Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tại thành p...

Tài liệu Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tại thành phố hà nội

.PDF
25
59
129

Mô tả:

KHOA LUẬT PHẠM THỊ TRANG PH¸P LUËT VÒ TRî GIóP X· HéI §èI VíI NG¦êI KHUYÕT TËT - Tõ THùC TIÔN T¹I THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN PHẠM THỊ TRANG MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP Xà HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ....................................................................11 1.1. Người khuyết tật và vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hội .......................................................................................... 11 1.1.1. Khái niệm người khuyết tật................................................................. 11 1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật ........................................................... 15 1.1.3. Vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hộiError! Bookmark not defined 1.2. Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark not d 1.2.1. Khái niệm pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmar 1.2.2. Sự cần thiết phải có pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ............................................. Error! Bookmark not defined. 1.2.3. Nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP Xà HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................... Error! Bookmark not defined. 2.1. Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookma 2.1.1. Đối tượng được trợ giúp xã hội........... Error! Bookmark not defined. 2.1.2. Trình tự, thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark n 2.1.3. Quyền lợi về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark not defin 2.1.4. Nguồn tài chính và cơ quan tổ chức thực hiệnError! Bookmark not defined. 2.2. Thực tiễn thực hiện trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật tại Thành phố Hà Nội ....................... Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Tình hình người khuyết tật và công tác người khuyết tật trên địa bàn Thành phố Hà Nội ........................ Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Đối tượng được trợ giúp xã hội........... Error! Bookmark not defined. 2.2.3. Trình tự, thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark n 2.2.4. Quyền lợi về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark not defin 2.2.5. Nguồn tài chính và cơ quan tổ chức thực hiệnError! Bookmark not defined. Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP Xà HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT .................... Error! Bookmark not defined. 3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật .......................... Error! Bookmark not defined. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tậtError! Bookmark not defined. KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 19 PHỤ LỤC ....................................................... Error! Bookmark not defined. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc sống, không phải ai cũng gặp may mắn, thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển, trái lại họ thường xuyên phải đối mặt với những rủi ro, bất hạnh, biến cố… vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi rơi vào hoàn cảnh như vậy, nhu cầu khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng trở thành cấp thiết và mang tính nhân đạo sâu sắc. Do đó, có thể nhận thấy, trợ giúp xã hội là biện pháp tương trợ cộng đồng đầu tiên mà con người tìm đến để giúp nhau vượt qua những tình huống khó khăn. Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt động xã hội. Do đó việc bảo đảm sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình, xã hội và Nhà nước. Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo của dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 đều khẳng định người khuyết tật là công dân - thành viên của xã hội, được hưởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, được chung hưởng thành quả xã hội. Vì khuyết tật, nên người khuyết tật có quyền được xã hội trợ giúp để thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xã hội, đồng thời khuyết tật, họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Xã hội ngày càng phát triển song hành với các chiến lược phát triển kinh tế thì những chủ trương chính sách phát triển xã hội thông qua các chính sách đảm bảo đời sống an sinh xã hội của người dân cũng ngày càng được chú trọng. Hiện nay, người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các cơ hội tiếp cận các hoạt động, dịch vụ nhằm nâng cao năng lực, tạo thuận lợi cho việc hội nhập đời sống của cộng đồng. Bản thân người khuyết tật không thể hội nhập vào cuộc sống cộng đồng nếu đó chỉ là sự nỗ lực của bản thân mà còn cần được sự quan tâm chia sẻ, tạo thuận lợi từ gia đình, cộng đồng và xã hội để người khuyết tật có thể dễ dàng hoà nhập với cộng đồng và xã hội từ đó phát huy được khả năng của mình. 5 Tuy nhiên, thực trạng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở nước ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như: còn một số đối tượng người khuyết tật chưa được hưởng trợ giúp; thủ tục, điều kiện hưởng trợ giúp rườm rà; mức trợ giúp hiện hành cho người khuyết tật còn thấp… Vì những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật - Từ thực tiễn tại Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật và thực tiễn trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu Hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Vì vậy, vấn đề này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong số các công trình đã được công bố, có thể kể tên một số công trình liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn là: - Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008; - Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật” của Hồ Thị Trâm năm 2013; - Luận văn thạc sỹ Luật học “Chế độ bảo trợ đối với người khuyết tật” của Nguyễn Đức Hoàng năm 2013; - Luận văn thạc sỹ công tác xã hội “Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội” của Nguyễn Thị Quỳnh năm 2014; - “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Mai Ngọc Cường, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; - Giáo trình Luật Người khuyết tật năm 2011 của Trường đại học Luật Hà 6 Nội do Nguyễn Hữu Chí chủ biên; - Bài viết “Pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật tại Việt Nam - Thực tiễn và một số kiến nghị” của Nguyễn Hiền Phương trên tạp chí Luật học số đặc san năm 2013; - Bài viết “Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện” của Lê Thị Hoài Thu trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1 năm 2014; - Bài viết “Một số bất cập trong áp dụng pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Kim Khuyên số 10 năm 2015. Những công trình nghiên cứu trên nhìn chung đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên từng khía cạnh và mức độ khác nhau. Tuy vậy, công trình nghiên cứu về vấn đề trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật một cách hệ thống và toàn diện thì vẫn còn ít, nhất thực tiễn thực hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội là chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì vậy, tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài này, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật và thực tiễn tại Thành phố Hà Nội, đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật, dựa trên cơ sở lý luận đó để đánh giá về thực trạng các quy định pháp luật hiện hành, thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật nhằm đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của thực tiễn về vấn đề bảo vệ, hỗ trợ và thực hiện hóa quyền của người khuyết tật. Với mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: Đánh giá về những quan điểm hiện hành và từ đó xây dựng nội dung lý luận về pháp luật trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật như: Xây dựng khái niệm trợ 7 giúp xã hội đối với người khuyết tật, xác định các nguyên tắc cơ bản trong việc trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Đánh giá nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật, bao gồm những ưu nhược điểm và hạn chế của các quy định của pháp luật hiện hành. Việc đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật nhằm phát hiện những bất cập, hạn chế cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành. Đánh giá thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Những phương hướng này cần bám sát và thể hiện đúng chủ trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước nhằm đảm bảo và hỗ trợ người khuyết tật. Các giải pháp đưa ra cần có tính khả thi và có cơ sở khoa học, được dựa trên cơ sở lý luận và những đánh giá về thực trạng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm: Hệ thống các quy định của pháp luật điều chỉnh về vấn đề trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật bao gồm: Luật về người khuyết tật, và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Các quan điểm khoa học đã được công bố trong các công trình nghiên cứu về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Luận văn được xác định giới hạn nghiên cứu như sau: Đối tượng nghiên cứu là hệ thống quy định pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam kể từ khi có luật về người khuyết tật năm 2010 cho đến hiện nay và có so sánh với các quy định pháp luật trước đó. Những nghiên cứu của luận văn hướng tới hệ thống các quy định pháp luật 8 điều chỉnh hoạt động trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu và mục đích nghiên cứu, luận văn được tiếp cận theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu. Đối với từng nội dung cụ thể, đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử. 6. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn Luận văn là công trình nghiên cứu về hệ thống lý luận về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật cũng như đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Do đó luận văn sẽ góp phần bổ sung một số vấn đề lý luận mới về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Kết quả nghiên cứu của luận văn có tính ứng dụng thực tiễn. Một là, luận văn đóng góp những căn cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Việt Nam. Hai là, luận văn sẽ góp phần đóng góp vào hệ thống kiến thức pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức công tác xã hội và người khuyết tật áp dụng các quy định của pháp luật một cách hiệu quả. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về người khuyết tật và pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Chương 2: Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Hà Nội. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. 9 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP Xà HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1.1. Người khuyết tật và vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hội 1.1.1. Khái niệm người khuyết tật Vào những năm 1970, trong các văn bản quốc tế thường dùng hai từ tiếng Anh “disability” (khuyết tật) và “handicap” (không hội nhập được) để nói về người khuyết tật. Từ “disability” được dùng để nói về một loạt những hạn chế về mặt chức năng khác nhau xuất hiện ở bất cứ cộng đồng dân cư và bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Người ta có thể bị khuyết tật về cơ thể, trí tuệ hoặc giác quan. Những khiếm khuyết ấy có thể là lâu dài và cũng có thể là nhất thời. Có nghĩa là từ “disability” giải thích vấn đề “tàn tật” từ góc độ y học và chẩn đoán. Còn “handicap” có nghĩa là thiếu hoặc bị hạn chế những cơ hội để tham gia vào đời sống của cộng đồng một cách bình đẳng như những người khác. Nó mô tả sự đụng độ giữa người khuyết tật với môi trường sinh hoạt. Mục đích của từ này là muốn nhấn mạnh đến những sự thiếu hoàn chỉnh của môi trường sinh hoạt và trong nhiều hoạt động có tổ chức của xã hội, chẳng hạn như các lĩnh vực thông tin, giao tiếp và giáo dục, sự thiếu hoàn chỉnh ấy đã góp phần làm ngăn cản người khuyết tật được tham gia một cách bình đẳng. Có nghĩa là từ “handicap” giải thích vấn đề “tàn tật” từ góc độ thiếu hoàn thiện của môi trường xã hội. Hai từ “disability” và “handicap” thường được dùng không rõ ràng và nhiều khi lẫn lộn với nhau, vì thiếu mà nhiều khi đã dẫn đến sự dẫn hướng chưa được thích đáng cho phía hoạch định chính sách và thi hành chính sách. Năm 1980, Tổ chức y tế thế giới đã thông qua sự phân loại trên phạm vi quốc tế về các khái niệm "impairment" (khiếm khuyết), "disability" (khuyết tật hay 11 tàn tật) và "handicap" (không hội nhập được), nó cho thấy có một sự tiếp cận vấn đề chuẩn xác hơn, nhằm sử dụng được một cách thỏa đáng trong nhiều lĩnh vực như phục hồi chức năng, giáo dục, thống kê, chính sách, lập pháp, điều tra dân số, xã hội học, kinh tế học và nhân học... Những trải nghiệm thu nhận được từ việc thực hiện Chương trình hành động thế giới về người khuyết tật và qua rất nhiều cuộc thảo luận được mở ra trong Thập kỉ người khuyết tật của Liên hiệp quốc (1983-1992) đã khiến cho người ta có được những kiến thức sâu hơn và sự hiểu biết rộng hơn về vấn đề người khuyết tật cùng những từ ngữ được dùng nói trên. Việc sử dụng đồng thời các từ này cho thấy sự cần thiết của việc cần hướng đến cả những nhu cầu cá nhân (như phục hồi chức năng và các trợ giúp kĩ thuật) và cả sự còn thiếu hoàn chỉnh của xã hội (những trở ngại khác nhau khi tham gia vào các hoạt động xã hội). Trước đây trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như của Việt Nam thường sử dụng thuật ngữ “người tàn tật”. Theo Tuyên ngôn của người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 9/12/1975 thì: Người tàn tật có nghĩa là bất cứ người nào mà không có khả năng tự bảo đảm cho bản thân, toàn bộ hay từng phần những sự cần thiết của một cá nhân bình thường hay của cuộc sống xã hội do sự thiếu hụt bẩm sinh hay không bẩm sinh trong những khả năng về thể chất hay tâm thần của họ [26]. Theo Nghị định số 81/CP ngày 23/11/1995 của Chính phủ Việt Nam về hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động người tàn tật. Điều 1 quy định, người tàn tật là “người mà khả năng lao động bị suy giảm từ 21% trở lên do tàn tật được hội đồng giám định y khoa xác định” [9]. Theo pháp lệnh về người tàn tật của Việt Nam ban hành ngày 30/7/1998 Người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh 12 hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn [49]. Tuy nhiên, hiện nay hầu như tất cả các văn bản liên quan đến người khuyết tật đều không sử dụng thuật ngữ “người tàn tật” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “người khuyết tật”. Sau này công ước quốc tế và những văn bản quốc tế đều dùng từ Poeple with disability – Người sống chung với khuyết tật; như một cách nói tránh để giảm sự kỳ thị với người khuyết tật – Luật người khuyết tật Việt Nam được xây dựng sau khi có công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, tiếp thu công ước nên cũng xây dựng và tiếp cận người khuyết tật theo hướng quyền, và nguyện vọng của người khuyết tật – Chứ không theo hướng bảo trợ xã hội như pháp lệnh người tàn tật 1998 – Nên thống nhất sử dụng thuật ngữ “người khuyết tật” Điều 1, Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc năm 2006 quy định: Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ với hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác [50]. Theo định nghĩa trong Đạo luật người khuyết tật Hoa Kỳ năm 1990 thì “người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống”[43, tr. 18-19]. Một người được coi là người khuyết tật nếu đã có một khiếm khuyết nào đó từ trước. Những khiếm khuyết ấy có thể bao gồm khiếm khuyết về cơ thể, giác quan, nhận thức hoặc trí tuệ. Những người bị rối loạn tâm thần và mắc các loại bệnh kinh niên khác nhau cũng có thể được coi là người khuyết tật. Các khuyết tật có thể xuất hiện trong cuộc đời hoặc có ngay từ lúc sinh ra ở một người nào đó. Bộ luật xã hội Đức định nghĩa: Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lý 13 tiến triển không bình thường so với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội [43, tr.18] Ở Việt Nam, người khuyết tật được Đảng, Nhà nước quan tâm từ rất sớm. Tuy vậy, thuật ngữ người khuyết tật mới được sử dụng gần đây với sự ra đời của Luật người khuyết tật năm 2010. Theo đó người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [34, Điều 2, Khoản 1]. Lý do để giải thích cho việc thay đổi thuật ngữ này là việc hiểu bản chất của khuyết tật có thể từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là từ cá nhân, từ xã hội. Nếu dùng từ “tàn tật” thì chỉ tập trung vào sự bất lợi của người khuyết tật đối với mọi người xung quanh, tức là phân biệt họ với những người khác trong xã hội. Do vậy, xu hướng chung được khuyến nghị là sử dụng thuật ngữ “khuyết tật” thay cho “tàn tật”. Ở Việt Nam khái niệm “Người khuyết tật” đã thay đổi theo từng giai đoạn và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố văn hóa và lịch sử. Trước năm 2009, thuật ngữ phổ biến để chỉ người khuyết tật là “tàn tật” và quan điểm nhìn nhận phổ biến về người khuyết tật chủ yếu theo xu hướng mô hình từ thiện. Bắt đầu từ năm 2010, thuật ngữ “người khuyết tật” được sử dụng thay thế cho thuật ngữ “người tàn tật”, điều này thể hiện sự tiến bộ mạnh mẽ trong công tác bảo vệ, giáo dục, chăm sóc người khuyết tật. Hiện nay tại Việt Nam, thuật ngữ “khuyết tật” được sử dụng với vai trò là thuật ngữ chính thống và phổ biến khi nói về nhóm đối tượng dân cư đặc thù này. Điều này không chỉ có tác dụng tích cực với nhóm người khuyết tật về mặt tinh thần mà còn tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức của xã hội nhằm hướng tới những thay đổi mạnh mẽ. Như vậy, tùy từng thời điểm và từng quốc gia mà khái niệm về người khuyết 14 tật có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Để có khái niệm chung nhất về người khuyết tật nhằm thuận lợi cho việc tìm hiểu nghiên cứu tác giả xin trích dẫn khái niệm trong Giáo trình Luật về người khuyết tật của trường Đại học Luật Hà Nội vào, đây là khái niệm mà tác giả thấy phù hợp, ngắn gọn, đầy đủ ý nghĩa bao quát hết được những đặc điểm cơ bản của người khuyết tật. Theo đó “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác” [43, tr.21]. 1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật Việc xác định và làm rõ đặc điểm của người khuyết tật không chỉ có ý nghĩa trong việc xác định đúng đối tượng nào là người khuyết tật mà còn có ý nghĩa trong việc xây dựng những quy định của pháp luật mang tính khả thi cao về người khuyết tật, điều chỉnh đúng phạm vi đối tượng là người khuyết tật. Người khuyết tật trước hết cũng là những con người nên họ mang những đặc điểm chung về tâm sinh lý, đặc điểm về kinh tế - xã hội như mọi người khác trong xã hội. Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật nên người khuyết tật nói chung lại có những nét đặc thù so với những người không khuyết tật và mỗi nhóm khuyết tật khác nhau lại có những nét đặc thù tương đối khác nhau.  Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức độ khuyết tật. Đặc điểm về dạng tật Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về phân loại người khuyết tật theo các tiêu chí khác nhau, tuy nhiên thì tiêu chí về sự khiếm khuyết bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng là tiêu chí được quan tâm nhiều nhất. Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Người khuyết tật năm 2010 thì các dạng khuyết tật được phân theo dạng tật: Khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật 15 nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác [34]. Mỗi dạng khuyết tật này có những đặc điểm riêng, chung về tâm sinh lý, về khả năng qua đó tác động đến các nhu cầu của bản thân và có ảnh hưởng qua lại, tác động đáng kể tới môi trường xung quanh làm xuất hiện những hệ quả pháp lý trong quá trình hòa nhập cộng đồng. Khuyết tật vận động là những người có cơ quan vận động bị tổn thương, khó khăn trong di chuyển (nằm, ngồi, cầm, nắm, di chuyển...). Do đó, người khuyết tật gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, học tập, lao động và vui chơi. Họ cần được hỗ trợ về phương tiện đi lại đối với những người khuyết tật vận động về vùng chân như dùng xe lăn, gậy chống... và không gian cần thiết tiếp cận, thuận tiện để sinh hoạt và di chuyển. Khuyết tật nghe, nói: Người khuyết tật gặp khó khăn trong việc phát âm ra tiếng và nghe được âm thanh, từ đó cũng dẫn tới những khó khăn về đọc, về viết kéo theo cả một loạt các khó khăn và hạn chế khác trong hoạt động sinh hoạt học tập, lao động, hòa nhập với cộng đồng. Đối với những người khiếm thính họ cần được hỗ trợ máy trợ thính để có thể nghe được, và học ngôn ngữ ký hiệu trong giao tiếp đối với người bị câm, điếc. Một số người khiếm thính ở dạng nhẹ ngoài việc kết hợp dùng máy trợ thính, họ học phương pháp đọc khẩu hình. Người khuyết tật về nghe, nói thường rất khó khăn trong việc thể hiện ngôn ngữ giao tiếp và tiếp nhận thông tin từ cộng đồng, bởi ngôn ngữ của họ là ngôn ngữ ký hiệu. Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): Đó là những người có tật về mắt làm cho họ không nhìn thấy hoặc nhìn không rõ ràng. Công cụ hỗ trợ cho họ là chiếc gậy trắng, chữ nổi Braille, chó dẫn đường, các dụng cụ hỗ trợ thông minh, lối đi có gờ nổi ký hiệu nhận diện, phát ra âm thanh hướng dẫn... Đối với những người nhìn kém thì môi trường cần thiết cho họ phải đảm bảo đủ ánh sáng, dùng những màu tương phản hợp lý trong sinh hoạt và các hoạt động khác, cung cấp thiết bị phóng đại hình ảnh. 16 Khuyết tật trí tuệ: Đây là dạng khuyết tật bị giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Những người khuyết tật về trí tuệ có nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ và người thân. Xét ở góc độ đặc điểm về tâm lý, sinh lý cho thấy tính đa dạng của khuyết tật và rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp lý cũng cần tính đến yếu tố đặc thù của các dạng khuyết tật khác nhau. Đặc điểm về mức độ khuyết tật Căn cứ vào mức độ khuyết tật, người khuyết tật được chia làm 3 loại: người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người khuyết tật nhẹ. Theo quy định của Nghị định số 28/2012/NĐ-CP thì: Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn (khoản 1 Điều 3). Người khuyết tật nặng là những người khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc (khoản 2 Điều 3). Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc hai trường hợp kể trên (khoản 3 Điều 3). Xét ở góc độ đặc điểm thể chất - tâm lý - xã hội cho thấy tính đa dạng của người khuyết tật và rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp lý cũng cần tính đến yếu tố đặc thù của các mức độ (hạng) khuyết tật khác nhau.  Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội. 17 Trước hết người khuyết tật là nhóm dân cư đặc biệt phải chịu thiệt thòi về mặt kinh tế, xã hội và nhân khẩu học. Đối với bản thân người khuyết tật, chính họ phải chịu rất nhiều thiệt thòi trong mọi mặt cuộc sống. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các công việc sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội. Để khắc phục những khó khăn này, người khuyết tật chủ yếu dựa vào gia đình, nguồn giúp đỡ chính đối với họ. Những khó khăn càng trở nên trầm trọng hơn nếu gia đình người khuyết tật không có đủ kinh tế và nhân lực để chăm sóc hỗ trợ người khuyết tật, làm cho người khuyết tật càng ít có cơ hội được tham gia và hòa nhập vào cộng đồng. Đối với gia đình có người khuyết tật thường thì sẽ phải chịu những gánh nặng về kinh tế, năng suất lao động của người khuyết tật thường thấp và có khi họ không có khả năng lao động mà có thể còn phải chi một khoản tiền nhất định mỗi tháng cho họ để phục hồi chức năng - Như dụng cụ chỉnh hình, chân tay giả, xe lăn... người khuyết tật cũng ít có cơ hội được tham gia học hành, một phần là do bản thân họ không có khả năng tự mình đến trường, không có phương tiện dụng cụ chỉnh hình phục hồi chức năng hoặc ngôi trường hay cơ sở đào tạo không tiếp cận, hoặc không có chương trình, giáo viên chuyên biệt để dạy cho người khuyết tật, trong các dạng khuyết tật đặc thù, hai là do kinh tế gia đình còn eo hẹp nên chất lượng lao động của họ đa số là rất thấp. Vì vậy mà thu nhập của người khuyết tật thường rất thấp hoặc không có thu nhập dẫn đến điều kiện sống và sinh hoạt không tốt, ảnh hưởng phần nào đến chất lượng cuộc sống của cả gia đình trong các gia đình có người khuyết tật. Hơn nữa, trong xã hội còn tồn tại nhiều quan niệm tiêu cực định kiến sai lầm về người khuyết tật nên thường dẫn đến thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người khuyết tật. Một số gia đình thường bao bọc quá mức, hoặc tập trung đầu tư và hỗ trợ cho những người con không khuyết tật thì có thể gây áp lực cho người 18 khuyết tật về vấn đề tâm lý, vì họ thường không có thu nhập mà lại gây ra gánh nặng cho gia đình. Trong cộng đồng, nhiều người coi người khuyết tật là đáng thương hoặc do những sai lầm ở kiếp trước “tật nguyền”, “quả báo”, không có cuộc sống bình thường là “gánh nặng” của xã hội [43, tr.24]. Ở trường học thường thì không nhận những học sinh khuyết tật hoặc không đủ điều kiện dạy học sinh khuyết tật mà họ phải đi học tại trường dành riêng cho người khuyết tật, đôi khi là ở quá xa nhà, hoặc quá ít trường chuyên biệt như vậy, nên họ không thể theo học được. Đây có lẽ cũng là một thiệt thòi lớn đối với người khuyết tật khi không được nhận sự giáo dục đầy đủ nhất. Đối với một số người khuyết tật có việc làm thì việc kỳ thị không giao việc cho người khuyết tật, hoặc nhận người khuyết tật vì mục đích từ thiện nhân đạo cũng diễn ra phổ biến do e ngại rằng họ không đủ năng lực để làm, nhiều khi dẫn đến làm họ chán nản công việc và không được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nên trình độ không đáp ứng được điều kiện làm việc và cuối cùng họ phải nghỉ việc dẫn đến thất nghiệp. Ngoài ra thì hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật còn rất hạn chế, thực tế cho thấy sự khác biệt lớn giữa nhu cầu của người khuyết tật và những giúp đỡ mà họ nhận được. Những hoạt động hỗ trợ thường mang tính từ thiện, phát DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Thị Báo (2007), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Báo (2007), “Pháp luật về quyền con người khuyết tật và vai trò của nó trong thực hiện quyền của người khuyết tật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), tr.18-21. 3. Nguyễn Thị Báo (2007), “Quyền của người khuyết tật trong văn kiện quốc tế 19 về quyền con người”, Tạp chí Luật học, (10), tr.3-8. 4. Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội (2010), Thông tư số 24/2010/TTLTBLĐTBXH-BTC ngày 18/8/2010 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP, Hà Nội. 5. Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội (2015), Sơ kết 5 năm thực hiện Luật Người khuyết tật và đánh giá giữa kỳ Đề án 1019 năm 2015, Hà Nội. 6. Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội (2014), Thông tư liên tịch số 29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 24 tháng 10 năm 2014 Hướng dẫn thực hiê ̣n một số điều của Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội. 7. Anh Chi (2012), Việt Nam có số người khuyết tật cao hơn khu vực châu Á – Thái Bình Dương, http://www.nhandan.com.vn, (truy cập 19/7/2016). 8. Nguyễn Đức Chiện (2012), Thành công và bất cập trong chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên, http://vnclp.gov.vn, (ngày truy cập 23/8/2016). 9. Chính phủ (1995), Nghị định số 81/CP ngày 23/11/1995 hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động người tàn tật, Hà Nội. 10. Chính phủ (2000), Nghị định 07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội, Hà Nội. 11. Chính phủ (2007), Nghị định của Chính số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội. 12. Chính phủ (2010), Nghị định của Chính phủ số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định của Chính số 67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội. 13. Chính phủ (2012), Nghị định của Chính phủ số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/04/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành của Luật Người khuyết tật, Hà Nội. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất