Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi mới giáo dụ...

Tài liệu Phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi mới giáo dục ở tỉnh bến tre hiện nay

.PDF
99
119
68

Mô tả:

LUẬN VĂN: Phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi mới giáo dục ở tỉnh Bến Tre hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn kiện Hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định “Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục, đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh, bền vững” [6, tr.2]. Để thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi nền GD&ĐT nước ta không chỉ mở rộng qui mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo mà còn phải chú trọng việc nâng cao chất lượng toàn diện một cách phù hợp. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục THPT được xem là nền tảng và có ý nghĩa quan trọng đối với nguồn nhân lực của đất nước; bởi lẽ giáo dục THPT là nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Để giáo dục THPT thực sự có chất lượng cao phải đảm bảo đồng bộ về các điều kiện như nội dung chương trình, giáo khoa, cơ sở vật chất; đồng thời phải kể đến vai trò nòng cốt của đội ngũ giáo viên. Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư đã nêu rõ: Tăng cường xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chấn hưng đất nước. Nhân dân Bến Tre vốn có truyền thống hiếu học và "tôn sư, trọng đạo", giáo viên luôn được tôn trọng và quý mến. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh luôn được Đảng bộ đặc biệt quan tâm trên quan điểm "Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Nhờ đó, cùng với sự quan tâm của xã hội và đầu tư của Trung ương, ngành giáo dục Bến Tre có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới, thực trạng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh còn những hạn chế về năng lực, và không đồng bộ về cơ cấu. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục. Giáo viên THPT vẫn còn thiếu, hẫng hụt nhiều ở các môn kỹ thuật, giáo dục công dân, giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng và an ninh, tin học. Giáo viên dạy các môn khối kinh tế, kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp chưa được đào tạo chính quy (số đông qua đào tạo tại chức). Chưa có giáo viên đạt trình độ sau đại học ở hai khối này. Một số giáo viên thiếu mẫu mực trong đạo đức, nhân cách, lối sống, chưa thật sự tấm gương tốt cho học sinh noi theo. Trước những yêu cầu của đổi mới giáo dục, đội ngũ giáo viên THPT công lập tỉnh Bến Tre còn một số bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu, điều này đã hạn chế đến việc cải thiện chất lượng giáo dục, nhất là trong giai đoạn hiện nay cả nước đang đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và phân ban đại trà kể từ năm học 2006-2007. Do vậy, vấn đề phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông công lập tỉnh Bến Tre trong quá trình đổi mới giáo dục hiện nay trở thành yêu cầu bức thiết và quan trọng. Là người trực tiếp làm công tác tuyên giáo, trong đó có công tác khoa giáo gắn liền với giáo dục đào tạo ở tỉnh Bến Tre, với lòng thiết tha mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc phát huy vai trò tiềm năng, tính sáng tạo của đội ngũ giáo viên trong quá trình đổi mới giáo dục của tỉnh Bến Tre phát triển cùng với cả nước. Do vậy, tôi chọn đề tài: “Pht huy vai trị của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi mới giáo dục ở tỉnh Bến Tre hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài Trong thời gian gần đây đã có một số công trình có liên quan tới đề tài. Cụ thể là: - “Gia đình, nhà trường, xã hội với việc phát triển tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài” mã số KX-07-18 (1996) của PGS.TS Nguyễn Trọng Bảo chủ biên với nhiều vấn đề được phân tích, trong đó có các vấn đề đóng góp vào đổi mới giáo dục, phát triển đất nước. - “Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm của các quốc gia”, của Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Nxb Chính Trị quốc gia 2002, là tập hợp những kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học có liên quan đến lĩnh vực chiến lược phát triển giáo dục. Những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan về vai trò của đội ngũ giáo viên trong giai đoạn hiện nay như: - PGS.TS Phan Thanh Khôi (2006), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. Trong đó có nội dung đề cập đến giáo dục và đào tạo của Đảng. - Phạm Thanh Sơn (2001), Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin trong các trường Đại học nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học. Luận án chủ yếu bàn về đội ngũ giáo viên Mác-Lênin và vai trò của đội ngũ này trong các trường đại học. - Đỗ Tuyết Bảo (2001), Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học. Nghiên cứu vai trò, ý nghĩa giáo dục đối vơí sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh trung học cơ sở trong điều kiện mới. - Dương Thị Thúy Nga (2006), Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học phổ thông tỉnh Thái Bình hiện nay, Luận văn thạc sĩ CNXHKH. Đã trình bày và lý giải về những đổi mới nâng cao vai trò của đội ngũ giáo viên trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học phổ thông. Từ hướng tiếp cận những động lực tích cực của con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, như: - PGS.TS Nguyễn Đức Bách: “Mấy vấn đề cần đổi mới, tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ”. Tạp chí thông tin công tác khoa giáo, tháng 4-1995. - GS.VS Nguyễn Cảnh Toàn: “Chất lượng giáo dục phổ thông-một số vấn đề cấp thiết”. Văn nghệ, 4/10/2003 và 11/10/2003. - GS. Hoàng Tụy: “Giáo dục đang đi về đâu?". Văn nghệ, 27/12/2003 Đã tập trung phân tích các nhân tố có ảnh hưởng tới phát huy tính tích cực của đội ngũ giáo viên trong việc giáo dục đào tạo. Như vậy, đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống vấn đề vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi mới giáo dục trên địa bàn một tỉnh, trong đó có tỉnh Bến Tre. Đây là lý do tác giả chọn đề tài: “Phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong đổi mới giáo dục ở tỉnh Bến Tre hiện nay” làm đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng và làm rõ vai trò đội ngũ giáo viên THPT ở tỉnh Bến Tre hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ giáo viên THPT góp phần đảm bảo chất lượng và bảo đảm quá trình đổi mới giáo dục THPT của tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. - Nhiệm vụ: Luận văn có 3 nhiệm vụ sau: + Làm rõ đổi mới giáo dục ở nước ta và vai trò của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông trong quá trình đổi mới giáo dục. + Phân tích thực trạng việc phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên THPT trong đổi mới giáo dục ở tỉnh Bến Tre hiện nay. + Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên THPT tỉnh Bến Tre đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới giáo dục của tỉnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Nghiên cứu đội ngũ giáo viên THPT tỉnh Bến Tre dưới góc độ chính trị - xã hội thể hiện trong quá trình đổi mới. - Phạm vi: Đội ngũ giáo viên THPT trong quá trình đổi mới giáo dục (từ khi có Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đến nay) thuộc các trường trung học phổ thông ở tỉnh Bến Tre. 5. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước về vai trò của đội ngũ giáo viên trong quá trình đổi mới giáo dục. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh lôgíc và lịch sử, thống kê, điều tra xã hội học, gắn lý luận với thực tiễn vấn đề. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Làm rõ quan hệ giữa đội ngũ giáo viên và đổi mới giáo dục ở trung học phổ thông trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn. - Đề xuất một số giải pháp để nâng cao vai trò của đội ngũ giáo viên trong quá trình đổi mới giáo dục ở các trường trung học phổ thông trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa của luận văn - Kết quả nghiên cứu luận văn có thể góp phần làm sáng tỏ và cụ thể thêm vấn đề lý luận về vai trò của đội ngũ giáo viên ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bến Tre trong đổi mới GD&ĐT hiện nay. - Luận văn góp thêm tài liệu tham khảo cho ngành giáo dục đào tạo mà trước hết là giáo dục đào tạo tỉnh Bến Tre. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết. Chương 1 ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA 1.1.1. Tính tất yếu của đổi mới giáo dục Một là, điều làm xã hội lo lắng là chất lượng giáo dục và đào tạo của nước ta đang có những yếu kém ở mọi cấp học. Thiếu sót bất cập nhất của giáo dục là chất lượng và hiệu quả thấp. Nó bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa nhu cầu học vấn ngày càng tăng của nhân dân với khả năng đáp ứng còn hạn chế của hệ thống giáo dục; giữa nhu cầu phát triển giáo dục với khả năng đáp ứng của nền kinh tế; giữa số lượng, chất lượng, trình độ được đào tạo của học sinh với khả năng thu hút, sử dụng của thị trường lao động xã hội; giữa nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục lạc hậu với sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất xã hội, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin, giữa hệ thống giáo dục chính quy và hệ thống giáo dục không chính quy, hay nói cách khác là giữa giáo dục, mang tính chuẩn bị tiềm năng lâu dài với giáo dục mang tính chất phổ cập. So với mục tiêu mà Đại hội X của Đảng đã đề ra là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển tri thức để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và sự cạnh tranh quốc tế trong đó có cạnh tranh về giáo dục và nguồn nhân lực trong tiến trình toàn cầu hoá, thì tình trạng bất cập đó càng lớn hơn và gay gắt hơn nhiều. Hai là, một bất cập khác là không ít giáo viên không đủ sức đề kháng với tiêu cực của kinh tế thị trường. Tệ mua bằng, bán điểm đã trở thành tệ nạn. Tiêu cực trong dạy thêm học thêm, coi mục tiêu lợi nhuận là hàng đầu trong tổ chức hoạt động giáo dục xuất hiện ở nhiều nơi gây bức xúc trong dư luận, làm giảm uy tín và vị thế của người thầy, của người giáo viên trong xã hội. Môi trường sư phạm bị xúc phạm do đồng tiền chi phối các mối quan hệ vốn rất được tôn kính. Trong khi đó, những yếu tố tích cực của kinh tế thị trường lại không được nhìn nhận, đánh giá đúng và tìm cách phát huy như sự minh bạch trong thu chi... Các khái niệm "thị trường", "xã hội hoá" đã không được nhận thức đúng bản chất, không được minh bạch, nên đã bị lạm dụng, tạo nên hình ảnh xấu về các lĩnh vực này trong con mắt của nhân dân và cả xã hội, làm ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước cũng như của ngành giáo dục và đào tạo. Ba là, đường lối phát triển giáo dục và đào tạo là đúng nhưng chưa được cụ thể, rõ ràng, chưa có giải pháp thực hiện và còn bị lúng túng trong cơ chế quản lý, thiếu tính chuyên nghiệp, đã gây nhiều khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện các chủ trương chính sách trong thực tiễn. Quan điểm "Giáo dục là quốc sách hàng đầu" chưa được quán triệt đầy đủ và thực hiện cụ thể. Nhiều quan điểm quản lý chưa có cơ sở lý luận và phù hợp với điều kiện thực tế, chưa có một đề án, kế hoạch tổng thể; chưa có đủ điều kiện thực hiện cả con người, vật chất và sự đồng thuận xã hội. Bốn là, sự không hoàn thiện của cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Về mặt văn bản, đã từng có một mô hình cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân khá cụ thể, rõ nét. Tuy nhiên, việc triển khai mô hình này trong thực tiễn mấy chục năm qua đã bộc lộ những bất cập với yêu cầu của thực tiễn, gây nên bất hợp lý trong giải quyết nguồn nhân lực, cả về định tính và định lượng. Cho đến nay chưa giải quyết được vấn đề phân luồng THCS và THPT, vẫn chưa phân biệt hai luồng đào tạo và thực hành, thực tiễn "thầy thợ", "thừa - thiếu" không có cách giải quyết; chưa có sự thống nhất trong quản lý các trường nghề, chưa thật sự hoàn thiện phân cấp mạng lưới các cơ sở đào tạo nhân lực từ Trung ương đến địa phương. Chính sự không rõ ràng trong khái niệm này đã dẫn đến chồng chéo trong quản lý. Việc phân cấp mặc dù đã được khẳng định nhưng còn chậm vào đời sống thực tiễn. Năm là, sự bất cập về lý luận khoa học giáo dục, lý luận quản lý giáo dục. Đúng ra lý luận của hai lĩnh vực này phải đi trước thực tiễn một bước, làm sáng tỏ cho thực tiễn. Nhưng trong thực tế, lý luận của hai lĩnh vực này ở nước ta thời gian qua còn chậm chạp. Không khí tranh luận kém sôi nổi, thiếu thẳng thắn trong học thuật đã kéo theo sự phân tâm của xã hội trước một số chủ trương lớn như: vấn đề học phí, việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, phân ban ở cấp học phổ thông; việc cải tiến hình thức tổ chức đào tạo và mạng lưới trường lớp; việc hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân; vấn đề xã hội hoá giáo dục... phát triển giáo dục trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa làm tăng vốn con người, vốn tổ chức, vốn xã hội ở nước ta, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy đất nước đi vào con đường hội nhập. Những lý thuyết thực tiễn của các vấn đề trên là rất quan trọng trong tiến trình đổi mới giáo dục, song ở nước ta chưa bàn một cách thấu đáo, trên các diễn đàn khoa học. Thực tế này đòi hỏi giáo dục phải có những bước đột phá trong quá trình đổi mới để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội cũng như yêu cầu đổi mới giáo dục gắn với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tóm lại, đất nước đổi mới đồng bộ, toàn diện, sâu sắc ngành giáo dục cũng phải đổi mới. Không đổi mới, giáo dục không thể phát triển, không đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. 1.1.2. Nội dung đổi mới 1.1.2.1. Đổi mới quy mô và loại hình đào tạo - Quy mô giáo dục không ngừng được nâng lên, mạng lưới trường lớp được mở rộng. Năm 2000, Nhà nước chỉ cho giáo dục là 18.386 tỉ đồng chiếm 4.2% tổng sản phẩm nội địa. Năm 2006, chi cho giáo dục 54.798 tỉ đồng chiếm 5.62% tổng sản phẩm nội địa. Như vậy, chỉ sáu năm, ngân sách cho giáo dục tăng gấp 3 lần. Tỉ lệ chi cho giáo dục của chúng ta từ tổng thu nhập nội địa là 5.62% đ l loại cao nhất thế giới (tỉ lệ chi cho gio dục của một số nước như: Inđônêxia 0.9%, Philipines 2.7%, Nhật Bản 3.5%, Thái Lan 3.9%, Đức 4.3%, Hàn Quốc 4.4%, Mỹ 5.29%, Pháp 5.7% và Malaysia 5.8%). Các mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đ được thực hiện, công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở cơ bản được đẩy mạnh. Đầu năm học 2006 - 2007, tổng số học sinh, sinh viên trong cả nước là gần 21.574.172, giảm khoảng 0,33% so với năm học 2005-2006.Trong đó, học sinh mầm non: gần 3.147.252; học sinh phổ thông: gần 9.329.737; học sinh trung học chuyên nghiệp: 515.670; sinh viên đại học cao đẳng: gần 1,52 triệu; học sinh học nghề: gần 1.522.000 và học sinh học tập theo phương thức không chính quy (gồm học sinh xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, giáo dục và đào tạo từ xa: hơn 453.540). So với năm học 2005-2006 số học sinh trung học phổ thông và số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp khoảng 11,5% lần. Tính bình qun trung học cơ sở giảm 3,72% năm, trung học phổ thông tăng 4,33% năm. Xu thế đi học đúng độ tuổi tăng lên: tỉ lệ trẻ 5 tuổi được học mẫu giáo lớn là 81%; số trẻ trong độ tuổi tiểu học đến trường chiếm tỉ lệ cao từ đó góp phần ổn định quy mô giáo dục tiểu học. Cùng với việc tăng quy mô, mạng lưới trường lớp và các loại hình đào tạo tiếp tục được củng cố, phát triển rộng khắp trong cả nước kể cả vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và vùng dân tộc góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em nhân dân. Hiện nay, cả nước có 39.695 trường học, bao gồm 11.509 trường Mầm non mẫu giáo; 14.839 trường tiểu học, 10.401 trường trung học cơ sở, 2.355 trường trung học phổ thông, 269 trường trung học chuyên nghiệp, 322 trường Cao đẳng và đại học. So với năm học 2005-2006, ở tiểu học và trung học cơ sở đ cĩ thm 277 trường; ở trung học phổ thông có thêm 87 trường; đại học và cao đẳng có thêm 67 trường (trong đó có thêm 54 trường đại học, cao đẳng công lập; 13 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập). Cùng với việc củng cố, phát triển trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú, các địa phương đ quan tm bố trí, sắp xếp hệ thống trường lớp tiểu học và trung học cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc, tạo điều kiện cho trẻ em đến trường. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp được sắp xếp hợp lý v tiếp tục được củng cố, phát triển các trường đại học trọng điểm của các khối: sư phạm, công nghệ, nông nghiệp, kinh tế được tăng cường. Các vùng khó khăn như Tây Bắc, Nam trung bộ, đặc biệt Chính phủ đ chỉ đạo cho Bộ giáo dục và Đào tạo lưu tâm việc đẩy mạnh phát triển các trường đại học, cao đẳng tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề và trung tâm giáo dục thường xuyên phát triển rộng khắp. Hệ thống các trường sư phạm từ trung ương đến địa phương tiếp tục được củng cố, nâng cao chất lượng; góp phần tăng cường điều kiện tạo thuận lợi trong việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo hướng chuẩn hóa đội ngũ, đáp ứng tốt nhiều hơn nữa các yêu cầu về phổ cập trung học cơ sở, triển khai chương trình gio dục phổ thơng mới trong thời gian tới. Đến nay phổ cập giáo dục tiểu học đạt 100% của 64 tỉnh, thành cả nước, 98,19% dân số trong độ tuổi 15-35 biết chữ. Bảo đảm tỉ lệ 98% trẻ em 14 tuổi học hết tiểu học. Phát huy thành quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện Nghị quyết số 41/2000/QH 10 ngày 9/12/2000 của Quốc Hội, Chỉ thị số 61/CTTU Của Bộ Chính trị và Nghị định số 88/2001/NĐ-CĐ ngày 21/11/2001 của Chính Phủ, các địa phương trong cả nước đều tích cực triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Đến tháng 4/2008 đ cĩ 42/64 tỉnh, thnh phố được công nhận đạt Chuẩn Quốc gia phổ cập trung học cơ sở. Việc học tập để cập nhật tri thức, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, học vi tính, ngoại ngữ… Đ trở thnh nhu cầu thiết thực trong thanh nin ở nhiều địa phương. Các trung tâm Giáo dục thường xuyên được duy trì; ngnh gio dục đang chỉ đạo và các địa phương đang tổ chức thực hiện xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng ở nông thôn, nhằm tạo điều kiện, khả năng cung ứng cơ hội học tập cho nông dân, trước hết và phần lớn là thanh niên nông thôn, bước đầu đ đáp ứng được yêu cầu và có nhiều kết quả thiết thực. Đây là những nhân tố mới, tích cực cần có chính sách cơ chế quan tâm duy trì, pht triển nhằm xy dựng mặt x hội học tập. 1.1.2.2. Đổi mới đầu tư đào tạo đội ngũ giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật - Trong 5 năm qua, ngành giáo dục-đào tạo đ cng với cc địa phương tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên nhằm đồng bộ hoá về số lượng, hợp lý về cơ cấu vừa tăng qui mô vừa nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục. Hiện nay tổng số giáo viên, giảng viên toàn ngành trên 1.012.468, tăng 1,14% so năm học 2005-2006. Trong đó, số giáo viên mầm non và phổ thông là 946.410 tăng 3,73%. Số giáo viên Trung học chuyên nghiệp là 14.500 người, tăng 2,14%. Số giảng viên đại học, cao đẳng là 53.518 người, tăng 9,23%. Tỷ lệ giáo viên trên lớp tính chung cả nước, ở tiểu học là 1,21 (qui định là 1,18); ở trung học cơ sở là 1,63 (qui định là 1,85); ở trung học phổ thông là 1,71 (qui định là 2,1). So với 5 năm trước đây các tỉ lệ này ở cả 3 cấp đều tăng lên. Vấn đề đặt ra hiện nay là khó khăn về định mức biên chế giáo dục. Về chất lượng đội ngũ, đến đầu năm học 2006-2007 đ cĩ 85,25% gio vin mầm non; 93% gio vin tiểu học; 95% giáo viên Trung học cơ sở và 97% giáo viên Trung học phổ thông đạt trình độ chuẩn theo qui định của Luật giáo dục. Trong tổng số 14.500 giáo viên trung học chuyên nghiệp có 219 tiến sĩ, 1.914 thạc sĩ, 11.339 giáo viên đ tốt nghiệp đại học, cao đẳng, 737 giáo viên có trình độ trung học. Số giáo viên đạt chuẩn chiếm 93%. Trong tổng số 53.518 giảng viên đại học và cao đẳng, có 2.467 giáo sư và phó giáo sư, 5.882 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 18.272 thạc sĩ và 472 chuyên khoa cấp I và II. Tiếp tục thực hiện chỉ thị 34-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng củng cố tổ chức Đảng trong trường học, quan tâm chú trọng phát triển đảng viên là giáo viên trực tiếp đứng lớp. Hiện nay, cịn một số địa phương gặp khó khăn, tuy nhiên, cũng đ cĩ nhiều biện php, hình thức cch lm nhằm gio dục tư tưởng chính trị, đặc biệt là triển khai, quán triệt sâu nội dung Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Qua đó đ cĩ rất đông giáo viên nhận thức, tự nguyện phấn đấu vào Đảng. Đội ngũ cán bộ quản lý gio dục v gio vin đ v đang thực sự trở thành lực lượng nịng cốt, đi đầu trong nhiều công việc ở các địa phương. - Trong những năm qua, kết hợp nhiều nguồn vốn, đồng thời huy động sự đóng góp của nhân dân và các địa phương đ cố gắng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nhà trường, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng dạy và học. Đến đầu năm học 20062007 sau 4 năm thực hiện chương trình kin cố hố trường lớp, cả nước có thêm 70.000 phịng học mới với chi phí 9.000 tỉ đồng. Sau 33 năm thống nhất đất nước, tính chung cả nước từ bậc mầm non tới trung học có hơn 550.000 phịng học, trong đó phịng học kin cố hơn 280.000 chiếm 51%, cịn phịng học tạm, bn kin cố phịng học nhờ là 270.000 chiếm 49%. Tính năm 2008 tổng chi ngân sách nhà nước cho toàn ngành GD & ĐT là 72.520 tỷ đồng tăng hơn 6.000 tỷ đồng so với năm 2007 để xây dựng nâng cấp trường lớp. Nhưng vẫn cịn phịng học 3 ca ở đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ, Tây Nguyên, số phịng học tạm, học nhờ, phịng học bn kin cố tranh tre vch l vẫn cịn 170.000 phịng, tập trung ở vng núi, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn toàn quốc. Nhu cầu để xây dựng sửa chữa là hơn 25.000 tỉ đồng. Việc xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia đ cĩ tc dụng thiết thực trong việc tăng cường các điều kiện dạy và học, nâng cao chất lượng bậc học. Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 2008, cả nước có 4.630 trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia, bằng 30,79 % tổng số trường tiểu học trên cả nước. Việc tăng cường cơ sở vật chất cho các trường tiểu học đ tạo điều kiện để nhiều học sinh được học 2 buổi/ngày, thực hiện tốt hơn yêu cầu giáo dục toàn diện, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Nhiều trường phổ thông dân tộc nội trú, cao đẳng địa phương và một số trường đại học trọng điểm đ được nâng cấp, cải thiện r rệt về diện tích đất đai, phịng học, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Công tác xây dựng thư viện trường học, trang bị đồ dùng dạy học theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá được coi trọng. Đến nay đ cĩ 24.208 trường học đ cĩ thư viện bằng 61% tổng số trường. Một số địa phương đã tạo điều kiện để có biên chế cán bộ thư viện. Một số nơi đ chỉ đạo xây dựng tủ sách giáo khoa dùng chung đặc biệt, gần đây xuất hiện tủ sách Hồ Chí Minh, thư viện Hồ Chí Minh thu nhỏ tạo điều kiện để học sinh được đọc và tìm hiểu về Bc Hồ. Thực hiện thu mua sách cũ, tiết kiệm kinh phí, tạo điều kiện để học sinh mượn sách giáo khoa. Mặc dù cơ sở vật chất kỹ thuật đ được cải thiện, nhưng nhìn chung, gio dục nước ta vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Cơ sở vật chất trường lớp ở nhiều địa phương vẫn rất thiếu thốn do tác động thiên tai. Trang thiết bị, phịng thí nghiệm phục vụ giảng dạy v học tập mới đáp ứng khoảng 40% yêu cầu. Tình trạng dạy chay, thiếu học cụ cịn phổ biến. Việc chuẩn hĩa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật vẫn đang là một thách thức lớn, cần có sự chỉ đạo của UBND các tỉnh, thành phố. Để giải quyết cần tiếp tục cải tiến công tác kế hoạch và ngân sách, xây dựng hệ thống tiêu chí và định mức, nâng cao hiệu quả đầu tư, thực hiện công khai minh bạch về tài chính, xác định cơ chế quản lý đối với nguồn đầu tư do nhân dân đóng góp, nhất là việc quản lý ti chính ở tất cả cc trường. 1.1.2.3. Đổi mới các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ - Với quan điểm cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đóng vai trị then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa x hội, Bộ kế hoạch v đầu tư và Bộ tài chính đ tăng ngân sách cho giáo dục đảm bào yêu cầu định mức do Nghị quyết trung ương II đề ra. Trong điều kiện nguồn kinh phí cịn hạn hẹp, cc địa phương đ cĩ nhiều cố gắng cải tiến việc phn bổ, điều hành ngân sách; đầu tư thêm cho giáo dục từ nguồn ngân sách địa phưong (khoảng 20 - 30% ngân sách địa phương); đồng thời huy động đóng góp của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là các trường dạy nghề Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại học đ thơng qua con đường lao động sản xuất, dịch vụ, tư vấn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ mà tự xây dựng được nguồn vốn tự có, nguồn vốn này đ gĩp phần kinh phí đầu tư xây dựng nhà trường và cải thiện đời sống cho cán bộ giáo viên. Đến cuối năm 2007, trong các trường đại học đ cĩ trên 160 đơn vị nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất, trong đó có 11 viện nghiên cứu, 08 Văn phòng tư vấn, 136 Trung tâm nghiên cứu, triển khai. Các Trung tâm, các viện nghiên cứu của các trường đại học đ thực hiện hng nghìn hợp đồng với doanh thu hàng nghìn tỉ đồng, đóng góp xây dựng cơ sở vất chất cho nhà trường. Trong thời gian qua, để tăng cường năng lực cho các cơ quan nghiên cứu khoa học, đ cĩ trn 70 trung tm v viện nghin cứu trực thuộc cc trường đại học được đầu tư 14.000 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước và các nguồn vốn khác như viện trợ, hợp tác đầu tư của các tổ chức quốc tế, trong đó có trên 15 phịng thí nghiệm mạnh, có chất lượng cao về các linh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu. Một nguồn đầu tư quan trọng cho giáo dục là các dự án vay vốn và viện trợ quốc tế. Hiện nay ngành giáo dục có 09 dự án vay vốn nước ngoài thực hiện gối đầu trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2012 với tổng vay khoảng 825,4. triệu USD để đào tạo giáo viên, xây dựng trường học, tăng cường thiết bị, sách giáo khoa … Từ nguồn viện trợ không hoàn lại, nhiều địa phương thuộc địa bàn khó khăn đ được hỗ trợ để giáo dục trẻ khuyết tật, phát triển các Trung tâm học tập cộng đồng, giáo dục nghề nghiệp. Trên thực tế, tổng vốn đầu tư cho giáo dục cịn thấp v phương thức phân bổ cịn di tri, thiếu sự thống nhất quản lý v phối hợp giữa cc dự n, do đó hiệu quả đầu tư chưa cao, các điều kiện phát triển giáo dục chưa đạt yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa. - Cơng tc x hội hĩa gio dục đ đem lại kết quả bước đầu, đang phát huy tác dụng và đ gĩp phần quan trọnglm cho gio dục-đào tạo thực sự trở thànhsự nghiệp của toàn dân, toàn Đảng. Các lực lượng x hội tham gia ngy cng tích cực. Cc cấp ủy Đảng và chính quyền ở nhiều địa phương đ quan tm chỉ đạo, tổ chức các đại hội giáo dục. Nhằm tập hợp các ban, ngành, đoàn thể thảo luận để đạt được sự đồng thuận về các giải pháp và phân định trách nhiệm xây dựng và phát triển giáo dục trên địa bàn. 1.1.2.4. Đổi mới các loại hình đào tạo Trong qu trình thực hiện chủ trương x hội hố gio dục, cc loại hình trường lớp cũng được đa dạng hóa, các trường ngoài công lập phát triển qui mô giáo dục một cách hợp lý, giảm bớt sức ép đối với các trường công lập, góp phần quan trọng để điều chỉnh mối quan hệ giữa qui mô và các điều kiện bảo đảm chất lượng, tạo thêm cơ hội học tập cho thế hệ trẻ. Đến nay, số trường mầm non, mẫu giáo ngoài công lập là 6.049 (chiếm 52.55%), số trường tiểu học ngoài công lập là 90 (chiếm 0,6 %), số trường Trung học cơ sở là 49 (chiếm 0,47%) Trung học phổ thông ngoài công lập là 617 (chiếm 26,19%). Trong năm học 2006-2007 tỷ lệ trẻ ở các nhà trẻ ngoài công lập chiếm 76%, số cháu đi học ngoài các lớp mẫu giáo ngoài công lập chiếm 75%. Số học sinh trung học phổ thông ngoài công lập hiện nay khoảng 941.158 (tăng gần 3,71% so với 5 năm trước). Số trường Trung học chuyên nghiệp ngoài công lập là 64 (chiếm 23,79%). Cả nước có 47 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập với gần 193.471 sinh viên chiếm khoảng 12,56% tổng số sinh viên cả nước. Một số trường ngoài công lập (có cả dân lập, tư thục và bán công) hoạt động có nề nếp, đào tạo có chất lượng, được x hội đánh gía cao. Về qui mô, tỷ lệ học sinh ngoài công lập so với tổng số học sinh tăng lên đáng kể. Đến nay có hơn 3.200.000 học sinh, sinh viên ở tất cả các cấp học, bậc học chiếm gần 14% trong tổng số học sinh, sinh viên cả nước. Ở mẫu giáo: năm học 2006-2007 là 57,27%; ở trung học phổ thông là 3,71%; trung học chuyên nghiệp có trên 18,22%; ở đại học và cao đẳng tăng lên 12,56%. Trong qu trình đa dạng hóa các loại hình gio dục, cc địa phương đ quan tâm củng cố, tăng cường hệ thống trường công lập; sắp xếp lại các trường bán công, chuyển trường bán công sang công lập; đồng thời xây dựng thêm các trường công lập nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Nhìn chung, cc trường Công lập tiếp tục phát huy vai trị chỉ đạo, thể hiện sự mẫu mực về thực hiện cc qui trình, qui phạm gio dục-đào tạo, các qui trình v chính sch của Đảng và Nhà nước; bảo đảm các yêu cầu về chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, trong qu trình thực hiện chủ trương x hội hĩa, ở một số địa phương có xu hướng huy động và để dân lo là chính, ít đầu tư, chưa thấy được vai trị v trch nhiệm của Nh nước trong việc phát triển giáo dục-đào tạo, nhất là ở vùng địa bàn kinh tế-x hội đặc biệt khó khăn. Mặt khc, do buơng lỏng quản lý nhà nước về giáo dục, một số hiện tượng tiêu cực “thương mại hóa”, chạy theo mục đích vụ lợi đ xuất hiện ở một số trường dân lập. - Cơng bằng x hội trong gio dục cơ sở về cơ bản được quan tâm, đảm bảo thực hiện, các trường đại học, cao đẳng đ cĩ nhiều biện php trợ gip, tạo điều kiện học tập cho con em gia đình thuộc diện chính sch con em đồng bào dân tộc và học sinh nghèo vượt khó. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, các nhà trường đ nghim chỉnh chấp hnh cc qui định về miễn, giảm học phí, cấp học bổng, UBND các cấp đ quan tâm vận động các tổ chức chính trị-x hội, cc tổ chức x hội nghề nghiệp, một số doanh nghiệp v nh hảo tm cả cc nh doanh nghiệp tm quyết, thn nhn ở nước ngoài phối hợp xây dựng các quỹ khuyến học nhằm trợ giúp học sinh nghèo tiếp tục học tập. Đối với vùng dân tộc, các địa phương đ tích cực xy dựng hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú. Năm học 2004-2005, đ cĩ 234 trường dân tộc nội trú trong đó Trung học cơ sở 151 trường; phổ thông cơ sở là 24 trường; Phổ thông trung học là 24 trường và 35 trường trung học phổ thông. Bên cạnh đó, các địa phương đ quan tm bố trí, sắp xếp hệ thống trường lớp tiểu học và trung học cơ sở vùng dân tộc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em đến trường. Cả nước vẫn cịn 1.640 x vùng dân tộc thiểu số miền núi, biên giới, đặc biệt khó khăn chưa có trường mầm non. Các địa phương cũng đ thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với cán bộ giáo viên, học sinh người dân tộc. Một số địa phương Lâm Đồng, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bi, Hịa Bình, An Giang, Cà Mau… đ quan tm chỉ đạo, thực hiện đề án xây dựng nhà công vụ, chăm lo giải quyết nhà ở cho giáo viên các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tuy nhiên, nhà ở công vụ cho giáo viên ở các vùng khó khăn cịn thiếu 65.000 căn, trị giá 3.370 tỉ đồng. Trong thư gửỉ các thầy giáo, cô giáo nhân ngày 20/11/2007 của Bộ trưởng Giáo dục và đào tạo Nguyễn Thiện Nhân có đoạn viết: Bộ Giáo dục và đào tạo có lỗi với các thầy giáo, cô giáo đ cơng tc ở miền ni, ở vng khĩ khăn vốn không phải là quê nhà mà không được trở về vùng thuận lợi hơn sau khi đ hồn thnh trch nhiệm của mình, thầy gio phục vụ 5 năm, cô giáo phục vụ 3 năm. Năm học này Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ làm việc với Bộ Nội vụ, với các tỉnh, thành phố để thiết kế cơ chế, chính sách đảm bảo cho mỗi giáo viên phải lm trịn bổn phận nghề nghiệp của mình, nhưng cũng được hưởng quyền lợi chính đáng. Mặc dù đ được quan tâm nhiều hơn trước nhưng ở những vùng kinh tế-x hội đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc, chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp học, bậc học cịn yếu và không đồng đều. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tại những vùng này cịn thấp, nhất l ở gio dục mầm non v tiểu học. Vấn đề cần tập trung giải quyết hiện nay là xây dựng và thực hiện đồng bộ một hệ thống các giải pháp gồm chính sách ưu tiên về đầu tư, xây dựng đội ngũ giáo viên tại chỗ và đi ngộ thỏa đáng, áp dụng phương án thích hợp về chương trình sch gio khoa v kế hoạch dạy học. 1.1.2.6. Đổi mới nhận thức và thực hiện mở rộng hợp tác quốc tế trong giáo và dục đào tạo - Đổi mới thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa, quan hệ quốc tế, kết hợp với chính sách x hội hĩa gio dục, trong những năm qua ngành Giáo dục-đào tạo đ chủ động mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ được sự hỗ trợ của nhiều cơ sở giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Hiện nay, ngành giáo dục nước ta đ cĩ quan hệ v hợp tc chính thức với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ. Quan hệ quốc tế được mở rộng đ gĩp phần tăng cường cơ sở vật chất cho nhà trường, hiện đại hóa nội dung chương trình v phương pháp đào tạo, góp phần đào tạo cán bộ và nâng cao năng lực quản lý; ngnh gio dục đ tranh thủ được tối đa các nguồn viện trợ quốc tế; vốn viện trợ chính thức (ODA), vốn vay ngân hàng thế giới (WB) và ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) để xây dựng các trường tiểu học ở vng bo, vng ni v một số cơ sở đào tạo trọng điểm ở các bậc học và triển khai các dự án lớn của ngành như: dự án giáo dục tiểu học, dự án đào tạo giáo viên tiểu học, dự án phổ thông cơ sở, dự án đào tạo giáo viên trung học cơ sở, dự án nâng cao năng lực đào tạo của các trường đại học; đồng thời triển khai mạnh mẽ các đề án đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài, để đáp ứng đào tạo theo một cái nền cơ bản là nhà trường phải xác định đúng và đào tạo theo nhu cầu của x hội cĩ tính linh hoạt cao. So với những năm trước đây, năm học 2007-2008, cán bộ quản lý trong ngnh, cc hiệu trưởng có nhiều cơ hội đi học tập kinh nghiệm phát triển giáo dục ở nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. - Cơng tc quản lý ngnh cũng đ đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Cơ quan Bộ đ tích cực nng cao chất lượng và hiệu quả chỉ đạo, điều hành, từng bước khắc phục tình trạng sa đà vào các hoạt động tác nghiệp cố gắng bám sát chức năng quản lý Nh nước, xây dựng môi trường hợp lý, cơ chế, chính sách; trình Chính phủ ph duyệt Chương trình kin cố hố trường lớp giai đoạn 2, đề án học phí mới; trình dự thảo Nghị định về quản lý đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục; đẩy mạnh phân cấp quản lý gio dục cho địa phương và phân cấp cho các cơ sở giáo dục và đào tạo; đề án cho sinh viên nghèo vay vốn học tập (2.500 tỷ đồng, trong đó 500 tỷ đ được ngân sách cấp và 2.000 tỷ huy động từ trái phiếu chính phủ), qui hoạch, kế hoạch phát triển; kiện toàn bộ máy quản lý; tăng cường chỉ đạo thanh tra, kiểm tra. Bộ Giáo dục-đào tạo đ phn bổ cng cc địa phương, các Bộ ngành, tham mưu để Quốc Hội ban hành 2 nghị quyết số 40/2000/NQ-QH và 41/2000/NQ-QH (khoá X); Chính phủ đ ban hnh 8 Nghị định và nhiều văn bản của các cơ quan quản lý của các địa phương; đồng thời các nhà trường đ năng động, sáng tạo và đ tổ chức thực hiện cc chủ trương của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của ngành, tham mưu cho cấp ủy Đảng và Chính quyền xây dựng các chính sách cho cán bộ, giáo viên và học sinh phù hợp với điều kiện kinh tế- x hội của cc địa phương. Nhiều chính sách, chủ trương mới của ngành có hiệu lực áp dụng như: Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học mới ban hành theo Quyết định số 14/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 4/5/2007, Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm ngoại ngữ, tin học được ban hành kèm theo Quyết định 31/2007/QĐBGD&ĐT ngày 4/6/2007 sẽ đi vào triển khai thực hiện. Những khởi động căn bản và bài bản về mặt chính sách sẽ góp phần giúp GD&ĐT cả nước vững tiến trên đường về đích sớm trong lộ trình pht triển 2006-2010. Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế cải thiện đời sống nhân dân của thời kỳ đổi mới đ tạo thm điều kiện cũng như môi trường thuận lợi cho giáo dục phát triển. 1.1.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay Một là, chạy theo thành tích và chủ nghĩa hình thức ảnh hưởng xấu đến chất lượng và hiệu quả giáo dục. Điều đó thể hiện ở chỗ:. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường cịn hạn chế về năng lực tư duy sáng tạo, về kỹ năng thực hành, về khả năng thích ứng nghề nghiệp. Nội dung, chương trình gio dục cịn thin về lý thuyết, ít gắn với thực tế cuộc sống, thiếu tính lin thơng giữa cc cấp học, bậc học, cc loại hình đào tạo. Phương pháp dạy và học cịn lạc hậu, nặng về truyền thụ một chiều, ít phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên. Giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ cịn nặng về hình thức, thiếu điều kiện thực hiện đ ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Việc giảng dạy cc mơn khoa học x hội nhn văn ở trường trung học phổ thông thiếu chủ động, ít sáng tạo; các môn khoa học Mác-Lênin cũng như công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức và nhân cách cho học sinh vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Tình trạng chạy theo điểm số, chỉ chú tâm vào nhũng môn thi đ v đang trở nên phổ biến trong phương pháp học tập của nhiều học sinh. Một số yêu cầu chưa đúng của cha mẹ học sinh đôi khi tạo ra áp lực rất lớn cho giáo viên đứng lớp. Lấy tỉ lệ lên lớp, tỉ lệ thi tốt nghiệp, tỉ lệ duy trì sỉ số học sinh làm tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của giáo viên, của nhà trường vẫn đến tình trạng gio vin chỉ ch trọng cc đơn vị kiến thức, kỷ năng phục vụ cho thi cử. Tâm lý khoa cử cịn nặng nề. Cc kỳ thi, nhất l thi tuyển sinh vẫn cịn căng thẳng, tốn kém, dễ làm phát sinh tiêu cực. Hai là, cơ cấu giữa các cấp học, bậc học, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu vùng miền trong hệ thống giáo dục cịn chưa hợp lý. Công tác chỉ đạo cũng như tâm lý x hội cịn nặng về đào tạo về đại học và chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nghề, đặc biệt là chất lượng nghề trình độ cao và phát triển trung học chuyên nghiệp. Công tác dự báo quy hoạch định hướng ngành nghề đào tạo chưa tốt. Nhiều cán bộ quản lý chuyn mơn chưa nắm vững những thay đổi của chương trình v sch gio khoa, chưa chú ý đến những thay đổi về mục tiêu, về nội dung và phương pháp dạy học để có những điều chỉnh phù hợp, vì vậy tính định hướng hoạt động chuyên môn rất thấp. Việc phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông chậm triển khai, chưa có giải pháp đủ mạnh và đồng bộ để thu hút thế hệ trẻ theo học các trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Ba là, đội ngũ gio vin cịn nhiều bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Tỉ lệ giáo viên trên lớp tính chung cả nước đ tăng lên nhưng cịn thấp so với qui định. Ở bậc đại học phần đông giảng viên đ cao tuổi (tại những trường đại học có uy tín 70-80% giảng viên tuổi cao), nguy cơ hẩng hụt đội ngũ đ được cảnh báo từ lâu nhưng chưa có giải pháp khắc phục. Vấn đề cần giải quyết là nguồn tuyển giáo viên không thiếu nhưng định biên chưa hợp lý. Đội ngũ giáo viên không đồng bộ về cơ cấu, nhất là giáo viên trung học cơ sở và trung học phổ thông (cịn thiếu gio vin cc mơn Sinh vật, Kỹ thuật, Gio dục cơng dn, Gio dục quốc phịng-an ninh, Nhạc, Họa, Thể dục). Tuy số gio vin đạt chuẩn đào tạo tăng lên, nhưng trình độ Tin học và Ngoại ngữ của phần đông giáo viên cịn yếu, phương pháp giảng dạy cịn cũ kỹ, tình trạng p đặt trong việc tiếp thu kiến thức vẫn chưa chấm dứt. Có trường hợp gíáo viên chỉ chú ý đến việc hoàn thành nội dung dạy học, bất chấp hiệu quả tiếp thu của học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học mang tính hình thức hoặc soạn bi, giải bi theo khuơn mẫu. Tình trạng dạy cho xong đ v đang trở thành một căn bệnh nan y trong đội ngũ giáo viên. Vấn đề tự học, tự rèn để nâng cao năng lực dạy học chỉ mang tính hình thức. Nhiều gio vin do khơng nắm vững mối quan hệ hữu cơ giữa hoạt động dạy học và giáo dục nhân cách học sinh nên chỉ chú trọng vào việc “dạy chữ” mà xem nhẹ việc “dạy người”, do vậy, mọi đổi mới về phương pháp dạy học đ trở nn vơ nghĩa khi không ít học sinh động cơ học tập không đúng. Một bộ phận giáo viên chưa toàn tâm toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục-đào tạo. Chất lượng đội ngũ gio vin cc cấp, bậc học ở vng dn tộc cịn yếu. Một số trường đại học đ mở rộng qui mơ qu khả năng đào tạo, khiến các giáo viên phải dạy nhiều giờ, không cịn thời gian tự học, tự bồi dưỡng, tham gia nghiên cứu và kiến thức khoa học công nghệ. Số giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư chỉ chiếm trên 5,8% với tuổi bình qun kh cao (trn 56). Bốn là, cơng tc quản lý gio dục về mặt cơ chế chậm đổi mới, bộ my quản lý gio dục cịn nặng nề, km hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Đội ngũ cán bộ quản lý cịn nhiều bất cập về năng lực điều hành và tổ chức hoạt động, quản lý hoạt động chuyn mơn bằng mệnh lệnh hnh chính. Cn bộ qun lý cĩ khi chỉ nhận thức cảm tính về năng lực dạy của giáo viên và của học sinh, thiếu những số liệu thống k v những kết luận chính xc, việc phn cơng dạy học cịn chưa thích hợp, chưa chú trọng đến sự chấp nhận của tập thể học sinh đối với hoạt động dạy học của giáo viên. Nhiều cán bộ quản lý chuyn mơn chưa nắm vững những thay đổi của chương trình và sách giáo khoa, về nội dung và phương pháp dạy học, để có những điều chỉnh phù hợp, tính định hướng trong kế hoạch hoạt động chuyên môn rất thấp. Tình trạng vi phạm kỷ cương, nề nếp giáo dục chưa được ngăn chặn có hiệu quả và kịp thời. Việc ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về giáo dục cịn chậm v chưa đồng bộ, dẫn đến tình trạng nhiều chủ trương đ được đưa ra nhưng thiếu chính sách và cơ sở pháp lý gây khó khăn khi tổ chức thực hiện. Công tác thanh tra giáo dục cịn yếu v chưa được quan tâm đúng mức.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan