Lêi cam ®oan
T«i cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu
cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, kÕt qu¶ nªu trong luËn
¸n lµ trung thùc, cã nguån gèc xuÊt xø râ rµng.
T¸c gi¶ luËn ¸n
TrÇn Huúnh Hoµng Vò
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 9
TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỒC
1.1. Nhân tố con người và thực chất phát huy nhân tố con người
lực lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc
1.2. Một số vấn đề có tính quy luật phát huy nhân tố con người
lực lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc
1
2
3
4
5
9
24
24
42
Chương 2 PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
QUÂN KHU 9 TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ BẢO VỆ
TỔ QUỐC HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU
2.1. Thực trạng phát huy nhân tố con người lực lượng vũ trang Quân
khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay
2.2. Yêu cầu phát huy nhân tố con người lực lượng vũ trang Quân
khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay
63
63
99
Chương 3 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 9 TRONG THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
3.1. Đổi mới công tác đào tạo, giáo dục chính trị và huấn luyện
đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 9
3.2. Kết hợp chặt chẽ dân chủ với kỷ luật ở các cơ quan, đơn vị
Quân khu 9 tạo điều kiện phát huy tính tích cực, sáng tạo của
cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
3.3. Kết hợp sự lãnh đạo của các tổ chức đảng với thực hiện các
chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang
Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
114
114
130
139
158
160
161
177
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
Bảo vệ Tổ quốc
BVTQ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH, HĐH
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
Dân quân tự vệ
DQTV
Dự bị động viên
DBĐV
Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSCL
Lực lượng vũ trang
LLVT
Nhân tố con người
NTCN
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Luận án là một công trình nghiên cứu triết học ứng dụng đối với LLVT
Quân khu 9. Quá trình tiếp cận, nghiên cứu và triển khai luận án, tác giả đã
tham khảo kết quả nghiên cứu thành công của các công trình khoa học trong
và ngoài quân đội. Đặc biệt, do tình hình thực tiễn của các cơ quan, đơn vị,
xuất phát từ tính chất địa bàn, yêu cầu và nhiệm vụ, đòi hỏi luận án phải được
nghiên cứu mang tính hệ thống đối với việc phát huy NTCN LLVT Quân khu 9
trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
Kết cấu của luận án gồm: phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3
chương (7 tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên
quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Đây là công trình khoa
học độc lập, mang tính đặc thù đối với LLVT Quân khu 9, không trùng lặp với
bất kỳ công trình khoa học nào đã công bố từ trước đến nay.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới và khu vực diễn biến nhanh
chóng, tiềm ẩn nhiều nhân tố phức tạp, khó lường, để “ bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên
giới, vùng trời” [35, tr.233], đòi hỏi khách quan là toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân phải thực sự quan tâm tới xây dựng và phát huy NTCN trong thực hiện
nhiệm vụ BVTQ Việt Nam XHCN hiện nay.
Con người là chủ thể xã hội. NTCN là nhân tố quyết định nhất của các
quá trình kinh tế - xã hội. Ph. Ăngghen cho rằng, con người và vũ khí là hai chất
liệu nền tảng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Theo đó, để tăng cường
sức mạnh BVTQ trong giai đoạn hiện nay, cần đặc biệt coi trọng xây dựng và
phát huy NTCN; đặc biệt là, phát huy NTCN LLVT Quân khu 9.
Quân khu 9 là địa bàn chiến lược phía Tây Nam của Tổ quốc, trong tiến
hành chiến tranh giải phóng, quân và dân các tỉnh, thành phố thuộc Quân khu 9
6
đã phát huy cao độ tinh thần cách mạng, ý chí tiến công, tự lực tự cường, dũng
cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và đã lập được nhiều thành tích to lớn,
góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Là một địa bàn chiến lược,
giàu tiềm năng về phát triển kinh tế - xã hội và là khu vực trọng điểm hiện nay
mà các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá bằng nhiều thủ
đoạn khác nhau. Chúng dùng chiêu bài thực hiện dân chủ, nhân quyền, dân
tộc, tôn giáo để kích động quần chúng khiếu kiện, đình công, biểu tình
chống phá, gây mất ổn định chính trị, tiến tới bạo loạn lật đổ. Khi chiến
tranh xảy ra, chiến tranh BVTQ hiện nay là chiến tranh hiện đại, “chắc
chắn chúng ta phải đối mặt với cuộc chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao
của địch” [7, tr.598], mang tính tổng hợp cao, không gian tác chiến trên
một diện rộng, thời gian tác chiến ngắn, tình huống tác chiến hết sức khẩn
trương, chớp nhoáng, tính chất của chiến tranh rất ác liệt… Để đánh trả
thắng lợi chiến tranh xảy ra, cần phải đầu tư vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện
đại, nhưng con người phải biết sử dụng vũ khí, trang bị thật hiệu quả. Và
trong mối quan hệ với vũ khí trang bị, con người đóng vai trò quyết định.
Suy cho cùng, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao, nhiều
vấn đề đặt ra đối với LLVT Quân khu 9, nhưng trong đó nhân tố quyết định
là con người, NTCN. Do vậy, phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong
thực hiện nhiệm vụ BVTQ không những có ý nghĩa quyết định đối với
nhiệm vụ trước mắt, mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với nhiệm vụ
BVTQ Việt Nam XHCN.
Từ đó, việc phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong thực hiện
nhiệm vụ BVTQ đang đặt ra một cách cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn,
đòi hỏi phải được nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống; đồng thời, đề xuất
những giải pháp cơ bản, đồng bộ, phù hợp và có tính khả thi để LLVT
Quân khu 9 không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh
chiến đấu, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình
hình mới. Cho nên, tác giả chọn đề tài “Phát huy nhân tố con người lực
7
lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện
nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 nhằm góp phần
nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ
LLVT Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng: Nghiên cứu phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong thực
hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
- Phạm vi: Nghiên cứu những chủ thể cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng
thường trực ở các cơ quan, đơn vị của LLVT Quân khu 9, bao gồm: bộ đội chủ
lực và bộ đội địa phương đang thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và
BVTQ trên địa bàn Quân khu 9. Các tư liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu luận án
chủ yếu từ năm 2005 đến nay. Phạm vi điều tra, khảo sát, nắm tình hình thực tế ở
một số cơ quan, đơn vị và địa phương trong LLVT Quân khu 9.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Đóng góp mới của đề tài:
- Khái quát phạm trù trung tâm phát huy NTCN LLVT Quân khu 9
trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ; đồng thời, chỉ rõ những đặc trưng bản chất
NTCN LLVT Quân khu 9 và thực chất của việc phát huy NTCN LLVT Quân
khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
- Đánh giá một cách khách quan, khoa học và nhận định chính xác về
thực trạng phát huy NTCN LLVT Quân khu 9. Từ đó, khái quát những vấn đề
đặt ra cần giải quyết đối với phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong thực
hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản một cách có hệ thống, đồng bộ, phù hợp
và mang tính khả thi, nhằm hiện thực hóa tính tích cực, chủ động, sáng tạo
8
của cán bộ, chiến sĩ để phát huy tối đa NTCN LLVT Quân khu 9 trong thực
hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần phân tích, làm rõ đường
lối quân sự, quốc phòng của Đảng; đồng thời, khẳng định tính đúng đắn,
khoa học các quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người,
NTCN, phát huy NTCN nói chung, NTCN và phát huy NTCN LLVT
Quân khu 9 nói riêng, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động và tổ chức thực tiễn quân sự, quốc phòng của NTCN LLVT Quân
khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy ở Trường Quân sự các tỉnh,
thành phố và Trường Quân sự Quân khu 9. Mặt khác, luận án sẽ góp phần
quan trọng để lãnh đạo, chỉ huy các cấp tích cực xây dựng nguồn nhân lực,
nâng cao chất lượng và phát huy tối đa NTCN LLVT Quân khu 9 trong
thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
9
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề con người, NTCN, phát huy NTCN nói chung và trong lĩnh vực
quân sự nói riêng đã và đang có sự quan tâm, thu hút nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước. Là người trực tiếp tham gia nghiên cứu vấn đề
này, tác giả tiếp cận vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài với những khía
cạnh sau đây:
1.1. Những công trình tiêu biểu nghiên cứu về con người, về nhân tố
con người
Đây là hướng tiếp cận nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và đạt nhiều
thành công nhất. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu con người, NTCN của
các tác giả: T.I. Daslápxkaija, N.M. Berezhnoj, V.P. Zinchenko, E.F. Xulimov,
O.N. Krutova, L.V. Nicolaeva, N.E. Zelinskij... nhấn mạnh vào mặt hoạt động
của NTCN, ở những phẩm chất, nội dung và đặc trưng bản chất của con người
[148, tr.320], được thể hiện trong hoạt động định hướng và cải tạo, biến đổi các
quá trình xã hội, cụ thể được hiểu theo những khía cạnh như sau:
- Với tính cách là hoạt động của những con người riêng biệt, đặc trưng
của NTCN bao gồm những năng lực, khả năng của con người do các nhu cầu
và lợi ích, tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết định hoạt động
định hướng và cải tạo của họ.
- Với tính cách là một cơ cấu hoạt động nhất định, NTCN như là đặc
trưng liên kết của mối liên hệ giữa con người và máy móc (hệ thống Người Máy), bảo đảm cho sự vận hành có hiệu quả của hệ thống cấu trúc nói chung
[144, tr.53-54].
- Với tính cách là chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, NTCN là sự thống nhất hoàn chỉnh, liên kết và không
ngừng phát triển giữa hoạt động sản xuất của con người và đặc trưng cá
10
nhân của nó. Sự thống nhất đó là động lực phát triển của các lĩnh vực khác
nhau trong đời sống xã hội [145, tr.23-27].
Các tác giả trên nhấn mạnh đến mặt hoạt động NTCN, coi hoạt động như
là một phương thức quan hệ đặc thù của con người với thế giới. Bằng hoạt
động vật chất, con người mới tạo ra của cải vật chất và tinh thần, là cơ sở
thiết yếu nhất của quá trình xã hội; cũng chính từ hoạt động đó, những đặc
trưng cá nhân, bản chất, nhân cách của NTCN được biểu hiện và hình thành.
Tuy nhiên, có một số quan điểm chưa thống nhất và cho rằng, NTCN như
quan điểm trên có nhấn mạnh đến mặt hoạt động của con người, nhưng chỉ
nói rõ con người thực hiện chức năng nhất định trong một thời điểm nhất
định (nổi lên). Từ đó, dễ nhìn nhận phiến diện coi con người như một chủ
thể của hoạt động, mà không thấy được tiềm năng tích cực, chủ động, sáng
tạo của con người. Cho nên, hướng tiếp cận về mặt hoạt động đối với NTCN
của các tác giả trên, cần phải xem xét hoạt động của con người trong mối
quan hệ với phẩm chất tinh thần của nó (bao gồm: nhu cầu, lợi ích, trí tuệ,
niềm tin, động cơ, mục đích hoạt động...), nhất là cần phải bổ sung tính chủ
thể tích cực, chủ động, sáng tạo về hoạt động của NTCN.
Các công trình nghiên cứu về NTCN của các tác giả: A.K. Uledov, R.G.
Janovskij, N. Mberezhnoj, Iu.Đ. Gradin... nhìn nhận theo những khía cạnh sau:
- Nhân tố con người là những phẩm chất đa dạng biểu hiện trong
những hoạt động khác nhau của con người, trong quan hệ của nó với người
khác, với thế giới chung quanh đều bao hàm trong khái niệm “nhân tố con
người“, khái niệm đó thể hiện tính tích cực xã hội của cá nhân.
- Nhân tố con người là tổng hòa những khả năng, thuộc tính, tri thức,
thói quen, kinh nghiệm đang phát triển của con người và qua đó ảnh hưởng
đến các quá trình xã hội.
11
- Nhân tố con người là tiềm năng xã hội, tự nhiên, thể lực và trí tuệ
của mọi người đang tham gia vào quá trình cải tạo các mối quan hệ xã hội,
trong quá trình xây dựng những giá trị tinh thần và vật chất” [142, tr.47-55].
- Nhân tố con người là hạt nhân cơ bản của tính tích cực hóa được
biểu hiện “ở đặc trưng các cấp độ thể lực, tâm lý, xã hội trong con người, ở
mức độ hiện thực hóa tác động của con người đến tất cả các mặt hoạt động
của đời sống xã hội” [143, tr.145-148].
Các tác giả trên cho rằng, NTCN là tổng hòa các phẩm chất, thuộc
tính, đặc trưng cho đến năng lực đa dạng và tiềm năng của con người mà
chúng thường được biểu hiện dưới các dạng thức hoạt động khác nhau. Các
tác giả đề cập đến vị trí, vai trò của con người với tư cách là chủ thể có ý
thức, có mục đích đối với sự phát triển của xã hội; nhấn mạnh đến các phẩm
chất, năng lực, đặc trưng nhân cách con người được thực hiện trong quá
trình đối tượng hóa các lực lượng bản chất của con người (quá trình xuất
tâm) và đồng thời thực hiện quá trình nhân cách hóa các thuộc tính của đối
tượng (quá trình nhập tâm). Từ cấu trúc của hoạt động chuyển vào đầu thành
cấu trúc tâm lý của hoạt động có chủ thể, có công cụ tâm lý (sức mạnh (động
cơ) tâm lý, sức mạnh (động cơ) tinh thần), dưới các dạng hoạt động có tính
định hướng tích cực và nhân đạo. Theo cách tiếp cận trên một số nhà nhiên
cứu cho rằng, sẽ không làm nổi bật cơ sở quyết định sự hình thành, phát
triển và sự biểu hiện các phẩm chất, thuộc tính đặc trưng và năng lực của
con người là hoạt động; dễ lầm tưởng NTCN là một khái niệm chỉ giới hạn
thuần túy trong lĩnh vực tinh thần.
Một số nhà nghiên cứu còn theo hướng tiếp cận phức hợp - hệ thống
về vấn đề bản chất của NTCN. Họ cho rằng, con người là yếu tố cơ bản và
chủ yếu hợp thành của hệ thống xã hội. Con người hình thành nên bản chất
xã hội là chính do thông qua hệ thống xã hội, và qua đó mới tự biểu hiện
12
được mình, mới khẳng định được bản chất của mình. Điều này, khi xem xét
sức mạnh bản chất của con người, C. Mác không phải căn cứ vào sức mạnh
của từng cá nhân, mà căn cứ vào sức mạnh của toàn xã hội. Bản chất con người
theo tư tưởng của C. Mác trong “Luận cương về L. Phoiơbắc”: “Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [96,
tr.11]. Xét cho cùng, “Trên thực tế, con người có hai mặt đan xen phức tạp và
thống nhất với nhau: mặt sinh học và mặt xã hội. Trong từng mô của tế bào cấu
thành con người, trong từng hành vi cụ thể của con người hình như cũng đã có
hai mặt như thế” [115, tr.33]. Do đó, khi nghiên cứu theo hướng phức hợp - hệ
thống, trước hết phải xem xét NTCN trong cấu trúc của hệ thống xã hội.
Nhà nghiên cứu của Liên Xô (cũ), A.N. Leontiev đã phát triển và xây
dựng nên lý thuyết hoạt động của con người trong tâm lý học. Theo ông, hoạt
động của con người, nhất là hoạt động lao động mang tính định hướng, có mục
đích, có đối tượng; là quá trình quan hệ tác động qua lại biện chứng lẫn nhau
giữa chủ thể và khách thể. Hoạt động của con người tồn tại khi và chỉ khi được
thiết lập trong các mối quan hệ giữa con người với con người và con người với
xã hội. Theo A.N. Leontiev, cấu trúc của hoạt động con người cơ bản có sáu
thành tố cấu thành, bao gồm: Hoạt động - Động cơ - Hành động - Mục đích Thao tác - Điều kiện, phương tiện. Nghĩa là, hoạt động nào cũng được con người
định hướng và thúc đẩy vì một động cơ nhất định (cái ham muốn cần đạt tới).
Song, mỗi hoạt động của con người được thể hiện bằng nhiều hành động để nhằm
vào một mục đích nhất định (mục đích chính là động cơ gần, là cái biểu hiện ra
bên ngoài của động cơ). Trong mỗi hành động là những chuỗi thao tác do phẩm
chất, năng lực sẵn có và cùng với những điều kiện, phương tiện làm động cơ thúc
đẩy, để con người vươn tới đạt được mục đích phía trước. Xét đến cùng, “Các
thành tố hoạt động, hành động, thao tác tạo thành mặt đơn vị cơ bản của hoạt
động; còn các thành tố động cơ, mục đích, điều kiện, phương tiện tạo thành mặt
nội dung bên trong của hoạt động” [95, tr.189].
13
Động cơ là động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Động
cơ chỉ xuất hiện khi nhu cầu của con người bắt gặp khách thể và có khả năng
thỏa mãn các nhu cầu đó. Động cơ là cơ sở, nguồn gốc, là “lực hấp dẫn” có tính
định hướng rõ ràng để con người tự điều chỉnh khả năng và hành vi hoạt động
của mình. Song, nhu cầu chịu sự chi phối và quy định trực tiếp của môi trường
xã hội, là điều kiện khách quan cho hoạt động của con người. Chính trong nhu
cầu, khách thể (vật thể vật chất và cái vật chất đã được “nhân tính hóa”) sẽ trực
tiếp xuất hiện và thông qua hoạt động của chủ thể là để thỏa mãn nhu cầu.
“Thuộc về khách thể còn có cả những sản phẩm vốn có của tự nhiên nhưng đã
chịu sự tác động của con người, đã được con người cải tạo, là những lượng vật
chất do hoạt động của con người sáng tạo ra, chúng là cái vật chất đã được “nhân
tính hóa” cho phù hợp với lợi ích, nhu cầu của chủ thể” [108, tr.9]. Như vậy, sự
thỏa mãn nhu cầu thực chất là mối quan hệ giữa con người - chủ thể hoạt động
với đối tượng - khách thể bị tác động.
Nghiên cứu NTCN ở góc độ hoạt động trong tâm lý, sẽ thấy rõ nguồn gốc
tích cực hoạt động của con người. Trong môi trường xã hội, hoạt động của con
người không ngừng bị thôi thúc bởi động cơ, mà động cơ được xác định khi nhu
cầu của con người bắt gặp đối tượng. NTCN và tính tích cực của con người là
biểu hiện của mối quan hệ thực thể - thuộc tính. Nghiên cứu NTCN ở góc
độ trên cho thấy rõ vai trò và chức năng của NTCN đối với sự phát triển
xã hội, của đời sống tinh thần, tâm lý của chính con người. Nói cách khác,
“nhân tố con người khi xem xét nó như là một trong những hệ thống động
lực làm gia tăng sự phát triển kinh tế - xã hội, thì đó chính là con người
với tất cả những đặc tính có tính bản chất của nó” [147, tr.3-9]. Tuy còn
bộc lộ những chỉ số về mặt số lượng, nhưng cho thấy có những chỉ số
phản ánh về mặt chất lượng thể hiện qua trình độ nhận thức, ý chí, năng
lực, kỹ năng, kỹ xảo... của con người.
14
Nghiên cứu con người ở góc độ nhân cách - xã hội, cho thấy khi nhân cách
con người được hình thành, phát triển (hoạt động và thông qua hệ thống giá trị, thang
giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị), thì NTCN sẽ thể hiện qua các chức năng
và giá trị xã hội, qua mức độ hiện thực hóa phẩm chất và năng lực sáng tạo của nhân
cách trong chuỗi hệ thống các mối quan hệ xã hội. Cho nên, để hiểu được bản chất
NTCN phải áp dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, nghiên cứu từ nhiều khoa
học khác nhau. Còn việc phân chia các cấp độ nghiên cứu chỉ mang tính tương đối
khi nghiên cứu về con người, NTCN. Vì trong thực tiễn đời sống xã hội, con người
chịu sự chi phối bởi các quan hệ xã hội, nên các cấp độ trên đan xen, tác động qua lại
lẫn nhau và rất phức tạp. Việc sử dụng hướng nghiên cứu phức hợp - hệ thống, không
những giúp nhận thức đầy đủ, đúng đắn về NTCN, mà còn có ý nghĩa quan trọng
giúp những chủ thể tham gia vào các lĩnh vực hoạt động đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Nhìn chung, các tác giả trên đã tập trung làm sáng rõ bản chất xã hội, vai trò
NTCN của xã hội và khẳng định ý nghĩa trực tiếp, quyết định của con người
trong mọi tiến trình lịch sử, cũng như trong hoạt động, giao lưu, quan hệ của con
người và nhiều vấn đề khác.
Trong cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa “Lý luận không có con
người” của Giáo sư Trần Đức Thảo, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh,
2000. Tác giả nhấn mạnh đến con người, về phương pháp luận nghiên cứu con
người, mục đích để chứng minh con người có nhân tính là cái cơ bản chung
của loài người. Từ đó, tác giả trình bày nguồn gốc ra đời “cái cơ bản chung”
đó, đồng thời khẳng định đó là cơ sở của con người xã hội, con người giai cấp.
Tác giả chỉ rõ con người có nhân tính và sau mới đúc kết thành nhân cách bằng
con đường thông qua các mối quan hệ xã hội, bắt đầu từ mối quan hệ nguyên
thủy ở thời kỳ cộng sản nguyên thủy, đến mối quan hệ gia đình đối với đứa trẻ
ở độ tuổi nhi đồng - mà tác giả gọi là “cộng đồng gia đình”. Về mặt phương
15
pháp luận nghiên cứu về con người, Giáo sư Trần Đức Thảo chỉ rõ, nói dân chủ
hóa trước hết phải bảo đảm đầy đủ quyền dân chủ cho người công dân. Do vậy,
“vấn đề dân chủ hóa phải gắn liền với vấn đề con người và quyền con người
nói chung, đó là “công bằng, bình đẳng giữa người với người, vào những giá trị
chân chính của con người theo nghĩa chung của loài người: chân, thiện, mỹ”
[128, tr.44]. Đặc biệt, tác giả đã nhấn mạnh đến quan hệ trong con người về ý
thức, quyền con người và nghĩa vụ con người. Như vậy, tác giả cho thấy, dân
chủ - con người - xã hội - bình đẳng - quyền con người là những vấn đề rất
quan trọng, là mục tiêu của sự tiến bộ xã hội, là động lực trực tiếp của sự phát
triển kinh tế, xã hội.
1.2. Những công trình tiêu biểu nghiên cứu nhân tố con người, phát
huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội
Từ sau đổi mới, ở Việt Nam có những công trình nghiên cứu khoa học
của các tập thể và cá nhân thu được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện trong một
số công trình tiêu biểu đã được công bố như sau:
Trong cuốn Bàn về chiến lược con người, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
1989 của Viện Thông tin Khoa học kỹ thuật Trung ương [137], các tác giả chỉ rõ
chiến lược con người bao hàm các quan điểm cơ bản về sử dụng con người và vì
con người, thể hiện thông qua các đường lối, chính sách, biện pháp thực hiện
trong các lĩnh vực: phát triển dân số, nguồn lao động và việc làm, giáo dục và
đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức và nhân tài cho đất nước, thu hút đóng góp
của kiều dân ở nước ngoài, vấn đề dân chủ hóa và tôn trọng quyền con người,
nâng cao mức sống và các phúc lợi xã hội, nhằm phát huy tối đa tính tích cực và
sáng tạo của mỗi thành viên trong xã hội. Từ đó, các tác giả đã đề xuất những
biện pháp về phát triển nông thôn, đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đổi mới
giáo dục và đào tạo, trọng dụng nhân tài, dân chủ hóa và thông tin hóa xã hội,
16
pháp luật hóa và “mở cửa” ra thế giới, cải thiện các điều kiện y tế và các phúc lợi
xã hội… Tuy nhiên, việc gắn chiến lược con người đối với tiềm năng và phát
triển con người là một quá trình lâu dài, không những được giải quyết về mặt
nhận thức phải quán triệt quan điểm, tư tưởng, mà quan trọng là về mặt thực
tiễn, phải được tổ chức thực hiện từ khâu điều khiển sự phát triển dân số, đổi
mới hệ thống giáo dục và đào tạo, xác lập tiêu chuẩn cán bộ, đến thiết kế thang
giá trị đạo đức xã hội, dân chủ hóa xã hội và tôn trọng quyền con người.
Về vấn đề NTCN, nguồn lực con người gắn với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa có các công trình tiêu biểu như: Nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa (của tác giả Phạm Minh
Hạc, Nhà xuất bản Chính trị quốc qia, Hà Nội, 2001) [67]; Về phát triển văn hóa
và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (của tác giả Phạm
Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
2003) [69]; Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt nam (của Tiến sĩ Đoàn Văn Khái, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2005)
[86]… Trong đó, tiêu biểu cuốn Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996 (của tác giả
Phạm Minh Hạc chủ biên), các tác giả chỉ rõ vấn đề phát huy và sử dụng đúng
đắn vai trò động lực của con người phải “tìm cho ra những khâu then chốt cùng
những phương hướng” để khi tác động vào đó “có thể khơi dậy, nuôi dưỡng,
phát huy được tính tích cực của con người” [65, tr.192], nhằm thúc đẩy quá trình
vận động của xã hội theo hướng tiến bộ. Từ đó, các tác giả đặt ra những vấn đề
cần quan tâm như: công bằng xã hội, dân chủ, môi trường tâm lý - xã hội, niềm
tin và điều kiện, khoa học và văn hóa là động lực chính để phát huy, sử dụng
đúng đắn NTCN. Tuy nhiên, để giải quyết nó cần phải vạch ra một hệ thống
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, chứ không phải chỉ có một động lực
nhất định nào đó. Vì hệ thống động lực bao gồm rất nhiều hiện tượng, mỗi hiện
17
tượng được coi là động lực khi nó tác dụng kích thích, thúc đẩy hoạt động của
con người trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và tùy thuộc vào đó, mà hiện
tượng này hay hiện tượng kia được coi là động lực.
Một số luận án tiến sĩ như: Nhân tố con người và những biện pháp nhằm
phát huy nhân tố con người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay của tác
giả Trần Thị Thủy, Luận án Tiến sĩ triết học, 2000 [130]; Tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người với việc phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay của tác giả Lê Quang Hoan, Luận án tiến sĩ Triết
học, 2001 [75]; Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với vấn đề đào tạo
người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay (từ thực tiễn Đồng bằng sông Cửu Long) của tác giả Trần Thanh Đức,
Luận án tiến sĩ Triết học, 2002 [41],... Trong đó, dưới góc độ triết học, tác
giả Trần Thanh Đức nghiên cứu NTCN trong lực lượng sản xuất quan niệm
rằng, NTCN là một nhân tố xã hội, nói lên sức mạnh tổng hợp của chủ thể
trong quan hệ với khách thể, mà hoạt động thực tiễn là quan trọng nhất,
đem lại sự phát triển cho xã hội và cho chính bản thân con người. Theo tác
giả, nội dung cấu thành NTCN bao gồm những tiêu chí về số lượng và chất
lượng của dân số và lao động; những tiêu chí về nhân cách, về chức năng
xã hội của con người, nói lên khả năng sáng tạo của con người trong hệ
thống các quan hệ xã hội, nói lên giá trị và trình độ phát triển của con
người bao gồm cả năng lực chuyên môn, thái độ lao động, ý thức xã hội
chính trị, những giá trị và chuẩn mực đạo đức. Ưu điểm của tác giả khi
xem xét NTCN trong lực lượng sản xuất, là đã có sự khái quát cao, đặt
nhân tố này trong các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, trong sự tác
động, kết hợp của các yếu tố đó. Tuy nhiên, tác giả chỉ đi sâu phân tích, tìm
hiểu NTCN trong lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, điều đó không có nghĩa là NTCN trong lực
lượng sản xuất có thể quyết định khi nó hoàn toàn biệt lập với nguồn lực tự
18
nhiên và với các nguồn lực khác, mà cho đến hiện nay, các nguồn lực khác
đều cần thiết và rất quan trọng, nhiều khi trong sự tương quan nó còn giữ
vai trò quyết định.
