Pháp sư Bí mật của Nicholas Flamel bất tử
Tựa sách: Pháp sư
Bí mật của Nicholas Flamel
bất tử
Tác giả: Michael Scott
Người dịch: Thanh Tuyền
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
Type: dainganha311 =
anna311; pe_rua; mickey_house
Làm ebook: qoop!!
Ngày hoàn thành: 13/12/2010
Tôi đang chết từ từ.
Perenelle cũng vậy, cũng đang
cận kề cái chết.
Câu thần chú đã từng giữ cho
chúng tôi sống sáu trăm năm qua
đang biến dần đi, và bây giờ cứ mỗi
ngày trôi qua là chúng tôi già đi cả
một năm trời. Tôi cần Codex, cuốn
sách của Pháp sư Abraham, để tái
tạo lại câu thần chú bất tử; không
có nó, chúng tôi chỉ còn sống chưa
đầy một tháng nữa thôi.
Nhưng vẫn có thể làm được
nhiều thứ trong một tháng sắp tới.
Dee và những chủ nhân đen tối
của hắn đang giữ Perenelle thân
yêu của tôi làm tù binh, cuối cùng
chúng đã chiếm được cuốn sách, và
chúng biết được rằng cả tôi và
Perenelle đều không thể sống lâu
hơn
Nhưng chúng không thể nghỉ
ngơi dễ dàng vậy được.
Bọn chúng chưa có được trọn
vẹn cuốn sách. Chúng tôi vẫn đang
giữ hai trang cuối, và từ nay chúng
phải biết rằng Sophie và Josh
Newman là cặp sinh đôi được mô tả
trong văn bản cổ: cặp sinh đôi có
luồng điện bạc và vàng, một cô chị
và một cậu em có luồng năng lượng
để hoặc là giải cứu thế giới… hoặc
là hủy diệt nó. Năng lượng của cô
bé đã được Đánh thức và con bé đã
bắt đầu được huấn luyện những
phép thuật cơ bản rồi, tuy nhiên,
thật đáng buồn, cậu con trai thì
chưa có gì hết.
Bây giờ chúng tôi đang ở Paris,
thành phố nơi tôi sinh ra, thành phố
nơi lần đầu tiên tôi khám phá ra
cuốn Codex và từ đó bắt đầu cuộc
nghiên cứu dai dẳng để diễn dịch nó
ra. Cuộc hành trình đó rốt cuộc đưa
tôi khám phá ra sự tồn tại của
giống loài Elder rồi phát hiện sự
thần bí của hòn đá tạo ra vàng và
cuối cùng là bí mật về sự bất tử. Tôi
yêu thành phố này. Nó chứa bao
điền bí mật và nó là mái nhà cho
nhiều người bất tử và Elder cổ xưa.
Nơi đây, tôi sẽ phải tìm cách Đánh
thức năng lượng của Josh và tiếp
tục việc huấn luyện Sophie.
Tôi phải làm cho kỳ được.
Với ích lợi của hai đứa nhỏ—và
vì sự tồn tại của loài người.
Trích từ nhật ký của Nicholas
Flamel, Nhà Giả Kim
Viết vào ngày hôm nay, thứ Bảy,
ngày 2 tháng Sáu,
tại Paris, thành phố tôiống thời
tuổi trẻ
MỤC LỤC:
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
41 42 43 44 45 46 47 48 49 50
51 52 53 54 55
THỨ BẢY, ngày hai
tháng Sáu
CHƯƠNG 1
Mãi tới sau nữa đêm, khi buổi
tiệc ban chiều kết thúc thì cuộc đấu
giá từ thiện mới được bắt đầu. Bây
giờ đã gần bốn giờ sáng và buổi
đấu giá chỉ mới đi đến hồi kết. Một
màn hình kỹ thuật số đặt phía sau
người điều khiển nổi tiếng—một
diễn viên đã từng đóng vai James
Bond trên màn ảnh suốt nhiều năm
—cho thấy tổng số hiện có đang ở
mức hơn một triệu euro.
“Lô số hai trăm mười: một đôi
mặt nạ Kabuki của Nhật Bản đầu
thế kỷ mười chín.”
Tiếng rì rầm sôi nổi lan khắp căn
phòng chật ních người. Nhưng chiếc
mặt nạ Kabuki này được khảm bằng
các mảnh ngọc bích hình khối, là
điểm nổi bật của cuộc bán đấu giá,
và người ta mong đợi nó đem về
hơn nửa triệu euro.
Ở cuối căn phòng một người đàn
ông cao, gầy với mái tóc xoăn trắng
như tuyết được cắt rất sát sẵn sàng
trả giá gấp đôi con số đó.
Niccolo Machiavelli đứng tách ra
khỏi số còn lại của đám đông, cánh
tay khoanh hờ trước ngực, cẩn thận
không làm nhăn bộ Savile Row—bộ
lễ phục được cắt may băng lụa đen.
Đôi mắt xám như màu đảo khắp
những người trả giá khác, phân tích
và đánh giá họ. Thực sự ông chỉ ta
chỉ cần dè chừng năm người: hai
nhà sưu tập cá nhân giống như ông
ta, một hoàng thân người châu Âu
tuổi vị thành niên, một diễn viên
điện ảnh người Mỹ nổi danh một
thời và một tay buôn đồ cổ người
Canada. Những khán giả còn lại
một số đã mệt mỏi, một số đã xài
sạch túi, hoặc chỉ miễn cưỡng trả
giá cho mấy chiếc mặt nạ trông có
phần hơi buồn khổ.
Machiavelli yêu thích mọi kiểu
mặt nạ. Ông đã sưu tầm chúng từ
rất lâu, và ông muốn có đôi mặt nạ
đặc biệt này để hoàn tất bộ sưu tập
y phục nhà hát Nhật Bản của mình.
Những chiếc mặt nạ này được đem
bán gần đây nhất vào năm 1898 tại
Vienna, rồi được một hoàng tử
Romanov trả giá cao nhất.
Machiavelli kiên nhẫn chờ đợi thời
cơ; những chiếc mặt nạ có thể sẽ
quay lại thị trường một lần nữa khi
Hoàng tử và các hậu duệ của ông
qua đời. Machiavelli biết mình vẫn
còn quanh quẩn nơi đây để mua
được chúng; đó là một trong nhiều
lợi thế khi làm người bất tử.
“Chúng ta sẽ bắt đầu đấu giá ở
mức một trăm ngàn euro nhé?”
Machiavelli nhìn lên, thu hút sự
chú ý của người chủ tọa về mình và
gật đầu.
Người chủ tọa đợi ông ta chấp
nhận giá và gật đầu đáp lại. “Tôi
được ông Machiavelli trả một trăm
ngàn euro. Ông luôn luôn là một
trong những nhà ủng hộ và tài trợ
hào phóng nhất của hội từ thiện
này.”
Những tiếng vỗ tay rời rạc chạy
căn phòng, vài người quay lại nhìn
ông ta và nâng cao chiếc cốc trong
tay họ. Niccolo đón nhận chúng
bằng một nụ cười lịch thiệp.
“Có phải tôi có một trăm mười
không?” người chủ tọa hỏi.
Một nhà sưu tập cá nhân e dè
đưa tay lên.
“Một hai mươi?” người chủ tọa
nhìn ngược lại Machiavelli, ông vừa
mới gật đầu.
Trong ba phút tiếp theo, sự ra
giá khá nhộn nhịp đã đẩy giá lên
đến hai trăm năm mươi ngàn euro.
Chỉ còn lại ba người trả giá đáng
gờm: Machiavelli, chàng diễn viên
người Mỹ và tay buôn đồ cổ người
Canada.
Đôi môi mỏng của Machiavelli
vặn vẹo thành một nụ cười hiếm
hoi; sự kiên nhẫn của ông ta sắp
được tưởng thưởng, và cuối cùng
những chiếc mặt nạ sẽ thuộc về
ông. Nhưng rồi nụ cười chợt nhạt đi
khi ông cảm thấy chiếc điện thoại
trong túi rung thầm. Trong một
thoáng ông ta định phớt lờ nó; ông
đã dặn nhân viên của ông rất
nghiêm ngặt đừng quấy rầy ông trừ
phi đó hoàn toàn là trường hợp
nguy kịch. Ông ta cũng biết rằng
chúng sợ ông đến nỗi sẽ không điện
thoại cho ông nếu không có việc
khẩn cấp. Thò tay vào túi mình, ông
kéo ra chiếc điện thoại di động siêu
mỏng và liếc xuống.
Hình một thanh kiếm dao động
nhè nhẹ trên màn hình LCD rộng.
Nụ cười của Machiavelli tan biến
hẳn. Trong giây phút đó ông ta biết
rằng mình sẽ không thể mua được
những chiếc mặt nạ Kabuki trong
thế kỷ này. Xoay gót, ông ta sải ra
khỏi căn phòng và áp điện thoại vào
tai. Đằng sau mình, ông ta nghe
được tiếng búa của người chủ tọa
gõ vào bục “Bán. Hai trăm sáu
mươi ngàn euro…”
“Tôi đây,” Machiavelli nói, ông
trở lại giọng Ý thời trai trẻ của ông
ta.
Đường dây kêu lốp bốp và một
tiếng nói mang giọng Anh trả lời
bằng cùng ngôn ngữ đó, một tiếng
địa phương không còn được nghe ở
châu Âu trong hơn bốn trăm năm
nay. “Tôi cần ông giúp.”
Người đàn ông ở đầu dây bên
kia không giới thiệu mình, mà hắn
ta củng chẳng cần làm vậy;
Machiavelli biết chính là Tiến sĩ
John Dee bất tử, pháp sư và thầy
đồng gọi hồn, một trong những
người đàn ông quyền lực và nguy
nhiểm nhất thế giới.
Niccolo Machiavelli sải bước ra
ngoài khách sạn nhỏ để đi vào
quảng trường lát đá cuội Place du
Terre và ngừng lại hít thở trong bầu
không khí đêm lạnh lẽo. “Tôi có thể
làm được gì cho ông?” Ông ta thận
trọng hỏi. Ông ta ghét cay ghét
đắng Dee và biết rằng đây cũng là
cảm giác chung giữa hai người,
nhưng cả hai đang phục vụ cho các
Elder đen tối, và điều đó có nghĩa là
họ buộc phải làm việc cùng nhau
qua các thế kỷ. Machiavelli cũng có
một chút ghen tị vì Dee trẻ tuổi hơn
—mà trông bề ngoài hắn cũng trẻ
hơn. Machiavelli sinh năm 1469 tại
Florence, nên ông ta lớn hơn tay
Pháp sư người Anh này năm mươi
tám tuổi. Lịch sử ghi nhận ông ta đã
chết cùng năm Dee sinh ra, 1527.
“Flamel trở lại Paris rồi.”
Machiavelli dựng thẳng người.
“Hồi nào?”
“Mới đây. Hắn đã đến đó bằng
cổng tuyến. Tôi không biết tiếp
theo là hắn ở đâu. Hắn mang
Scathach theo cùng…”
Môi Machiavelli cong lên tạo
thành một vẻ dúm dó xấu xí. Lần
cuối cùng ông chạm trán với Nữ
thần Chiến binh, bà ta đã xô ông
qua cửa. Cánh cửa đóng lại đúng
lúc đó, và ông phải mất mấy tuần
để gắp những mảnh vở ra khỏi ngực
và vai.
“Có hai đứa trẻ thuộc giống
người cùng đi với hắn. Chúng người
Mỹ,” Dee nói, giọng hắn vang và
nhòe vào đường dây xuyên Đại Tây
Dương. “Cặp sinh đôi,” hắn thêm.
“Nói lại thử?” Machiavelli yêu
cầu.
“Cặp sinh đôi,” Dee nói thêm,
“với luồng điện vàng và bạc. Ông
biết điều đó có nghĩa là gì mà,” hắn
bốn chát.
“Ừ,” Machiavelli lẩm bẩm. Điều
đó có nghĩa là rắc rối. Rồi một chút
vẻ sung sướng uốn cong đôi môi
mỏng của ông ta. Nó cũng có nghĩa
là vận may.
Tiếng tĩnh điện kêu lắc rắc rồi
giọng Dee nói tiếp. “Năng lượng
của đứa con gái đã được Hekate
- Xem thêm -