật tự ở cơ sở” [18; 98]. Tham gia trong Hội thảo, TS Đỗ Minh Nhựt quan niệm: “Người dân là chủ thể trong xây dựng NTM, vì người dân trực tiếp xây dựng và hưởng lợi từ chương trình vì vậy cần phát huy tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quy hoạch, tổ chức thực hiện đề án, dự án” [18; 185]. Cùng có quan điểm xem trọng vai trò của người dân trong xây dựng NTM, theo tác giả Đoàn Ngọc Phả: để xây dựng NTM đạt kết quả tốt đẹp, chúng ta phải “Tập trung nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân là mục tiêu của xã NTM, và cũng là động lực để người dân có điều kiện tham gia xây dựng NTM… thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” [18; 197]. Trong quyển Nguyên lý phát triển “Tam nông”&ứng dụng vào bối cảnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (2009), TS Nguyễn Văn Sánh khẳng định, khi giải quyết mối quan hệ “4 nhà” trong phát triển “Tam nông” cần xác định rõ vai trò của các nhà, trong đó vai trò của ND được thể hiện ở 6 nội dung: “Tham gia vào các hình thức tổ chức sản xuất và hiệp hội; ứng dụng khoa học và công nghệ để giảm giá thành và nâng cao năng xuất; tuân thủ các quy định Nhà nước; không ngừng nâng cao năng lực để tiếp cận và liên kết các nhà còn lại; tiếp cận các dịch vụ khuyến nông và tín dụng; liên kết với doanh nghiệp để giải quyết đầu ra” [39; 38]. Trong quyển Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng giai cấp ND trong giai đoạn hiện nay (2010), TS Ngô Huy Tiếp khẳng định: “Giai cấp ND Việt Nam với tinh thần cách mạng, tiếp nối truyền thống năm xưa đã khẳng định được vai trò to lớn 11 của mình thể hiện ở việc chi phối và quyết định sự thành bại của cả quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” [50; 46]. Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, tác giả khảo sát một số bài viết đăng trên các báo, có thể khái quát một số bài viết tiêu biểu như: Tác giả Cao Thanh Quỳnh trong bài viết: “Vai trò ND trong xây dựng NTM” đăng trên Báo Nông nghiệp, đã khẳng định: Trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng NTM hiện nay, ND giữ vị trí là “chủ thể”, đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết, nhằm phát huy nhân tố con người, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của ND vào công cuộc xây dựng nông thôn cả về kinh tế, văn hóa và xã hội đồng thời bảo đảm những quyền lợi chính đáng của họ. Vai trò của ND trong xây dựng NTM văn minh, hiện đại, được thể hiện là: chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng NTM; chủ thể chủ động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn; chủ thể trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; chủ thể tích cực, sáng tạo trong xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá-xã hội, môi trường ở nông thôn; là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính trị-xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự xã hội ở cơ sở [69]. Tác giả Minh Khang trong bài viết “Vai trò của ND trong xây dựng NTM” đăng trên Cổng Thông tin Điện tử Trường Chính trị Bạc Liêu khẳng định: Xây dựng NTM là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm làm thay đổi bộ mặt của nông thôn cho phù hợp với thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Để thực hiện thành công chủ trương đó thì ND đóng một vai trò rất quan trọng. Sự nghiệp xây dựng NTM với 19 tiêu chí sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia đóng góp của ND. Vai trò của ND thể hiện ở các nội dung: Một là, ND là nguồn nhân lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp và xây dựng NTM; Hai là, ND là người trực tiếp xây dựng, giữ gìn và bảo vệ kết cấu hạ tầng nông thôn; Ba là, ND là những người trực tiếp đóng góp và đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng NTM đi vào cuộc sống; Bốn là, ND là những người trực tiếp tham gia đóng góp xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội; Năm là, ND là chủ thể xây dựng đời sống văn hóa tinh 12 thần ở các vùng nông thôn; Sáu là, ND là chủ thể giữ gìn an ninh, trật tự ở các vùng nông thôn [74]. 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long “Thực trạng phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long” là một nội dung nghiên cứu mới, qua nghiên cứu và khảo sát, chúng tôi chưa tìm thấy tác giả nào thực hiện công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này. Tuy nhiên, có một số bài viết trong các cuộc Hội thảo và bài viết trên các tạp chí Trung ương và báo địa phương có đề cập nội dung liên quan đến thực trạng vai trò và phát huy vai trò của ND trong quá trình xây dựng NTM ở ĐBSCL. Ở nội dung này, chúng tôi khái quát một số quan điểm của các nhà nghiên cứu theo hai phần cơ bản sau: 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về vai trò của hệ thống chính trị ở địa phương trong việc phát huy vai trò của nông dân Qua khảo sát nhiều bài viết, tác giả nhận thấy, thời gian qua các cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể chính trị-xã hội ở địa phương luôn quan tâm đến việc vận động, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của ND về NTM; đã có nhiều cách làm hay, thiết thực nhằm huy động nguồn nhân lực, vật lực của ND tham gia tích cực, tự giác và hiệu quả vào quá trình xây dựng NTM. Trong bài viết “Chung sức xây dựng NTM”, tác giả Bùi Văn Sang khẳng định “Không trông chờ, ỷ lại, xã Vĩnh Trinh chủ động phát huy nội lực, tập trung huy động sức mạnh của cả HTCT và các tầng lớp nhân dân chung sức xây dựng NTM…” [70]. Khi nói về quá trình xây dựng NTM ở huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu, tác giả Việt Sử - Quốc Khánh khẳng định “Đảng bộ Phước Long xác định, phát huy sức mạnh nội lực tại địa phương bằng truyền thống cách mạng, đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường với tinh thần tiến công đột phá đúng phương châm “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”… Khi người dân hiểu được ý nghĩa của việc xây dựng NTM thì sẽ đồng thuận với Đảng, biến ý Đảng thành lòng dân… Phước Long có xuất phát điểm thấp nhưng qua việc xây dựng NTM, bộ mặt nông thôn thay đổi đến diệu kỳ là nhờ toàn Đảng bộ đoàn kết, nhất trí, biết khơi dậy sức mạnh từ lòng dân”. [71]. 13 Tác giả Nguyễn Hòa Hiệp - Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Kiên Giang trong bài viết “Kiên Giang: 6 biện pháp hướng về cơ sở” đăng trên Tạp chí Cộng sản, đã khẳng định: HTCT ở cơ sở, nhất là các xã vùng biên giới có vai trò quan trọng, toàn tỉnh đã tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở, chú trọng đến vấn đề tôn giáo, dân tộc ở các xã vùng biên giới, hải đảo. Đến nay, công tác xây dựng HTCT ở cơ sở đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Đồng thời, tác giả cũng yêu cầu HTCT ở cơ sở cần phải: nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cấp ủy cơ sở; củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng ở xã; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền, mặt trận, các đoàn thể ở cơ sở đồng bộ và đổi mới phương thức chỉ đạo của các cấp ủy [75]. Tiến sĩ Lê Hanh Thông trong bài viết “Xây dựng NTM ở ĐBSCL-Thực trạng và những vấn đề đặt ra” đã khẳng định: Để chương trình xây dựng NTM thực hiện đạt kết quả, vai trò của HTCT cơ sở và của người dân hết sức quan trọng. Đây không chỉ là lực lượng trực tiếp tham gia vào chương trình, mà điều quan trọng hơn là HTCT cơ sở cũng như những người dân phải cùng chung tay, góp sức phát huy hết năng lực của địa phương và của từng gia đình góp phần hoàn thành sự nghiệp xây dựng NTM [72]. Trong bài viết “Xây dựng NTM-bước đi vững chắc cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL”, PGS, TS Võ Văn Thắng đã khẳng định: “Thời gian qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở ở các địa phương đều nhận thức rõ việc bảo đảm an ninh trật tự là một trong những nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong việc củng cố vững chắc HTCT và đảm bảo cho sự phát triển bền vững của kinh tế-xã hội địa phương. Vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội ngày càng phát huy mạnh mẽ, chất lượng hoạt động, hiệu quả công tác ngày một nâng lên. Đạt được kết quả này là do có sự phối hợp tốt từ cả hai phía: HTCT và quần chúng nhân dân” [47; 83]. 1.2.2. Các công trình nghiên cứu về nông dân tự phát huy vai trò của giai cấp mình Tác giả các bài viết đã chỉ ra nét nổi bật về vai trò của ND trong xây dựng NTM của các tỉnh, thành: nhiều hộ dân tự nguyện hiến đất, góp công lao động nâng cấp giao thông nông thôn, các công trình công cộng; ND tự tu sửa nơi ở, tường rào, tham gia 14 các hoạt động văn hóa-văn nghệ ở xóm, ấp… Đặc biệt, với những xã có đông đồng bào dân tộc Khmer thì việc huy động sức dân là điều hết sức cần thiết, trong đó lực lượng đồng bào Khmer là tín đồ của Phật Giáo và các sư cả ở các chùa giữ vị trí quan trọng, quyết định nhất. Tiến sĩ Lê Hanh Thông trong bài viết “Xây dựng NTM ở ĐBSCL-Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, cho rằng “Thực tiễn qua tổng kết thí điểm ở 11 xã cấp quốc gia, nhìn chung các xã tham gia đều đạt được những kết quả khả quan. Những kết quả đó không chỉ là sự quan tâm, đầu tư hỗ trợ từ Nhà nước mà còn là sự phát huy tinh thần trách nhiệm cao độ của hệ thống đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng ở cơ sở, sự đóng góp sức lực, tiền của của dân. Các tổ chức đảng, chính quyền ở cơ sở đã phát huy sức mạnh của tổ chức thông qua việc tuyên truyền, vận động, tổ chức cho dân thực hiện cùng chung tay xây dựng NTM. Với các hộ ND, thông qua vận động, tuyên truyền của địa phương, nhiều hộ đã tham gia đóng góp tiền của, tài sản vào xây dựng địa phương. Điển hình, ở miền Đông Nam Bộ có gia đình đã đóng góp 200 gốc cao su để làm đường (xã Tân Lập, Đồng Phú, Bình Phước); ở ĐBSCL có ND đã tự nguyện hiến đất để chính quyền đầu tư xây dựng hai nhà máy nước với tổng trị giá 9,3 tỷ đồng (xã Vị Thanh, Vị Thủy, Hậu Giang)” [72]. Tác giả Việt Sử - Quốc Khánh khẳng định kết quả xây dựng NTM ở huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu thời gian qua có sự tham gia rất tích cực từ phía người ND nông thôn, đặc biệt trong “Bốn năm qua, nhân dân hiến gần 600.000 mét vuông đất để xây dựng cầu, đường, nhà văn hóa, trường học, trạm xá…tổng giá trị gần 1.000 tỉ đồng…”[71]. Khi nghiên cứu địa bàn xã Vĩnh Trinh, tác giả Bùi Văn Sang trong bài viết “Chung sức xây dựng NTM”, đã kết luận: “Trong số 14 tiêu chí đạt thêm, tiêu chí giao thông đạt được đã thể hiện ý thức tự lực và thể hiện rõ vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng NTM. Cụ thể nhân dân xã Vĩnh Trinh đã đóng góp xây dựng 9.850m đường giao thông mặt cứng với tổng kinh phí 19,5 tỉ đồng (trong đó: giá trị hiến đất là 703 triệu đồng, giá trị vật tư là 7,197 tỉ đồng, còn lại là vốn nhà nước), nâng tổng số toàn xã có 16,45/16,65km (đạt 98,79%) đường giao thông mặt cứng, mặt đường rộng 2,5 - 3 mét, góp phần làm cho đường thông nhà thoáng và bộ mặt nông thôn xã Vĩnh Trinh ngày càng khang trang hơn” [70]. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất