Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phật giáo việt nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế...

Tài liệu Phật giáo việt nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế

.PDF
88
759
73

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ VŨ QUỐC ĐẠT PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Tôn giáo học Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ VŨ QUỐC ĐẠT PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 60.22.90 Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Kim Oanh Hà Nội – 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Thị Kim Oanh. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2015 Tác giả luận văn Vũ Quốc Đạt MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2 1. Lý do chọn đề tài. .......................................................................................... 2 2. Tình hình nghiên cứu. ................................................................................... 4 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn. ................................................................ 6 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. ................................................................... 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn. ............................. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. .................................................... 7 7. Kết cấu của luận văn. .................................................................................... 7 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................. 8 1.1. Một số vấn đề về hội nhập quốc tế ......................................................... 8 1.2. Thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay. ............................................ 20 Chương 2: THỰC TRẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ .......................................................................... 43 2.1. Hội nhập Phật giáo về vấn đề văn hóa, tư tưởng. ................................. 43 2.2. Hội nhập Phật giáo đối với hoạt động đời sống xã hội Việt Nam. ............ 49 Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ .............. 62 3.1 Những vấn đề đặt ra. .............................................................................. 62 3.2 Giải pháp và kiến nghị. .......................................................................... 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Hiện nay trong quá trình hội nhập quốc tế tôn giáo đang có sự biến đổi sâu sắc về nhiều mặt để phù hợp với thực tại chung của xã hội. Sự biến đó là quy luật tất yếu của tôn giáo trong sự vận động, phát triển chung của mình. Quá trình hội nhập phát triển đã đã thúc đẩy tôn giáo thâm nhập sâu rộng vào đời sống con người, trái ngược với xu hướng thần thánh hóa, thiêng liêng hóa. Bên cạnh đó, sự biến động của điều kiện kinh tế xã hội hiện nay cũng đã tác động mạnh mẽ đến việc biến đổi tôn giáo, từ chỗ hướng về thế giới “bên kia” thì hiện nay tôn giáo trực tiếp quan tâm phục vụ cho chính bản thân con người nơi trần thế. Cũng như vậy, Phật giáo trên thế giới đang có sự chuyến mình mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu chung của con người trong sự giao lưu, phát triển giữa các quốc gia. Sự biến chuyển mình đó không chỉ tăng cường mối quan hệ Phật giáo giữa các nước mà còn đóng góp vai trò to lớn trong việc giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia trong quá trình hội nhập phát triển; đóng góp tích cực cho cuộc đấu tranh trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, chố ng âm mưu “diễn biến hòa bình của các thế lực xấu”. Có mặt tại Việt Nam hơn 2.000 năm, Phật giáo cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn hoá dân tộc, đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong từng triều đại. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam đang đứng trước một trào lưu mới, đó là trào lưu đất nước đang bước vào ngưỡng cửa hội nhập quốc tế theo xu hướng toàn cầu hóa. Đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ với những bước tiến vượt bậc của công cuộc hội nhập, đổi mới và xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh sánh vai cùng những cường quốc trên thế giới. Trong quá trình đó Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và ngoại giao, bên cạnh đó không thể không nói tới những đổi mới, phát triển của tín ngưỡng tôn giáo. Đồng hành 2 cùng dân tộc Phật giáo đã hòa nhập theo sự chuyển biến sâu rộng ấy. Bởi lẽ theo quy luật: “Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh…”, Phật giáo luôn luôn vận động thay đổi để phù hợp với sự phát triển chung của đất nước. Không chỉ vậy Phật giáo cũng đã tiếp thu, phát triển công tác hoằng dương Phật pháp của mình trong sự vận động chung của Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung trên thế giới. Để từ đó khẳng định vai trò, vị trí của mình trong đời sống xã hội, tạo ảnh hưởng và uy tín đối với cộng đồng quốc tế. Chính từ thực tế đó, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có sự đổi mới trong chính sách đối với tôn giáo, dân tộc; tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động phát triển ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời đại ngày nay. Thông qua các hoạt động tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta một phần nào đã khẳng định được vị thế, vai trò của mình trong quá trình hội nhập và phát triển chung của thế giới, thể hiện rõ quan điểm tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Đúng như nhà vật lý học Albert Einstein đã từng nói: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của toàn cầu, vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trong cái nhất thể đầy ý nghĩa, chỉ có Đạo Phật mới đáp ứng đủ điều kiện ấy”. Trong giai đoạn phát triển, hội nhập của đất nước hiện nay Phật giáo thể hiện rõ vai trò quan trọng, ảnh hưởng của mình. Đạo Phật không chỉ phát triển trên phương diện tôn giáo thuần túy mà những tư tưởng nhập thế Đạo Phật trong xã hội ngày nay cũng đang là nét son tô đậm trong quá trình phát triển ấy. Xuất phát từ hệ tư tưởng của đạo Phật về con người, về vũ trụ trong đó con người sinh sống, đạo Phật đã đưa nội dung giáo lý siêu việt ấy đi vào đời sống đời thường, dùng nó như là phương thuốc chữa lành vết thương 3 cho những con người đang gặp nhiều nỗi đau thương mất mát, đang có nhiều sự sợ hãi và đau khổ…Tinh thần nhập thế ấy của đạo Phật vẫn liên tục phát triển từng nơi từng lúc và trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong quá trình hoạt động của Phật giáo Việt Nam. Chính từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu lý luận quá trình hoạt động, phát triển của Phật giáo hiện nay có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển chung của xã hội. Vấn đề đó cũng đang trở thành một trong những vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học cũng như những nhà hoạt động thực tiễn trong nước cũng như thế giới. Để góp phần đáp ứng nhu cầu thực tiễn chung của xã hội, cũng như đóng góp cống sức của mình vào việc tìm hiểu nghiên cứu quá trình hoạt động của Phât giáo tôi đã chọn đề tài “Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu. Như phần trên đã trình bày hiện nay vấn đề này đang là một vấn đề có yếu tố quan trọng, được nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đông đảo các tầng lớp xã hội trong nước và ngoài nước đặc biệt là tầng lớp tăng, ni tín đồ Phật tử nước ta. Do đó đã có rất nhiều các học giả, các hội thảo cũng như những cuốn sách, bài viết nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như: Hội thảo “Phật Giáo Trong Thời Đại Mới – Cơ Hội Và Thách Thức” do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam tổ chức vào năm 2006. Hội thảo đã tập hợp được 85 báo cáo, nghiên cứu khoa học xung quanh 2 mảng vấn đề chính: mảng thứ nhất tập trung phân tích những cơ hội và thách thức của Phật giáo thế giới trước những yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở đó, xác định vai trò đạo đức, xã hội và tâm linh của đạo Phật trong việc góp phần giải quyết các vấn nạn toàn cầu, như chiến tranh, khủng bố, phá hoại môi trường và các tệ nạn xã hội khác; mảng thứ hai của hội thảo đề cập đến vai trò của Phật giáo Việt 4 Nam trong hiện tình đất nước và thời đại, trên cơ sở phân tích và đánh giá những thành tựu và thất bại, cơ hội và thách thức mà Phật giáo Việt Nam đang đối diện hiện nay. Nghiên cứu về Phật giáo tiêu biểu như các công trình: “Phật học khái lược” của Lưu Vô Tâm; “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang,; “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Lê Mạnh Thát; “Phật giáo với văn hóa - xã hội Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, do PGS.TS Nguyễn Hồng Dương, TS. Nguyễn Quốc Tuấn chủ biên; “Các vấn đề xã hội hôm nay” của HT. K.Sri Dhammananda