1.3. Những công trình tiêu biểu nghiên cứu nhân tố con người, phát
huy nhân tố con người trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh
Trong lĩnh vực này có rất nhiều công trình khoa học, luận án tiêu biểu đã
tiếp cận nghiên cứu thành công như: Quan hệ giữa vũ khí và con người trong
chiến tranh hiện đại của tác giả Vũ Quang Tạo, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, 2007 [124]; Mối quan hệ biện chứng giữa con người và vũ khí trong sức
mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam của tác giả Phạm Thanh Sơn,
Luận án PTS triết học, 1994 [119]; Nâng cao chất lượng của nhân tố con người
trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay của tác giả
Hoàng Quang Đạt, Luận án PTS triết học, 1995 [38]; Tích cực hóa nhân tố con
người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay của tác giả Nguyễn Văn Tài, Luận án PTS triết học, 1998 [120]; Phát huy
nhân tố con người bộ đội pháo binh Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc hiện nay của tác giả Nguyễn Đức Khang, Luận án tiến sĩ triết học,
2002 [87]; Phát huy nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự trẻ trong xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Minh Thắng,
Luận án tiến sĩ triết học, 2006 [129]; Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ
giảng viên trong các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam của tác giả
Nguyễn Văn Hòa, Luận án tiến sĩ triết học, 2007 [77];... Các tác giả đi sâu nghiên
cứu NTCN, tích cực hóa NTCN ở góc độ hoạt động - giá trị - nhân cách và đưa ra
quan niệm rằng, NTCN là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò chủ
thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt
hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong
một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định. Tiêu biểu là tác giả Nguyễn
19
Văn Tài, nhấn mạnh đến hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người, chỉ ra cấu trúc NTCN cấu thành hai mặt cơ bản: Mặt thứ nhất, chỉ khả năng
hoạt động của con người được thể hiện trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý
luận; hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Thông qua hoạt động, hoạt động
thực tiễn, con người sẽ bộc lộ ra bản chất, nhân cách, ý thức... mới đóng vai trò là
lực lượng vật chất quyết định tới sự vận động, phát triển xã hội. Mặt thứ hai, chỉ
tổng hòa những đặc trưng về phẩm chất và năng lực của con người được thể hiện
trong phẩm chất chính trị - đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn. Xét đến cùng,
hai mặt của NTCN quan hệ biện chứng với nhau, cấu thành một chỉnh thể thống
nhất, luôn luôn vận động biến đổi, phát triển. Trong đó, nhân tố hoạt động giữ vị
trí tính thứ nhất, phẩm chất và năng lực giữ vị trí tính thứ hai. Chính trong một
chỉnh thể thống nhất và quan hệ biện chứng, nên nó vừa là tiền đề, điều kiện cho
nhau, vừa là hợp lực tạo nên động lực bên trong của sự phát triển NTCN. Từ đó
bản chất, chức năng xã hội và vai trò chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo của
NTCN được biểu hiện, trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Cách phân chia cấu trúc NTCN của tác giả Nguyễn Văn Tài mang tính
khái quát cao, nêu bật được nội hàm của khái niệm NTCN. Tuy nhiên, phân chia
cấu trúc NTCN không chỉ giới hạn ở phạm vi nội hàm của khái niệm, mà còn
được phản ánh trong toàn bộ nội dung khái niệm NTCN, thể hiện ở những
quan hệ bên trong, giữa các thành phần cấu thành một chỉnh thể thống nhất,
quan hệ biện chứng của NTCN. Vì rằng, NTCN là một khái niệm “động”, có
tính nhiều mặt nên là chỗ “hội tụ” của nhiều mặt, nhiều phương diện khác
nhau. Các mặt hoạt động (hoạt động thực tiễn), các phương diện khác nhau
(phẩm chất, năng lực…) quan hệ chặt chẽ, gắn bó và không tách rời nhau
trong NTCN, mang những dấu hiệu đặc trưng cơ bản, riêng biệt về vai trò chủ
thể của NTCN. Trong quá trình biến đổi, phát triển lịch sử - xã hội, NTCN
không những đóng vai trò là chủ thể, mà còn là kết quả, mục tiêu, động lực
20
của quá trình biến đổi và phát triển đó. Điều này cho thấy, sức mạnh của
NTCN chính là sức mạnh của tập thể, cộng đồng và được bắt nguồn trong
từng con người, trong từng cá nhân. Tất nhiên, phải đặt nó trong mối quan hệ
giữa phương diện cá nhân, cá thể và phương diện nhóm xã hội, cộng đồng xã
hội của NTCN; là mối quan hệ biện chứng giữa cái cái riêng và cái chung,
giữa cái bộ phận vá cái tổng thể. Vì lẽ, những đặc trưng, bản chất mặt xã hội
của NTCN được hình thành và phát triển gắn liền với mặt sinh học, sinh thể
của con người.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về NTCN đã được các tác giả làm
rõ về đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu, cũng như nội dung của khái
niệm trong mối quan hệ chặt chẽ với những giải pháp nhằm phát huy NTCN
trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và BVTQ. Mặc dù, mang tính khái quát cao,
nhưng hướng tiếp cận những vấn đề của các tác giả trên chỉ nghiên cứu chuyên
biệt, đi sâu nghiên cứu trong từng lĩnh vực ngành, nghề theo góc độ chuyên môn,
hoặc chỉ nhấn mạnh đến những khía cạnh thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Do vậy, vấn đề NTCN, phát huy NTCN vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn nhất
định trong quan niệm, cũng như hướng tiếp cận nghiên cứu để giải quyết những
vấn đề khác có liên quan. Song, sự tồn tại những mâu thuẫn, những hướng
nghiên cứu đó là một tất yếu khách quan. Đó cũng là động lực giúp tác giả bước
đầu nghiên cứu để làm sáng rõ vấn đề “Phát huy nhân tố con người lực lượng vũ
trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay”.
2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Các tác giả trên đã tiếp cận nghiên cứu NTCN từ nhiều hướng khác
nhau, từ nhiều góc độ khác nhau và đưa ra những quan niệm khác nhau về
NTCN, phát huy NTCN. Họ tìm kiếm con đường, giải pháp để phát huy tính
tích cực chính trị - xã hội của con người trong hoạt động và trong đời sống thực
tiễn. Điều đó cho thấy, “Tính độc đáo, tính bí ẩn và tính phong phú của con
người, một thực thể vừa tự nhiên, vừa xã hội, vừa tinh thần” [116, tr.56], là
21
điều kiện lý tưởng cho các nhà khoa học nghiên cứu và triển khai tư tưởng của
mình về cách tiếp cận phức hợp - liên ngành. Có thể nói, các công trình khoa
học đã được công bố của các tác giả trên tập trung thể hiện rõ khái niệm NTCN
và vấn đề phát huy NTCN, làm rõ quan điểm nhất quán của Đảng ta coi con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, cũng
như trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ. Bên cạnh
những thành tựu cơ bản của các công trình khoa học có liên quan, đề tài luận án
“Phát huy nhân tố con người lực lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay” của tác giả còn những vấn đề đặt ra cần
được giải quyết. Những vấn đề được thể hiện như sau:
* Thứ nhất, các công trình khoa học nêu trên, xét về mặt lý luận, các tác
giả nhấn mạnh tới bản chất, phát huy NTCN, nhất là nghiên cứu trong lĩnh
vực quốc phòng - an ninh, một số tác giả gần đây tiếp cận theo hướng nghiên
cứu cơ bản của tác giả Nguyễn Văn Tài, đó là “tích cực hóa đội ngũ sĩ quan”
trong học viện, nhà trường hay cấp phân đội, đã luận giải bản chất, thực chất
của việc tích cực hóa theo góc độ chung nhất. Tác giả tiếp cận nghiên cứu vấn
đề trên cho rằng, đặc trưng bản chất phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 chính là
tính sáng tạo. Chính tính sáng tạo đã hình thành cho NTCN LLVT Quân khu 9
ra nhiều cách đánh địch rất đa dạng, phong phú trên chiến trường ĐBSCL và đã
giành nhiều thắng lợi to lớn trong chiến tranh giải phóng. Đây là phẩm chất độc
đáo nhất của việc phát huy NTCN LLVT Quân khu 9 trong thời kỳ hòa bình xây
dựng, cũng như trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Mặt khác,
những vấn đề có tính quy luật phát huy NTCN đối với LLVT Quân khu 9 chưa
được công trình nào đề cập, nghiên cứu và luận giải mang tính đặc thù riêng. Do
đó, vấn đề được đặt ra trong luận án nghiên cứu giải quyết là thực chất phát huy
NTCN và những vấn đề có tính quy luật phát huy NTCN LLVT Quân khu 9
trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
- Xem thêm -