Thích Tâm Quang dịch… Xét ở góc đội khái quát chung nhất, các công trình nghiên cứu trên với nội dung đề cập đến những vấn đề lịch sử, nghiên cứu Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hiện nay trên nhiều vấn đề. Nghiên cứu về quá trình hội nhập quốc tế có các công trình tiêu biểu sau: “Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa” của Phạm Thái Việt, Nxb Khoa học xã hội năm 2006; “Thử bàn về đụng độ văn hóa trong quan hệ quốc tế” của Guoji Zhengzhi năm 2004, tài liệu nghiên cứu của Viện Thông tin Khoa học xã hội;.. Đây là những công trình nghiên cứu một cách tổng thể về vấn đề toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực của các nước trên thế giới trong đó và Việt Nam. Ngoài ra trên một số tạp chí, các báo nghiên cứu mà điển hình là: Tạp Chí Triết Học, Tạp Chí Nghiên Cứu Tôn Giáo, Tạp Chí Phật Học, Tạp Chí Công Tác Tôn Giáo, Báo Giác Ngộ… cũng đã có một số các bài viết liên đề cập đến thực trạng của Phật giáo Việt Nam hiện nay trên nhiều các lĩnh vực, những thách thức đặt ra cho sự phát triển của Phật giáo, quá trình hội nhập quốc tế và các vấn đề liên quan. Phạm Thái Việt với Xung đột văn hóa, Tạp Chí Triết Học, số 09 năm 2010; Tìm hiểu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam, Tạp Chí Khoa Học, ĐHQGHN, số 01/2003. 5 Nhìn chung về tình hình có thể thấy các công trình, tác phẩm đều nghiên cứu hoặc đề cập đến thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay, nhưng chỉ ở tầm bao quát hay đi vào những vấn đề riêng lẻ mà chưa có một công trình nào cụ thể nghiên cứu về những vấn đề đặt ra cho Phật giáo Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Vì vậy tôi hy vọng với đề tài này của mình sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề đặt ra cho Phật giáo Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị giúp một phần cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn. 3.1. Mục đích nghiên cứu : Trên cơ sở lý luận Mác xít về tôn giáo, luận văn làm rõ thực trạng Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu : Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất: Trình bày một số vấn đề tổng quan chung về đề tài nghiên cứu. Thứ hai: Luận văn phân tích rõ thực trạng của Phât giáo Việt Nam hiện nay trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Thứ ba: Luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu thực trạng của Phật giáo Việt Nam từ năm 2000 đến nay.(đây là năm khởi đầu cho một thiên niên kỷ mới của thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn. 5.1. Cơ sở lý luận: 6 Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng trong xã hội. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Tôn giáo học, phươn pháp phân tích tổng hợp, phân tích tài liệu, thu thập thong tin, phương pháp Logic lịch sử và phương pháp so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. Ý nghĩa lý luận của luận văn: Trên cở sở nghiên cứu đánh giá thực trạng của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, luận văn làm sáng tỏ những vấn đề cấp thiết của Phật giáo Việt Nam hiện nay. Thông qua đó tạo một cách nhìn mới, một hướng đi mới cho Phật giáo Việt Nam ngày nay. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Đóng góp ý kiến, giải pháp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam giải quyết các về các vấn đề đặt ra trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn bao gồm 3 chương và 6 tiết. 7 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Một số vấn đề về hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển. Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân quen với hầu hết người Việt Nam. Trong công sở, nhà trường, ở quán nước trên hè phố, thậm chí cả ở thôn quê, người ta đều sử dụng nó một cách rất thông dụng. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu khái niệm này; đặc biệt, hiểu nó một cách đầy đủ và ngọn nghành thì chẳng có mấy người. Giới học thuật và những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất khác nhau và vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế. Trong giới hạn của luận văn, tác giả sẽ đề cập sâu đến sự hội nhập của văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, bao hàm trong sự hội nhập về văn hóa còn có sự hội nhập về tôn giáo. Văn hóa là một hệ thống được tạo thành bởi nhiều thành tố khác nhau như ngôn ngữ, văn chương, kiến trúc, phong tục tập quán, lối sống, tín ngưỡng và tôn giáo… Mối quan hệ giữa văn hóa và tôn giáo là mối quan hệ bộ phận không thể tách rời. Tôn giáo là một hiện tượng của văn hóa hay là một bộ phận của văn hóa nên có mối quan hệ 8 phổ biến, cơ bản và quan trọng trong từng giai đoạn lịch sử. Văn hóa là toàn bộ hoạt động của con người bao gồm cả hoạt động vật chất và tinh thần, nên văn hóa bao trùm cả lĩnh vực tôn giáo. 1. 1.1 Một số khái niệm * Khái niệm hội nhập quốc tế: Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu. Ở Việt Nam, thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới làm chính sách ở Việt Nam. Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Tôi cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá 9 trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. * Khái niệm văn hóa: Muốn nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển, trước tiên phải có một khái niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng như cấu trúc của nó. Trên thực tế, cũng đã có rất nhiều người cố gắng định nghĩa văn hóa. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một sự nhất trí và cũng chưa có định nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng. Có thể đưa ra một số quan niệm, khái niệm và định nghĩa về văn hoá như sau: Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicô (1982) để bắt đầu thập kỷ văn hoá UNESCO. Đã thống nhất đưa ra một khái niệm về văn hoá như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.” Cựu Tổng Giám đốc UNESCO GS Federico Mayor khi ông đưa ra một định nghĩa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong 10 quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình". Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày một quan niệm về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá" 1.1.2. Những hình thức hội nhập quốc tế và xu hướng vận động của nó. Như phần đầu đã trình bày, trong giới hạn của luận văn tác giả sẽ đi sâu, tập trung nghiên cứu, làm rõ quá trình hội nhập văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế. * Hội nhập kinh tế quốc tế: Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu vực, vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và liên minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa. 11 b) Hội nhập chính trị Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế quyền lực tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể hiện mức độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn lực và đặc biệt là quyền lực. Một quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế thông qua ký hiệp ước với một hay một số quốc gia khác trên cơ sở thiết lập các mối liên kết quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng minh) hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực (chẳng hạn như ASEAN, EU) hay một tổ chức có quy mô toàn cầu (chẳng hạn như Liên Hiệp quốc). c) Hội nhập an ninh-quốc phòng Hội nhập về an ninh-quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh. Điều này đòi hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận song phương hay đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt động chung về đảm bảo an ninh-quốc phòng... Nhìn chung, hội nhập trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng là tiến trình khó khăn hơn cả, vì nó liên quan trực tiếp tới những vấn đề nhạy cảm nhất- cốt lõi tồn tại của quốc gia, đó là hòa bình, độc lập và chủ quyền. d) Hội nhập về văn hóa-xã hội Hội nhập về văn hóa-xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã 12 hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (ví dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dụcxã hội với các nước. Giao lưu hội nhập văn hóa là một hiện tượng phổ biến của xã hội loài người, là một quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Thông qua quá trình hội nhập văn hóa mà các dân tộc có điều kiện để học hỏi và tiếp nhận những giá trị của nhau. Chính nhờ có hội nhập văn hóa mà các nước, các khu vực chậm phát triển có cơ hội trở thành một nước phát triển trong thời gian ngắn vì kế thừa được các giá trị của các dân tộc, các khu vực phát triển. Ngày nay, loài người đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, lối sống... Xu thế toàn cầu hóa là một hiện tượng mang tính tất yếu khách quan, nó xuất phát từ chính nhu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh ngày nay, các quốc gia muốn phát triển thì không thể không tham gia vào quá trình này. Hội nhập quốc tế ngày nay đã đem lại nhiều thời cơ, đồng thời cũng hàm chứa nhiều thách thức cho sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Vì thế, mỗi quốc gia dân tộc phải chủ động tham gia vào xu thế này. Thông qua hội nhập mà họ có điều kiện để kế thừa những yếu tố tích cực của thế giới và loại bỏ những yếu tố tiêu cực, hạn chế của mình tạo động lực cho sự phát triển. Lịch sử đã cho thấy quốc gia dân tộc nào biết tiếp thu những giá trị văn hóa, văn minh mới của nhân loại thì có sự phát triển, đồng thời những quốc gia nào đi ngược lại sẽ suy vong. Quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế trong lĩnh vực văn hóa là quy luật tất yếu, sự đối thoại giữa các nền văn hóa nhiều khi đóng vai trò quan trọng, thậm chí quyết định cho những cuộc đàm phán về biên giới, về lãnh thổ, về mâu thuẫn giữa các dân tộc. Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa 13 cần tính đến các giá trị chung, giá trị nhân loại, đồng thời cũng thừa nhận sự khác biệt về văn hóa. Vì vậy, cần phải có cách thức để bảo vệ và phát huy nền văn hóa bản địa và văn hóa khu vực là trách nhiệm của từng dân tộc. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự gia tăng của hoạt động sản xuất, sự mở rộng của thị trường tiêu thụ hàng hóa đã dẫn đến sự hình thành các mối quan hệ quốc tế. Xu thế quốc tế hóa không chỉ diễn ra trong lĩnh vực kinh tế mà nó còn diễn ra trong tất cả các lĩnh vực như chính trị, pháp luật, văn hóa... Quốc tế hóa là quá trình phức tạp và chứa đựng nhiều mâu thuẫn và có tính chất hai mặt, đó là nó vừa có yếu tố tích cực nhưng đồng thời cũng chứa đựng những yếu tố tiêu cực, có cả thời cơ và cũng tồn tại những thách thức. Trong lĩnh vực văn hóa, chúng ta đã thấy rõ hiện tượng này, trên thế giới hiện đang có những lực lượng muốn áp đặt hệ giá trị của mình cho các nước khác, thông qua và lợi dụng quốc tế hóa để can thiệp vào nội bộ của các nước, buộc các nước phải lệ thuộc vào mình. Quốc tế hóa là điều kiện, là tiền đề cho hội nhập văn hóa, chuyển giao công nghệ hiện đại, liên kết trí tuệ, phát triển của các quốc gia dân tộc. Nhưng đồng thời, quốc tế hóa cũng có thể đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất chủ quyền quốc gia. Gắn với xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển của khoa học và công nghệ là cuộc cách mạng trên lĩnh vực thông tin đại chúng, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập văn hóa quốc tế. Sự phát triển trên lĩnh vực thông tin đại chúng một mặt chúng đem lại cho nhân loại một lượng thông tin khổng lồ và đáp ứng nhu cầu thông tin của của con người một cách nhanh nhất. Nó lôi kéo các quốc gia dân tộc và toàn nhân loại xích lại gần nhau về nhận thức, về tư duy, về thế giới tinh thần, đạo đức của con người. Nó phổ cập nhiều giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, kích thích sự sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng các giá trị văn hóa. Mặt khác, nó cũng tạo ra những hậu quả khôn lường, đó là xu hướng đồng nhất hóa lối sống của các quốc gia dân tộc, đặc biệt là xu thế 14 áp đặt văn hóa, áp đặt các mô hình và giá trị trong văn hóa. Đối với Việt Nam chúng ta, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng hệ thống truyền thông và giao lưu, hội nhập văn hóa để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” với mục đích nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và đang xây dựng. Chống lại xu thế nhất thể hóa lối sống, áp đặt văn hóa là vấn đề giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc của nhiều quốc gia dân tộc, đây là xu hướng tích cực. Bên cạnh xu hướng tích cực đó, lại xuất hiện một xu hướng tiêu cực là khuyến khích sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan, nhằm gây ra những xung đột chính trị, xung đột văn hóa, tôn giáo, nhằm khuyến khích chủ nghĩa ly khai, hận thù dân tộc và khủng bố quốc tế... Những xu hướng ấy đều tác động đến văn hóa Việt Nam nói riêng và tác động đến đời sống xã hội nói chung. Vì thế, trên lĩnh vực văn hóa cần phải có sự định hướng cho phù hợp. Quá trình hội nhập hóa không phải là quá trình bắt chước nước ngoài, mà nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, cũng không phải chỉ vì giữ gìn bản sắc của mình mà đóng cửa không chịu hội nhập. Quá trình hội nhập văn hóa đồng thời phải tiếp thu những tinh hoa của tri thức nhân loại để làm thêm cho mình, làm phong phú thêm giá trị văn hóa cho mình. Do vậy, trong quá trình hội nhập văn hóa chúng ta phải đặt ra và thực hiện những nguyên tắc nhất định nhằm bảo vệ và phát triển giá trị văn hóa Việt Nam. 1.1.3 Những mặt tích cực và tiêu cực của hội nhập quốc tế * Tích cực: Hội nhập quốc tế thúc đẩy rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao,nhất là vào nửa đầu của thế kỷ 20, GDP thế giới tăng hơn 2,7 lần, đến cuối thế kỷ thì đã tăng lên 5,5 lần. Hội nhập quốc tế góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt tăng 15 mạnh các sản phẩm chế tác, chiếm khoảng 22% và các dịch vụ chiếm 63% trong cơ cấu kinh tế thế giới. Hội nhập quốc tế tạo thêm những tiền đề rất quý cho xã hội mới hiện đại. Xét từ góc độ này, ngay cả những khiếm khuyết của hội nhập quốc tế tuy có hại nhưng nó đã góp phần vào việc đặt ra hoặc cảnh báo những vấn đề lớn của tương lai và mở ra các giải pháp. Sự phát triển bền vững kinh tế xã hội với sự tôn vinh con người là nguồn lực chính, với mối quan tâm đặc biệt tới môi trường sinh thái cũng xuất phát từ tiến trình hội nhập quốc tế. Mặt khác, hội nhập quốc tế truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành quả, những đột phá sáng tạo về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các dân tộc, đến từng hộ gia đình, từng con người và dọn đường cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Chính hội nhập quốc tế nên khả năng phát triển rút ngắn, mang lại những nguồn lực rất quan trọng, cần thiết cho các nước đang phát triển từ các nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh nghiệm, cả về chiến lược lâu dài, về tổ chức và cả ở tầm vĩ mô của một quốc gia và tầm vi mô của từng doanh nghiệp và cá thể. Hội nhập quốc tế đã gây sức ép mãnh liệt và gay gắt về mặt cạnh tranh do dó đòi hỏi những tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp, chỉ rõ yếu tố hàng đầu của yếu tố chất lượng, thời gian, nâng cao giá trị gia tăng để có sức cạnh tranh và hiệu quả. Mặt khác, hội nhập quốc tế mở ra những địa bàn và cách thức hoạt động mới, những thị trường mới, những đối tác mới cho từng nước như các nước đang phát triển. Hội nhập quốc tế thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc, kích thích các luồng và các dạng giao lưu, làm cho con người ở mọi châu lục ngày càng hiểu biết nhau hơn, nắm bắt được mọi tình hình, cập nhật ở mọi nơi và góp phần tác động nhanh chóng đến các sự kiện. Hội nhập quốc tế cũng góp phần vào sự nâng cao dân trí và sự tự khẳng định mình của các dân tộc và của từng con người. 16 * Mặt tiêu cực Hội nhập quốc tế làm tăng thêm sự bất công xã hội, khoét sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Trong 1 báo cáo mới đây của UNDP đã khẳng định các thế lực của quá trình hội nhập quốc tế đã mang lại sự giàu có vô độ cho những người biết tận dụng lợi thế của các luồng hàng hóa, dịch vụ đang tràn qua các đường biên giới quốc gia trong khi đa số dân chúng bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Xét theo nhiều khía cạnh, dân chúng ở gần 100 quốc gia trên thế giới đã có mức sống thấp hơn so với nhiều năm trước đây. Khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày càng lớn. Các nước công nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 85% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp của nước ngoài và 75% số máy điện thoại; trong khi đó các nước nghèo nhất chiếm 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra 1%GDP toàn thế giới. Hiện nay vẫn còn hơn 1 tỷ người nghèo, những người giàu thì chỉ chiếm 20% dân số nhưng lại chiếm hơn 86% chi phí dành cho tiêu dùng trong khi sản xuất thực phẩm cơ bản toàn thế giới đã ở trên mức 110% nhu cầu thì hàng năm trên 30 triệu người vẫn tiếp tục chết đói, hàng triệu người vẫn thiếu ăn. Ví dụ: Người giàu tiêu thụ 45% lượng thịt cá trên thế giới trong khi người nghèo chỉ tiêu thụ 5%, số người sử dụng internet đã tăng lên hàng trăm triệu nhưng mạng thông tin toàn cầu chỉ đa số được dùng nhiều trong các nước công nghiệp phát triển. Hội nhập quốc tế cũng làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người thêm kém an toàn, từ kinh tế, tài chính văn hóa xã hội cho tới môi trường đến an toàn chính trị và an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn của quốc gia và an toàn của hệ thống kinh tế tài chính tiền tệ thế giới. Hội nhập quốc tế có phần thu hẹp quyền lực, phạm vi và hiệu quả tác động của các Nhà nước dân tộc, làm rung chuyển một nền tảng tích cực quan trọng của đời sống các quốc gia, đặt ra những vấn đề nhạy cảm và gây nên những phản ứng quyết 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan